Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Ba, 18 tháng 3, 2025

Thêm Một Ngôi Sao Bộ Môn Hội Họa VN Vừa Tắt: Họa Sĩ Hồ Thành Đức, (Chồng Của Họa Sĩ Bé Ký) Vừa Qua Đời! và Kính Chuyển Tin Tức Thế Giới Đó Đây Theo Dòng Thời Sự - Lê Văn Hải


Tin Buồn Văn Nghệ: Họa sĩ nổi tiếng Hồ Thành Đức, từ trong nước, ra đến hải ngoại, vừa qua đời! hưởng thọ 85 tuổi! *Hồ Thành Đức & Bé Ký, đây là một cặp vợ chồng nghệ sĩ hiếm hoi, cả hai đều là họa sĩ, nổi danh nhất tại miền Nam Việt Nam trước đây, cũng như ở hải ngoại sau này. -Anh Hồ Thành Cung, con trai cố họa sĩ xác nhận qua Facebook như sau: “Hồ Thành Đức mất trong bệnh viện Kaiser Permanente Riverside vì triệu chứng giai đoạn cuối bệnh mất trí nhớ (Alzheimer’s) lúc 6 giờ 30 phút sáng Thứ Hai, ngày 17 Tháng Ba, 2025.”
<!>
Họa sĩ Hồ Thành Đức là phu quân của họa sĩ Bé Ký, người qua đời hồi Tháng Năm, 2021. Đây là một trong ít cặp vợ chồng họa sĩ nổi danh tại miền Nam Việt Nam trước đây cũng như ở hải ngoại sau này.
Theo bekyhothanhduc.blogs pot.com, họa sĩ Hồ Thành Đức sinh năm 1940 tại Đà Nẵng, mồ côi từ lúc 2 tuổi, sống trong nghèo khó, và trưởng thành một cách chật vật tại một đất nước bị xâu xé vì chiến tranh.

Ông tốt nghiệp Cao Đẳng Mỹ Thuật Quốc Gia Sài Gòn. Ông là sáng lập viên đồng thời là chủ tịch Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam (1968-1975), giáo sư hội họa Viện Đại Học Vạn Hạnh (1969-1975), khoa trưởng ngành Họa Thực Tiễn tại Đại Học Phương Nam (1974-1975).
Ông đến Mỹ cùng với gia đình định cư tại Orange County, California, năm 1990.

Ông từng đoạt giải nhất Triển Lãm Mùa Xuân ở Sài Gòn năm 1963. Đoạt giải cao nhất tại Triển Lãm Công Giáo Quốc Gia ở Sài Gòn năm 1964, và giải thưởng cao nhất tại Triển Lãm Hội Họa Tôn Giáo Quốc Gia Việt Nam năm 1973.
Ông cũng từng tổ chức triển lãm tranh tại nhiều nơi như Ấn Độ, Sri Lanka, Đài Loan, Nhật, Philippines, và nhiều tiểu bang của Hoa Kỳ.
Trên trang blog cá nhân của mình, họa sĩ Hồ Thành Đức bày tỏ: “Nghệ thuật là ngôn ngữ quốc tế. Nó là cách để diễn tả những suy nghĩ bí mật của chúng ta. Trong nghệ thuật, sự đau đớn kéo dài hơn niềm vui.”

Hiếm lã, họa sĩ Bé Ký, hiền thê của ông, xuất thân cũng mồ côi như ông.
“Cung cách của Bé Ký và Hồ Thành Đức thể hiện xuất phát từ những năm mồ côi hồi còn nhỏ. Bé Ký thể hiện hình ảnh gia đình bà chưa bao giờ có trong khi Hồ Thành Đức cho thấy một sự cô đơn vì không có cha mẹ trong hoàn cảnh chiến tranh, mặc dù tranh của ông sau này thể hiện một sự chữa lành và gắn kết, với hy vọng về tương lai,” theo trang blog cá nhân của hai vợ chồng họa sĩ.
Cho đến nay, họa sĩ Hồ Thành Đức thực hiện được hơn 300 tác phẩm hội họa. Ngoài ra, ông cũng là một nhà thơ, với những bài thơ nói về tâm trạng của mình với đất nước, cha mẹ…
Trong chốn bạn bè, ông được nhiều người biết qua tài làm thơ và kể chuyện tiếu lâm.


Chút Tiểu sử về Họa sĩ Hồ Thành Đức
(Mặc Lâm)


(tranh Hồ Thành Đức)
-Họa sĩ Hồ Thành Đức sinh năm 1940 tại Đà Nẵng, Quảng Nam. Ông tốt nghiệp Cao Đẳng Quốc Gia Mỹ Thuật Sài Gòn, sáng lập viên đồng thời là chủ tịch của Hội Họa sĩ Trẻ Việt Nam (1968-1975), Giáo sư hội họa Viện Đại Học Vạn Hạnh (1969-1975), Khoa trưởng ngành Họa Thực Tiễn tại Đại Học Phương Nam (1974-1975). Ông đến Mỹ cùng với gia đình năm 1989 và hiện nay đang sống cùng với vợ là Họa sĩ Bé Ký và gia đình tại tiểu bang California.
Ông đã có rất nhiều cuộc triển lãm trong và ngoài nước. Tranh của ông cũng có mặt tại nhiều viện bảo tàng danh tiếng trên thế giới trong đó phải kể đến Viện Bảo Tàng Nghệ Thuật Smithsonian tại thủ đô Washington. Tranh của ông được đánh giá cao bởi nhiều cây bút phê bình hội họa trong và ngoài nước.

Giới hoạt động mỹ thuật tại Việt Nam từ xưa đến nay không ai quên ngôi trường mỹ thuật đầu tiên tại Hà Nội do ông Victor Tardieu thành lập vào năm 1925, đó là trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương. Những ảnh hưởng lớn lao của ngôi trường này từ những lớp đầu tiên kéo dài nhiều thế hệ họa sĩ trong Nam lẫn ngoài Bắc. Những tên tuổi lớn như Bùi Xuân Phái, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Sáng và Tô Ngọc Vân....Tuy non trẻ nhưng những họa sĩ của lớp tiên phong này đã tạo được sự tin tưởng của lớp trẻ vào nền mỹ thuật nước nhà lúc đó vẫn còn lệ thuộc rất nhiều vào các trường phái mỹ thuật lúc đó tại Pháp, mà nổi bật nhất là trường phái ấn tượng với các danh họa như Claude Monet, Pissarro, Cézanne hay Renoir...

Phải biết chê tranh trong viện bảo tàng và phải biết khen nó như thế nào, chớ không phải chúng ta cứ đinh ninh mấy ông đó là thầy ta thì ta không thể nào vượt được, vì hoàn cảnh lúc bấy giờ là như vậy.
Ảnh hưởng này bắt nguồn từ Victor Tardieu, hiệu trưởng đầu tiên của trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương, ông đã xây dựng chương trình học của trường trên khuôn mẫu của L'Ecole des Beaux Arts tại Paris, và mang theo ảnh hưởng của chủ nghĩa Ấn Tượng Pháp vào Việt Nam với một lòng nhiệt thành đối với sinh viên người bản xứ.
Nhiều họa sĩ Việt Nam trong thời kỳ này bị ảnh hưởng nặng nề lối tư duy cũng như đường nét mà họ lĩnh hội tại Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương, và họ mang cách nghĩ, cách vẽ này truyền lại cho nhiều thế hệ sau này qua các lớp hội họa từ các trường cao đẳng mỹ thuật trong Nam ngoài Bắc.

