<!>
Sau hiệp định Geneva 1954, quân Pháp rút khỏi vùng bên kia sông Hồng, dân làng tôi, cũng như các làng khác trong vùng, bắt đầu được sống lại những ngày thanh bình như thuở xa xưa, và không còn bận tâm đến tên rơi đạn lạc nữa. Gia đình tôi đã trở về mái nhà xưa, nằm giữa một khu vườn khá rộng ở trong làng.
Được trở về mái nhà xưa, gia đình tôi thật vô cùng vui mừng, dù rất đau lòng trước cảnh hoang phế bởi chiến tranh, song chúng tôi cũng bắt tay ngay vào việc sửa sang, lấp bằng những hố sâu do đạn súng cối hay đại bác của quân đội Pháp tạo ra, phát quang những bụi rậm, sửa chữa những chỗ hư hại trên mái nhà. Chỉ vài tháng sau, cảnh hoang dại và trống vắng đã biến đi, bụi chuối, bờ tre đã lấy lại sức sống, những luống khoai xanh tươi đã mọc lên. Những tưởng chiến tranh đã chấm dứt, cuộc sống gia đình tôi cũng như dân làng tôi sẽ sung túc trở lại. Song nào ngờ, nỗi vui mừng được sống trong hòa bình của gia đình tôi, cũng như dân làng tôi chỉ kéo dài được một thời gian ngắn, ông Hồ và đảng CSVN đã vâng lời quan thầy Liên Xô và Trung Cộng đẩy dân làng tôi vào một cuộc Cách Mạng Ruộng Đất (CMRĐ) và được gọi với một cái tên mới, thoạt nghe đã làm nhiều người khiếp đảm, cuộc “Cách Mạng Trời Long Đất Lở.”
31/10/1952
Ngay sau khi được Stalin chấp thuận, trên đường về nước, ông Hồ đã ghé Trung Quốc, xin đàn anh Mao Trạch Đông và đảng CSTQ hỗ trợ cho chương trình này, bằng cách mở các lớp huấn luyện nghiệp vụ trước, cho một số cán bộ CCRĐ từ Việt Nam gửi sang, và cung cấp một đoàn chuyên gia làm cố vấn cho chương trình này khi được thực thi ở Việt Nam. Việc thực thi cuộc Cách Mạng Trời Long Đất Lở trong vùng quê tôi vào thời gian ấy, được chia ra làm 2 giai đoạn: Phóng Tay Phát Động Quần Chúng Đấu Tranh Chống Địa Chủ đòi giảm tô và CCRĐ Đích Thực.
Quê tôi, tuy thuộc Liên khu Bắc Việt, do ông Hồ và đảng CSVN kiểm soát kể từ tháng 8 năm 1945, nhưng lại nằm kế cận với vùng tạm chiếm của Pháp. Vì thế, các làng xã khác nằm xa vùng tạm chiếm đã thực thi xong giai đoạn I và giai đoạn II, thì làng tôi mới bắt đầu giai đoạn I vào nửa năm cuối của năm 1954. Sở dĩ làng tôi hay vùng quê tôi thực thi giai đoạn I cuộc CMRD trễ hơn các làng khác là vì ông Hồ và đảng CSVN e ngại rằng, nếu thực thi sớm hơn thì bọn địa chủ trong vùng tôi sẽ trốn chạy sang vùng kiểm soát của quân đội Pháp hết, nên phải đợi đến thời gian hiệp định Geneva 1954 có hiệu lực, và các đồn bót của quân đội Pháp phía bên kia sông Hồng và sông Đà đã rút hết về Hải Phòng, ông Hồ và đảng CSVN mới gửi các đội cán bộ phát động đến làng tôi và các làng lân cận.
Khi đội Phát Động được phối trí vào làng tôi và các làng lân cận, hầu hết dân làng không một ai hay biết, mà chỉ thấy lác đác một vài kẻ lạ mặt đi lang thang trong làng. Đồng thời với một sự kiện lạ mắt khác nữa là, những hàng cột tre, cao hơn đầu người, trên đầu mỗi cột mang những sợi dây