Sáng lập Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam
Một sự kiện đáng chú ý nhất của hội họa Miền Nam Việt Nam trước năm 1975 là việc thành lập Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam tại Sài Gòn vào năm 1968. Một nhóm họa sĩ ưu tú tại Miền Nam lúc đó có người đã ra trường, có người còn theo học tại Trường Mỹ Thuật Gia Định đã tập hợp nhau lại thành lập một hội nghề nghiệp mang tên là Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam. Những khuôn mặt tài năng như: Nguyễn Trung, Rừng, Mai Chửng, Nguyên Khai, Vy Cao Uyên, Hồ Hữu Thủ, Đỗ Quang Em, Đinh Cường đều là thành viên đầu tiên của tổ chức này. Một trong những người đứng ra thành lập là họa sĩ Hồ Thanh Đức.
Phát xuất từ những thay da đổi thịt liên tục của hội họa thế giới, những họa sĩ trẻ lúc đó cảm thấy bị vây quanh bởi những ý niệm lỗi thời cũng như những tư duy xơ cứng của các người thầy trên bục giảng. Sự thôi thúc tìm một hướng đi mới trong hội họa đã làm ra đời Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam lúc đó và ngay lập tức nhiều tên tuổi đã nổi lên góp vào sự hình thành một nền văn nghệ sáng tạo mới. Song song với chiến tranh nhưng không phải tranh của họ lúc nào cũng minh họa hay lấy nguồn hứng khởi từ cuộc chiến. Những họa sĩ này đã đa dạng hóa khuôn mặt mỹ thuật Miền Nam bằng nhiều cách khiến cho nó có tiếng nói riêng, diện mạo riêng và nhất là phong cách riêng so với trước đó.

Nhớ lại việc này, Họa sĩ Hồ Thành Đức cho rằng nguyên nhân sâu xa đi đến sự hình thành của Hội là các họa sĩ muốn thay đổi, thay đổi những gì mà họ cho là xưa cũ là lỗi thời:
“Phải biết chê tranh trong viện bảo tàng và phải biết khen nó như thế nào, chớ không phải chúng ta cứ đinh ninh mấy ông đó là thầy ta thì ta không thể nào vượt được, vì hoàn cảnh lúc bấy giờ là như vậy.”
Xuất thân từ trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế
Ông cũng kể lại con đường nào đã dẫn ông vào thế giới hội họa:
“Tôi ra Huế học vào khóa thứ ba, tức vào năm 1959-1960 của Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế. Tôi là đứa trẻ mồ côi từ Quảng Nam ra Huế học chứ không phải là con nhà giàu Quảng Nam được ra Huế học, thành thử khi tôi vào Trường Mỹ Thuật Huế là đúng với lại ước mơ và năng khiếu của tôi, nhưng mà tôi thiếu rất nhiều phương tiện về sơn, về mực này khác. Và sự tưởng tượng của tôi trong tranh rất là phong phú, cho nên khi tôi vào Nam thì ngoài bao nhiêu tranh ảnh màu sắc ra tôi chợt nghĩ thấy phải làm tranh trong cảnh của nhà nghèo. Có kỳ tôi đi qua đường thấy những miếng giấy màu trong tờ báo này khác, tại sao tôi không ghép để trở thành bức tranh? Thành ra câu chuyện tôi làm tranh giấy dán (tranh “coula”, tiếng Pháp gọi là “coula”) là một sự cùng tắc biến mà thôi chớ không phải là trường phái. Nhưng mà trong việc làm của tôi với lại sự suy nghĩ của tôi có đáp ứng được lòng mơ ước của tôi và năm 1963 tôi dự bức tranh đầu tiên, tôi vẽ cảnh sau giáo đường thì tôi được giải thưởng toàn quốc huy chương đồng của Mùa Xuân. Và từ đó tôi lên từ trường phái của tôi, tức là trường phái tôi làm “coula”mà một mình tôi, tôi tiếp tục con đường đó. Nhờ một mình một chiếu như vậy cũng là điều làm cho tôi có tiếng tăm với anh em. Rồi đến hôm nay thì tôi đã làm được 327 bức tranh, và tôi làm được 104 bài thơ kèm theo, thì tất cả những cái đó là sự thật của tôi, là mỗi bức tranh của tôi là có một lý lịch của nó. Tôi vẽ tranh, bán ở chỗ nào, tôi để ở đâu, ai mua, tôi đều ghi lại hết.

Tranh của Hồ Thành Đức được người xem đồng cảm ở màu sắc là điều dễ nhận ra nhất. Hầu như ông chỉ sử dụng những gam màu sáng tươi trong những hy vọng cùng những con đường nhẹ nhàng dẫn người xem vào bên trong thế giới nội tâm của khung vải. Hồ Thành Đức thành công ở thể loại acrylic hơn là ở các chất liệu khác. Ông chạy theo sự quyến rũ xảy ra cấp thời ngay sau những nhát vẽ đầu tiên cho đến khi kết thúc. Sự nhạy cảm với màu sắc đã giúp ông phân biệt một cách tài tình giữa những khoảng tối cần nhấn mạnh để các góc sáng trở nên tinh tế hơn gây cảm giác mở ra những câu hỏi mà người xem có thể tự đặt cho chính mình.
Hồ Thành Đức cũng tỏ ra khá nhạy bén trong những đề tài mà ông khai thác. Từ mùa xuân của những sắc áo tươi trong da thịt, ông nhẹ nhàng tiến vào những thao thức thân phận ngàn năm của người nghệ sĩ và những dấu hỏi lớn không phai được ông phác thảo trên nền canvas qua hình ảnh của đá, của thiên nhiên, của ánh sáng, hoặc của khung xương cơ thể con người hay thần vật.

Rồi đến hôm nay thì tôi đã làm được 327 bức tranh, và tôi làm được 104 bài thơ kèm theo, thì tất cả những cái đó là sự thật của tôi, là mỗi bức tranh của tôi là có một lý lịch của nó. Tôi vẽ tranh, bán ở chỗ nào, tôi để ở đâu, ai mua, tôi đều ghi lại hết.
Hình ảnh của Phật, của Giê Su và những suy tưởng về đời sống tâm linh cũng chiếm một phần không nhỏ trong tranh Hồ Thành Đức. Ông nhìn các đấng chí tôn với đôi mắt sắc sảo của người bị hành xác trên nẻo đường tục lụy qua chính đời thực của mình. Thấu hiểu sự cô đơn cùng cực của nghèo nàn và tối tăm là chất xúc tác khiến ông thể hiện ánh mắt của Phật từ bi hơn và sự đau đớn trên năm vết thương của Chúa bén lạnh hơn những tranh tượng bình thường. Ông không khai thác hình ảnh cuộc khổ nạn với cách nhìn hời hợt nhưng bằng sự cảm nhận đặc biệt của người nghệ sĩ, ông kể lại đoạn đường thánh giá theo cách than vãn thống hối và đớn đau chung với giòng máu đỏ nay đã thẩm đen qua con tim và nét vẽ của một người ngoại đạo.

Như nhiều họa sĩ Việt Nam trong cùng thời đại với ông, niềm hứng khởi của Hồ Thành Đức cũng thường lập đi lập lại trên đối tượng người nữ mà ông và bạn bè ông như Đinh Cường, Nguyên Khai, Nguyễn Trung, hay Rừng cùng đồng cảm. Hồ Thành Đức nhìn người nữ dịu dàng và đôi khi dè dặt. Những đường viền của tóc hay của môi trên chân dung người nữ trong tranh ông thường được chăm chút cẩn thận với một dụng ý khá rõ là nhằm tăng thêm nữ tính trong từng vết cắt của màu sắc. Ít khi Hồ Thành Đức để cho người nữ của mình im lặng hay bị buộc phải im lặng. Ông đưa hơi thở của nét, của màu, của ánh sáng vào nhân vật khiến người nữ trong tranh ông chừng như muốn bước ra, tung tăng với gió ngàn hay bước ra chỉ trong một khoảnh khắc để đối thoại với người đang đối diện với mình.

Nét sống động trên khuôn mặt mà họa sĩ diễn tả không dính gì tới cách vẽ truyền thần mà nhiều người vẫn thường trầm trồ. Hồ Thành Đức đi theo con đường khác, ông dẫn người xem tranh của ông vén lá để nhìn hoa, lật đá để tìm sức sống bên dưới hay trầm tư để những minh triết nở rộ trong tư tưởng. Suy tưởng khi nhìn tranh của ông là yêu cầu đầu tiên mặc dù mới thoạt nhìn thì tranh Hồ Thành Đức rất đơn giản và hiển thị.
Họa sĩ Hồ Thành Đức đã đi qua một đoạn đường rất dài và ông cũng là chứng nhân của nhiều cuộc biến động từ chính trị, lịch sử đến thăng trầm của nền hội họa nước nhà. Ông đã có tranh trong nhiều bảo tàng viện nhằm góp tiếng nói hiếm hoi của mỹ thuật Việt Nam vào nền mỹ thuật thế giới. Tuy thế, niềm thao thức về một sức sống mới đẩy hội họa Việt Nam lên cùng nhịp điệu của thế giới vẫn luôn bên cạnh ông trong những ngày còn lại nơi xứ người.


Cặp đôi văn nghệ hiếm có: “Bé Ký & Hồ Thành Đức” Mối tình hai nghệ sĩ… cầm cọ!
(Trần Yên Hòa)


-Tại Sài Gòn, một buổi chiều năm 1965, họa sĩ Hồ Thành Đức mở cuộc triển lãm đầu tiên. Buổi chiều, bên ngoài phòng tranh, nắng bắt đầu dịu dần, phòng triển lãm vắng khách. Hồ Thành Đức lơ đãng đi dạo quanh phòng, thì cánh cửa chợt mở, một người con gái bước vào. Nàng ăn mặc rất giản dị, nếu không nói là quê mùa, tóc kẹp buông thả dài sau lưng. Nàng đến xem từng bức tranh treo trên tường.
Mới nhìn người con gái, Đức thấy lạ, nhưng khi nàng dừng lại ngắm từng bức tranh, anh mới chợt nhớ ra, khuôn mặt nàng là một hình ảnh quen thuộc anh thường thấy trên các báo, kể cả những tờ báo ngoại quốc. Ô! anh nhớ ra rồi. Đó là họa sĩ "đường phố" Bé Ký. Bé Ký đã nổi tiếng qua các bài giới thiệu qua nét vẽ đặt biệt của cô


Đức khấp khởi vui trong lòng, nhưng anh cũng cố làm mặt tỉnh.
Đức đến gần cô gái, như người chủ phòng tranh đến giới thiệu tranh mình đến với khách thưởng ngoạn. Anh vừa định lên tiếng thì cô gái đã nói trước:
- Anh là họa sĩ Hồ Thành Đức? Phòng tranh có vẻ vắng quá há?
Đức nói như muốn thanh minh, về sự thành công của cuộc triển lãm này:
- Thưa cô! Không đâu cô, buổi sáng và trưa nay khách đến xem tranh rất đông. Tôi đã bán được một số tranh khá nhiều. Bây giờ là buổi chiều nên hơi vắng.
Anh cố làm ra vẻ bằng lòng với câu trả lời của mình. Nói xong anh nở một nụ cười thật tươi, nhưng cô gái vẫn im lặng không đáp lễ. Cái im lặng của cô gái ghi nhận một sự đứng đắn, nhưng không lạnh lùng. Cô nhìn quanh phòng tranh và tiếp tục chăm chú xem từng bức tranh.


Anh tỏ vẻ thân mật, muốn mời cô gái ký vào tập ghi chữ ký lưu niệm của khách, thì bỗng nhiên cô gái hỏi:
- Anh có biết tôi là ai không?
Dù biết đây là Bé Ký, nhưng Hồ Thành Đức vẫn cố dấu. Anh trả lời:
- Thưa cô! Thật lấy làm tiếc, xin lỗi cô là ai?
Cô gái sửa lại mái tóc, nhìn anh cười:
- Tôi là Bé Ký.
Đức suýt xoa, nói như một sự xin lỗi vì sự không quen biết này:
- A, thế ra cô là Bé Ký, họạ sĩ đường phố. Thế là chúng ta cùng một nghề, nghề cầm cọ.
Trả lời xong, Đức thấy lòng mình yên ả, nhẹ nhàng. Một tình cảm ùa vào tâm hồn anh, như một luồng gió mát len vào căn phòng trưng bày, chỉ có hai người.

Anh hỏi tiếp người con gái xưng mình là Bé Ký.
- Hôm nay cô không ra Catinat, Lê Lợi để vẽ tranh à?
Cô gái cười hiền hậu. Rồi cô nói như một tâm sự:
- Không anh ạ, mấy hôm nay tôi không ở Sài Gòn. Tôi ở Ban Mê Thuột mới về, về cốt để xem phòng tranh của anh đó.
Hồ Thành Đức reo vui trong bụng. Bé Ký đã là một họa sĩ nổi tiếng, có thể tên tuổi của nàng nổi trội hơn anh bây giờ. Dù anh đã học Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế, rồi Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn, nhưng đây là lần đầu tiên anh triển lãm, trong lúc đó, Bé Ký đã có cuộc triển lãm đầu tiên từ năm 1957 và sau đó đã có triển lãm nhiều lần nữa.
Từ cuộc gặp gỡ đầu tiên, như có một sợi dây vô hình, như là định mệnh, đã gắn kết tình yêu của hai người lại với nhau, dù trước đó, Đức đã có bạn gái, nhưng anh cũng cho qua, để đến với Bé Ký, như một tình yêu đầu đời, với sự trong sáng, giản dị, chân thành của Bé Ký. Sau khi tìm hiểu nhau, cả hai biết cùng đồng cảnh ngộ, đều là trẻ mồ côi.

Và lễ cưới diễn ra. Họ nhà trai không có ai, họ nhà gái cũng vậy. Khách mời toàn là bạn bè từ các bạn văn nghệ, các họa sĩ thân quen, đến các bạn là nhà văn, nhà thơ, nhà báo, cùng đồng hương Quảng Nam Đà Nẵng...
Đám cưới thế mà vui, rôm rả tiếng cười nói, của đám bạn trẻ. Và lời chúc tụng hai người hãy sống với nhau đến đầu bạc răng long.
(viết dựa theo ý một bài của Luân Hoán)
Và đúng như vậy, từ 1965 đến nay 2021, đúng là 56 năm, một cuộc tình dài lâu, dù trải qua nhiều biến đổi của đất nước, có vượt biên, có tù tội... Nhưng cuối cùng gia đình Hồ Thành Đức - Bé Ký vẫn qua được bến bờ tự do, đã định cư tại Midway City, California, Hoa Kỳ, từ năm 1989 đến nay.

"Biết"


Tôi "biết" tên Bé Ký từ những ngày còn nhỏ, khi đọc trên tờ Thế Giới Tự Do ở thư viện quận lỵ nơi tôi ở. Tờ Thế Giới Tự Do in đẹp, giấy láng tốt. Tờ báo giới thiệu Bé Ký một cách trang trọng, dành 2, 3 trang gì đó. Với sự ăn mặc giản dị, Bé Ký đi trên đường phố Sài Gòn, vẽ tranh và bán cho khách qua đường. Tôi chỉ biết về Bé Ký như vậy, nhưng qua xem tranh của chị trên tờ Thế Giới Tự Do, tôi rất thích vì tất cả đề tài chị vẽ, đều gần gũi với quê hương Việt Nam, như Mẹ và con, Chọi gà, Mẹ chải tóc cho con, Giã biệt, Che dù, Đi chợ mua bông sen...
Với Hồ Thành Đức thì tôi cũng chỉ nghe tên anh trong những bản tin hội họa trên các báo. Nổi đình nổi đám nhất là lúc Hồ Thành Đức làm chủ tịch hội họa sĩ Trẻ (trước 1975)...

Ở Mỹ, khoảng những năm 2001, 2003, tôi phụ trách tờ Đặc San Quảng Nam Đà Nẵng, Hồ Thành Đức năm nào cũng sốt sắng đóng góp bài vở, anh không có cái kiêu hãnh của người đã nổi tiếng, là người họa sĩ đã thành danh.
Rồi những ngày sau, là ngồi cà phê. Cách đây khoảng hơn 15 năm, Hồ Thành Đức thường đến cà phê F. Anh đến một mình, đi xe buýt nhiều chặng để đến, khi về, có anh em nào rảnh, cùng đường, thì cho anh quá giang về. Còn không, anh đón xe buýt về.
Ngồi với Hồ Thành Đức, nghe anh nói chuyện, cũng là một niềm vui, vì anh nói rất sa đà…Nói về anh, về Bé Ký, hay những quen biết thơ văn với các tác giả khác. Anh nói thao thao bất tuyệt, có những giai thoại rất hay về các tác giả khác, như về Bùi Giáng, về Nguyễn Đức Sơn. Anh mê thơ Bùi Giáng nên anh thuộc nhiều thơ Bùi Giáng. Hồ Thành Đức có một trí nhớ rất tốt là thuộc lòng nhiều thơ của các tác giả mà anh thích.

Sau đó, Hồ Thành Đức có thực hiện một tuyển tập tranh, lấy tên là Ngựa Trắng Đi Khuya, anh bỏ công hàng năm trời để “thực hiện cho bạn bè văn nghệ” tập này. Mỗi nhà thơ, nhạc sĩ, anh lấy một số đoạn thơ, hay một lời nhạc anh thích, rồi ghép với tranh của mình, để thành tuyển tập.
Sau khi thực hiện xong, anh muốn in tập này trong nước, nhưng qua "gọng kìm kiểm duyệt" trong nước, sách không được cho in. Sau đó anh chọn lọc lại, và in ở hải ngoại.


Tôi được anh biếu một cuốn, trong sách được anh dành cho 1 trang, với bức họa của anh có tên là Đá Đam Mê với 2 đoạn thơ trong bài thơ Uyên Ương của tôi:

Em hương nhụy hồng hoa ta hãy hái
Chùm môi thơm từng cánh rã trên tay
Lòng hoang tưởng mùa thu em thức dậy
Bàn tay mềm cho tình ái mê say

Ta hát khúc uyên ương trên đồi cọ
Giữa mùa thu trùng điệp ánh sao rừng
Lòng đã mở tan hoang bài ca cũ
Khúc tình tang trùng khuất giữa mùa xuân

Lần đầu tiên tôi đến nhà Hồ Thành Đức để mượn anh một số tranh nhân ngày họp mặt đoàn tụ của các cựu học sinh liên trường Quảng Nam Đà Nẵng sắp tổ chức, tôi mới diện kiến họa sĩ Bé Ký. Dáng chị nhỏ con, gương mặt hiền lành. Thấy tôi đến chị ra chào hỏi vui vẻ. Giọng nói Bé Ký toát ra vẻ chơn chất của người đàn bà thực thà. Chị nói chuyện khoảng 5 phút là chị trở vào phòng, để tôi nói chuyện với chồng. Anh Đức đã dẫn tôi đi xem phòng tranh của anh và Bé Ký. Căn phòng khách chứa đầy tranh.
Sau đó, tôi đến nhà thăm và xem tranh Hồ Thành Đức & Bé Ký nhiều lần. Mỗi lần đến chị Bé Ký đều ra tiếp, vẫn với nụ cười hồn hậu, với khuôn mặt hiền lành, chị cũng chỉ hỏi thăm vài ba câu rồi rút vào trong phòng. Hình ảnh Bé Ký tôi chỉ nhận được có thế.
Khoảng 2, 3 năm gần đây, Hồ Thành Đức không đi uống cà phê nữa. Nghe nói vì tuổi già nên anh yếu sức, lại có bịnh Alzheimer nên không đón xe buýt được nữa. Về Bé Ký, nghe nói chị cũng yếu, và cũng bị Alzheimer.


Cho đến vào chiều Thứ Tư, 12 Tháng Năm, 2021 vừa qua, họa sĩ Bé Ký qua đời tại nhà, ở thành phố Midway City, hưởng thọ 83 tuổi.
Trong lời với phóng viên báo Người Việt, anh Hồ Thành Cung, con trai của anh chị, kể: "Mẹ mất vào khoảng 2 giờ đến 6 giờ chiều. Tôi về nhà thì thấy bà mất trong lúc ngủ và đang nắm tay ba."
Chỉ từng đó chữ, mà cảm động biết bao nhiêu, khi Bé Ký ngủ và "đi" luôn, trong lúc còn nắm tay chồng


Xúc động thay với tình yêu gắn bó của cặp vợ chồng cầm cọ này!


Nói Chút Về Thơ Hồ Thành Đức
(Trần Yên Hòa)
Lời thưa!
Nhận được Tin Buồn: Họa Sĩ Hồ Thành Đức vừa mất tại Thị Trấn Giữa Đàng (Midway City), lúc 6:30 am, CA, Thứ Hai vừa qua, ngày 17-3-2025.
Hưởng Thọ 85 tuổi.
Để tưởng nhớ về ông tôi xin gởi đăng lại bài này, viết về thơ Hồ Thành Đức.
Xin Thành Kính Chia Buồn cùng gia đình.


-Khi viết về Hồ Thành Đức, ai cũng sẽ nghĩ tôi sẽ viết về một họa sĩ, trong hành trình gần năm mươi năm ông sống và vẽ. Vẽ, đó là cuộc đời ông, gắn liền với nữ họa sĩ Bé Ký, người vợ hiền của ông.
Dĩ nhiên khi nhắc đến Hồ Thành Đức, là phải nhắc đến những công trình hội họa.
Họa sĩ Hồ Thành Đức sinh năm 1940 tại Đà Nẵng, Quảng Nam. Ông tốt nghiệp Cao Đẳng Quốc Gia Mỹ Thuật Sài Gòn, sáng lập viên của Hội Họa sĩ Trẻ Việt Nam (1968-1975), Giáo sư hội họa Viện Đại Học Vạn Hạnh (1969-1975), Khoa trưởng ngành Họa Thực Tiễn tại Đại Học Phương Nam (1974-1975).
Ông đã có rất nhiều cuộc triển lãm trong và ngoài nước. Tranh của ông cũng có mặt tại nhiều viện bảo tàng danh tiếng trên thế giới trong đó phải kể đến Viện Bảo Tàng Nghệ Thuật Smithsonian tại thủ đô Washington. Tranh của ông được đánh giá cao bởi nhiều cây bút phê bình hội họa trong và ngoài nước.

Một sự kiện đáng chú ý nhất của hội họa Miền Nam Việt Nam trước năm 1975 là việc thành lập Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam tại Sài Gòn vào năm 1968. Một nhóm họa sĩ ưu tú tại Miền Nam lúc đó có người đã ra trường, có người còn theo học tại Trường Mỹ Thuật Gia Định, đã tập hợp nhau lại thành lập một hội nghề nghiệp mang tên là Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam. Những khuôn mặt tài năng như: Nguyễn Trung, Rừng, Mai Chửng, Nguyên Khai, Vy Cao Uyên, Hồ Hữu Thủ, Đỗ Quang Em, Đinh Cường, Nghiêu Đề, Hồ Thành Đức... đều là thành viên đầu tiên của tổ chức này.
Về tranh của Hồ Thành Đức, theo Mặc Lâm trong một bài phỏng vấn trên đài Á Châu Tự Do có nhận xét như sau: “Hồ Thành Đức cũng tỏ ra khá nhạy bén trong những đề tài mà ông khai thác. Từ mùa xuân của những sắc áo tươi trong da thịt, ông nhẹ nhàng tiến vào những thao thức thân phận ngàn năm của người nghệ sĩ và những dấu hỏi lớn không phai được ông phác thảo trên nền canvas qua hình ảnh của đá, của thiên nhiên, của ánh sáng, hoặc của khung xương cơ thể con người hay thần vật.”

Và công trình hội họa và thơ của Hồ Thành Đức được ông đúc kết như sau:
“Rồi đến hôm nay thì tôi đã làm được 327 bức tranh, và tôi làm được 104 bài thơ kèm theo. Tất cả những cái đó là sự thật của tôi, là mỗi bức tranh của tôi là có một lý lịch của nó. Tôi vẽ tranh, bán ở chỗ nào, tôi để ở đâu, ai mua, tôi đều ghi lại hết.”

Giải Thưởng:
1963 Huy Chương hạng nhất/l Mùa Xuân
1964. Phần thưởng danh dự triển lãm Công Giáo Quốc Tế.
Triển lãm nhiều lần chung và riêng tại Mỹ và các nước khác.
*
Hồ Thành Đức nhắc đến Thơ, nên hôm nay tôi có bài này viết về thơ ông.

Trước đây, và ngay bây giờ, Hồ Thành Đức luôn luôn là thành viên quen thuộc tại cà phê Factory mỗi thứ bảy, chủ nhật. Nhà ông ở từ đường Bolsa và Newland, ông không lái xe được nhưng ông là người thích bạn bè, bù khú với nhau bên ly cà phê buổi sáng, nên sáng thứ bảy, chủ nhật nào, nếu ông không có bạn bè đến đón, thì ông cũng đón xe buýt để đi uống cà phê. Nhờ những lần uống cà phê như thế này, nhóm anh em văn nghệ hay ngồi với nhau nói chuyện trên trời dưới đất, tôi mới biết đến ông, dù trước đó danh tiếng của Hồ Thành Đức và Bé Ký đã nổi, có thể nói, nhiều người biết đến rồi. Hồ Thành Đức, dù xa Quảng Nam Đà Nẵng lâu ngày, nhưng ông vẫn mang sắc thái Quảng Nam, con người Quảng Nam, giọng nói Quảng Nam. Điều này tôi rất yêu thích.

Khi tôi còn phụ trách tờ Đặc San Quảng Nam (những năm 2000-2003), mỗi dịp Tết thực hiện một số để kỷ niệm của Hội Đồng Hương Quảng Nam, Hồ Thành Đức lúc nào cũng sốt sắng đóng góp bài vở, ông không có cái kiêu hãnh (nói theo danh từ thời thượng là “chảnh”) của người đã nổi tiếng, là người đã thành danh - thành công về hội họa.
Sau đây là bài thơ tôi đọc đầu tiên của Hồ Thành Đức và là một bài thơ hay. (Ghi chú: bài thơ đầu tiên tôi đã đọc của Hồ Thành Đức chứ không phải bài thơ Hồ Thành Đức làm đầu tiên):

MÁU CHẢY VỀ TIM

Cứ ngỡ em về trong giấc mơ
Vàng son buổi trước lỗi câu thề
Ai đem khăn trắng treo đồi tím
Cây nhớ nhung buồn hoa nhớ hương
Trời khoanh một mảnh tình tan vỡ
Đất cũng cúi đầu rỉ vết thương
Ta biết! Rồi đây em sẽ thấu
Mối tình ngang trái đóng vào đinh
Giọt máu nào trên cây Thánh Giá
Nhỏ vào đời thấm nỗi oan khiên
Ta như chim bay hoài thấm mệt
Bỏ giáo đường mòn mỏi đức tin
Em, như giòng sông trôi chảy mãi
Rã cuộc tình gãy cánh uyên ương!
Từ buổi đó có cây nến lạ
Thắp giữa trời mười ngón đau thương
Từ buổi đó ta đi em ở lại!
Núi sông buồn cây cỏ hoang vu
Ta ở đây đất khách quê người
Nghe chim hót đau từng khúc ruột
Nghe kinh khuya thở cuộc đời buồn
Ước gì có cánh tay nghìn dặm
Níu tình em qua Thái Bình Dương
Ta cũng muốn trải dài cơn mộng
Để lỗi lầm về với ăn năn
Để trăng khuya trở lại đêm rằm
Để sáng dậy nghe chim ca hót
Để tình anh gặp lại đời em!
Xin hãy nhổ cây đinh oan trái
Giọt máu nào không chảy về tim.

(HỒ THÀNH ĐỨC)

(Trích trong tập tranh và thơ: "Ngựa Trắng Đi Khuya")

Hồ Thành Đức, dù Thơ ông không bằng tranh vẽ của ông, nhưng cũng khá hay như bài thơ trên.
Ngồi với Hồ Thành Đức, nghe ông nói, cũng là một niềm vui (nhưng cũng có người bực mình) vì ông nói rất sa đà… về ông, về Bé Ký, hay những hiểu biết thơ văn của ông với các tác giả khác. Ông nói thao thao bất tuyệt, có những giai thoại rất hay về các tác giả khác mà ông biết như về Bùi Giáng, về Nguyễn Đức Sơn. Ông mê thơ Bùi Giáng nên ông thuộc thơ nhiều của Bùi Giáng. Hồ Thành Đức có một trí nhớ rất tốt là thuộc nhiều thơ của các tác giả mà ông thích và ông kể chuyện Quảng Nam, cũng là một đề tài hấp dẫn.

Trong thời gian gần đây, Hồ Thành Đức nói có thực hiện một tuyển tập lấy tên là Ngựa Trắng Đi Khuya, ông bỏ công hàng năm trời để “thực hiện cho bạn bè văn nghệ” tập này. Mỗi bạn văn nghệ, nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ, ông lấy một số đoạn thơ hay, hay một lời nhạc hay, rồi ghép với tranh ông, để thành tuyển tập. Sau khi thực hiện xong, ông muốn in tập này trong nước, nhưng vì qua kiểm duyệt, tác phẩm không được cho in, ông bèn phải bỏ dỡ dang công trình này, thật đáng tiếc. Nhắc về công trình này của Hồ Thành Đức, nhà thơ Luân Hoán ghi lại như sau:

“Tác phẩm của Đức là những bản chụp tranh màu của anh được đi kèm với vài câu thơ, vài dòng nhạc, dòng văn của bạn bè. Dĩ nhiên toàn những anh chị đã thành danh lâu ngày với cuộc đời văn học, nghệ thuật. Tôi được Hồ Thành Đức dành cho 2 trang. Sách sẽ được in trên giấy tuyệt hảo nhất, do một nhà xuất bản uy tín ở quốc nội ấn hành ngay sau khi Đức hoàn tất. Tôi chia sẻ niềm vui cùng Đức và cũng như anh, tôi mong mỏi những tác phẩm có giá trị chóng được ra mắt bạn đọc. Đức cũng không quên kể với tôi sự thành công về tài chánh từ một họa phẩm anh bán được gần đây. Mừng cho bạn nhưng tôi chợt cảm thấy băn khoăn, vì những mẩu chuyện ấy, anh thỉnh thoảng nhắc lại, kể lại như mới nói lần đầu tiên. Sự chợt quên chợt nhớ hình như đã đến với Đức. Nhà thơ Đặng Hiền thì nói nhỏ với tôi về sự ảo tưởng của Đức. Ảo tưởng cũng là một điều thú vị, nhiều khi chúng ta cũng nên cần nó chút đỉnh.”

Tôi không hiểu trong đoạn văn này, Luân Hoán viết về chuyện Đặng Hiền nói “Hồ Thành Đức “ảo tưởng”, là ảo tưởng gì? Tôi nghĩ câu nói này ngụ ý là Hồ Thành Đức nói không thực, vẽ vời về mình? Sự thực chuyện đó có, nhưng vô hại, đó là do tính người “(nói) cho vui thôi mà”. Bùi Giáng thường nói vậy

Trong công trình tác phẩm Ngựa Trắng Đi Khuya của Hồ Thành Đức, tôi cũng được Hồ Thành Đức chiếu cố cho một trang, với bức tranh Đá Đam Mê của ông và 2 đoạn thơ trong bài thơ Uyên Ương của tôi:

Em hương nhụy hồng hoa ta hãy hái
Chùm môi thơm từng cánh rã trên tay
Lòng hoang tưởng mùa thu em thức dậy
Bàn tay mềm cho tình ái mê say

Ta hát khúc uyên ương trên đồi cọ
Giữa mùa thu trùng điệp ánh sao rừng
Lòng đã mở tan hoang bài ca cũ
Khúc tình tang trùng khuất giữa mùa xuân
*
Cuộc Tình của Vợ Chồng Hồ Thành Đức, Bé Ký

Về cuộc tình của Hồ Thành Đức và Bé Ký, theo Luân Hoán kể lại cũng rất thú vị, xin ghi lại sau đây:
“Trong tất cả những cuộc triển lãm, Hồ Thành Đức đều thu lượm được nhiều kết quả khả quan về tinh thần cũng như tài chánh. Nhưng đáng kể hơn hết là cuộc bày tranh lần đầu tiên. Lần đó, anh có thu hoạch bất ngờ và quá tuyệt vời

Hồ Thành Đức kể lại, vào một giờ vắng khách, anh đang lai rai dạo quanh phòng tranh, ngắm lại những tác phẩm của mình đang hít thở trên các mặt tường. Anh muốn chia sẻ với chúng những hồi hộp chờ đợi, những băn khoăn, nghi ngại, chợt anh thấy từ cửa phòng tranh xuất hiện một cô gái tóc kẹp, thả dài xuống lưng. Anh bất ngờ giật mình, nhưng làm tỉnh được ngay. Cô gái đã dừng trước họa phẩm thứ nhất, im lặng ngắm. Ánh nắng chiều của Sài Gòn hình như đang dịu lại. Những tiếng ồn ào của một thành phố sinh động cũng chừng như lắng xuống. Hồ Thành Đức tưởng chừng những tiếng bước thật khẽ của cô gái là những âm thanh hiện hữu duy nhất trong phòng tranh giàu linh hồn của anh... Đức thật tình không muốn rình rập người khách đặc biệt mà anh đã biết rõ là ai. Nhưng lòng anh cứ thắc thỏm. Và sự chờ đợi như được sắp xếp từ tiền định đã đến.
- Chào ông, phòng tranh có vẻ vắng quá.

Đức chợt tìm thấy ngay cái mau miệng lém lỉnh của mình:
- Không đâu thưa cô, có lẽ giờ này chưa được thuận tiện.

Anh cười dù cỏ vẻ hơi phật lòng. Cô gái không mỉm cười trả lễ, nhưng không lạnh lùng, cô nhìn quanh phòng tranh. Đức cũng đưa mắt theo chiều quan sát của người khách. Bình hoa màu vàng óng, đang ánh lên những tảng nắng ghé thăm. Chiếc khăn trải bàn trắng nõn. Đức thấy cây bút nằm hờ hững trên lòng tập đựng chữ ký lưu niệm. Anh đang định mời cô gái, thì bất ngờ nghe tiếng hỏi:
- Anh có biết tôi là ai không?

Chừng nửa giây ngập ngừng, Đức đáp chững chạc, tự nhiên;
- Thưa rất làm tiếc, xin lỗi cô là ai.

Không lưỡng lự, cô gái, giới thiệu mình:
- Tôi là Bé Ký
- A, thế ra cô là những họa sĩ của hè phố

Lẽ ra Đức phải có cái nụ cười tinh nghịch, châm chọc như thói quen. Nhưng không hiểu sao, lòng anh thấy yên ả, bình thản và có cái gì như ấm áp đang vây bọc lấy anh.
- Hôm nay cô không ra Lê Lợi, Catinat...?
- Không, mấy hôm nay tôi không ở Sài Gòn. Tôi vừa từ Ban Mê Thuột về đây, cốt yếu xem phòng tranh của anh.

Đức lượm được cái cảm động thật tình thứ nhất. Anh mơ hồ thấy sự bềnh bồng của hồn vía mình. Tảng nắng chiều đang ngả sang màu vàng nhạt, mở ra cho hai người họa sĩ một khoảng không khí tươi mát vừa đủ để nói chuyện đời.

Hoá ra chặng đời làm con nuôi của Bé Ký không được bằng phẳng dễ đi. Chị đã chịu đựng khá nhiều vất vả cũng như tủi nhục. Không chọn lựa sự giàu sang, nhưng "vừa ăn vừa khóc như mưa tháng mười" vẫn từng xảy ra. Chị đã mở hết một khoảng đời mình để cho người bạn họa sĩ vừa mới quen nhìn vào. Không hiểu vì sao họ chóng đọc được lòng nhau mau như vậy. Đức quên cô tình nhân đang có. Anh đưa người nữ họa sĩ của thủ đô Việt Nam Cộng Hòa về nhà. Và chẳng bao lâu sau. Anh chị cho bạn bè một bữa tiệc thân mật. Ngày cưới của Hồ Thành Đức, Bé Ký gần như không có họ hàng, bà con của cả hai bên. Họ sống chân tình với bằng hữu, nên trong ngày vui thật vô cùng đông đảo. Cánh bạn đồng hương Quảng Nam, cánh bạn họa sĩ, cánh bạn làm văn thơ, viết báo. Có cả những viên chức rủng rảng chức vụ, quyền uy. Ngày vui đó nằm trong năm 1965.”

*
Viết về thơ của Hồ Thành Đức tôi xin nói thêm, ông là người rất có tình với quê hương Việt Nam, nên khi ở quê nhà bị bão lụt, ông đã có bài thơ với tâm tình sâu nặng, sau đây:

Bão Lụt Lòng Ta

Thấy một người khăn sô trên báo Việt
Nơi đàn con chiu chít chỗ chia lìa
Chiếc quan tài người cha chưa tẩm liệm
Giữa khung trời bão lụt ở Thừa Thiên!
Nghìn cánh tay, vạn con mắt ưu phiền
Đang ngụp lặn trong bão bùng mưa thét
Đang chơi vơi hãi hùng trong gió rét
Một màu tang quấn chặt chốn quê nhà
Nhìn hung ảnh kia ta bỗng khóc òa
Như lúc bé hồi cha vừa mới mất!
Ta đinh ninh quê hương là có thật
Nên ruột rà khúc rốn vẫn chung nhau
Nên âm dương chia cắt vẫn một trời
Tình nghĩa ấy thấm ngầm trong tim phổi
Của loài chim bay, của con thú dữ
Biết ngậm ngùi khi đồng bọn đớn đau!
Chia cơm xẻ áo, nối lại nhịp cầu
Trong khổ ải mới tìm ra chân lý
Ai che mặt trời! Ai người ích kỷ
Thì hôm nay đốt lửa sưởi bàn tay!
Tình quê hương nhen nhúm những vơi đầy
Thâu góp lửa cho mặt trời ấm lại
Cho chim bay cho thuyền ra cửa ải
Người nối người lấp cạn hố thiên tai!
Để đêm đêm vơi bớt tiếng thở dài
Của đàn trẻ hôm qua vừa mất bố
Trăm vạn oan hồn, trôi sông lạc chợ
Chút hương đèn trở lại chốn dương gian!
Mẹ em ta còn chút nắng ngỡ ngàng
Sưởi ấm nốt những tháng ngày đau khổ
Của thiên tai, lửa bom và cơm áo
Chất chồn lên, cao ngút đỉnh Trường Sơn!
Mẹ ở Cali mẹ ở Sài Gòn
Nghe tin sét, lòng buồn không tả nổi!
Con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ
Áo cơm nhau, chia sẻ chút tình người.

Thơ Hồ Thành Đức tuy không được nhắc đến nhiều như nét vẽ của ông, nhưng cũng làm người người đọc cảm động.


Tin Quốc Tế Đó Đây
***
Quân Nổi Dậy Houthi Tấn Công Hàng Không Mẫu Hạm Mỹ Để Trả Đũa Vụ Oanh Kích Thủ Đô Yemen


(Ảnh AP, do Hải quân Mỹ cung cấp: Hoa Kỳ phóng phi đạn tấn công lực lượng Houthi-Yemen từ chiến hạm USS Harry S. Truman ở Hồng Hải ngày 15/3/2025.)
-Trong hai ngày 16 và 17/3/2025, theo thông tấn xã AFP, lực lượng nổi dậy Houthi thông báo đã hai lần tấn công bằng phi đạn vào hàng không mẫu hạm Mỹ USS Harry Truman tại vùng Biển Đỏ. Cuộc tấn công diễn ra sau khi Mỹ oanh kích thủ đô Sanaa, Yemen, khiến 53 người chết, trong đó có 5 trẻ em, và 98 người bị thương, theo phe nổi dậy.
Trước đó phe Houthi đã đe dọa tấn công tàu thuyền có liên hệ với Do Thái, sau khi chính quyền Do Thái không cho viện trợ nhân đạo vào dải Gaza, bị tàn phá vì chiến tranh từ hơn 1 năm nay. Hôm 16/3/2025, phát ngôn viên của Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc kêu gọi Mỹ và lực lượng Houthi "ngừng các hoạt động quân sự".
Thông tín viên Carrie Nooten của Ðài Phát Thanh Quốc Tế Pháp (RFI) tường trình từ New York (Hoa Kỳ):
"Đây chính là điều mà Liên Hiệp Quốc từng lo ngại, vì lực lượng Houthi đã cảnh báo họ "sẵn sàng đáp trả leo thang bằng leo thang". Lực lượng Houthi tuyên bố đã bắn 18 phi đạn và một drone tấn công hàng không mẫu hạm USS Harry Truman và hạm đội đi kèm ở phía Bắc Biển Đỏ, cũng như một loạt phi đạn-đạn đạo và phi đạn liên lục địa mới vào sáng sớm nay. Quân Houthi cảnh báo sẽ tấn công các tàu chở hàng của Mỹ ở Biển Đỏ chừng nào Hoa Kỳ còn "tiếp tục các hành động gây hấn".

Bộ chỉ huy quân sự Mỹ chưa xác nhận bất kỳ hoạt động tấn công hay thiệt hại nào, mà chỉ thông báo là lực lượng Mỹ vẫn tiếp tục chiến đấu chống "những kẻ khủng bố Houthi do Iran hậu thuẫn". Theo Hoa Thịnh Ðốn, hôm thứ Bảy (15/3), các cuộc không kích của quân đội Mỹ đã giết chết một số thủ lĩnh của Houthi.
Kể từ khi cuộc chiến ở dải Gaza bắt đầu, lực lượng Houthi đã thực hiện một số cuộc tấn công vào Do Thái hoặc các tàu thuyền bị cáo buộc có liên hệ với quốc gia này. Phe Houthi đã ngừng bắn kể từ lệnh hưu chiến ngày 19/01. Tuy nhiên, sau khi Do Thái từ chối cho phép viện trợ nhân đạo vào lãnh thổ Palestine hồi tuần trước, quân nổi dậy đã tuyên bố sẽ tiến hành trở lại các hoạt động tấn công, nhưng Mỹ ra đã ra tay trước".
Cuộc tấn công của Mỹ nhắm vào thủ đô Yemen diễn ra sau tuyên bố hôm 15/3 của Tổng thống Donald Trump, đe dọa dìm "quân khủng bố Houthi" xuống "địa ngục", và đòi Iran ngừng các hoạt động hậu thuẫn quân Houthi. Teheran đã lên án cuộc tấn công "man rợ" nhắm vào Sanaa và bác bỏ các đe dọa của ông Trump.


Tân Thủ Tướng Gia Nã Ðại Thăm Anh và Pháp Để Tăng Cường Quan Hệ Đồng Minh Với Âu Châu


(Hình REUTERS / Carlos Osorio: Tân Thủ tướng Gia Nã Ðại Mark Carney lên đường công du Pháp và Anh, ngày 16/3/2025.)
-Trong chuyến công du ngoại quốc đầu tiên, tân Thủ tướng Gia Nã Ðại Mark Carney chọn đến thăm Pháp và Anh trong 2 ngày 17 và 18/3/2025, mục tiêu là tăng cường mối quan hệ đồng minh với Âu Châu trong bối cảnh căng thẳng gay gắt với chính quyền Donald Trump.
Từ Montréal (Gia Nã Ðại), thông tín viên Nafi Alibert của Đài Phát Thanh Quốc Tế Pháp (RFI) tường thuật:
"Mark Carney đã chọn Paris để đánh dấu bước khởi đầu của ông trên trường quốc tế với tư cách là Thủ tướng Gia Nã Ðại. Hôm nay, 17/3/2025, ông hội kiến Tổng thống Pháp Emmanuel Macron và có buổi ăn trưa làm việc tại điện Elysée. Tiếp đến, ông đến Luân Đôn để trao đổi với Thủ tướng Anh Keir Starmer ngày mai. Ngoài ra, tân lãnh đạo Gia Nã Ðại còn có kế hoạch diện kiến vua Charles III.

Chương trình thảo luận bao gồm thương mại quốc tế và củng cố an ninh cho Âu Châu, mà Ukraine là hồ sơ căn bản, cũng như an ninh xuyên Đại Tây Dương.
Tại mỗi chặng dừng, Thủ tướng Gia Nã Ðại sẽ tìm cách tăng cường các mối liên minh kinh tế và quân sự thiết yếu đối với Gia Nã Ðại vào lúc cuộc chiến thương mại với Mỹ ngày càng gay gắt.
Mark Carney cũng hy vọng có được sự hậu thuẫn công khai từ Pháp và Anh Quốc đối với chủ quyền lãnh thổ của Gia Nã Ðại trước những lời đe dọa của Donald Trump đòi sáp nhập nước này vào Hoa Kỳ.
Sau Pháp và Anh, Iqaluit, thuộc vùng Bắc Gia Nã Ðại, sẽ là chặng dừng thứ ba trong chuyến đi của tân Thủ tướng Carney. Tại đây, ông sẽ tái khẳng định quyết tâm phòng thủ và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Gia Nã Ðại tại Bắc Cực".


HOA KỲ VÀ THẾ GIỚI: TIN NGẮN TỔNG HỢP



(Tin tổng hợp RFI)

- Lãnh đạo Ngoại Giao Nga-Mỹ điện đàm vài tiếng đồng hồ sau khi các đồng minh của Kyiv thống nhất "gây áp lực tập thể" với Nga. Cuộc điệm đàm của Ngoại trưởng Nga Sergueï Lavrov và đồng nhiệm Mỹ Marco Rubio diễn ra vào hôm 15/3/2025, nhằm thảo luận về "các bước tiếp theo" sau cuộc họp của phái đoàn ngoại giao cap cấp của hai nước tại Ả Rập Saudi. Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ, Tammy Bruce, cho biết đôi bên nhất trí tiếp tục hợp tác để tái lập đối thoại song phương, nhưng không nêu cụ thể ngày đàm phán tới đây của hai phái đoàn tại Ả Rập Saudi.
- Nam Hàn: Người biểu tình tuyệt thực phản đối việc trả tự do cho Tổng thống Yoon Suk Yeol. Hôm 15/3/2025, thông tín viên Camille Ruiz của Đài Phát Thanh Quốc Tế Pháp (RFI) cho biết khoảng 20 người đã cắm lều trại cả ngày và đêm trước điện Gyeongbokgung suốt cả tuần qua, từ khi ông Yoon Suk Yeol được ra khỏi nhà tù. Cũng vào hôm 15/3, hàng ngàn người thuộc cả hai phe, phe ủng hộ và phe chống Tổng thống Yoon, đều xuống đường tuần hành, ít ngày trước khi Tòa Bảo Hiến ra phán quyết chính thức về việc truất phế Tổng thống.
- Hung Gia Lợi: Thủ tướng Viktor Orban tuyên bố sẽ loại trừ các đối thủ chính trị, Thẩm phán, truyền thông và các các tổ chức phi chính phủ. Trong tuyên bố hôm 15/3/2025, Thủ tướng Hung Gia Lợi xem đó là "sâu mọt" nhận tiền tài trợ từ các nguồn "tham nhũng" của ngoại quốc. Viktor Orban khẳng định muốn "phá hủy cỗ máy tài chánh, nhờ vào những đồng Mỹ kim tham nhũng, đã mua chuộc các chính trị gia, Thẩm phán, nhà báo và các tổ chức dân sự

Không có nhận xét nào: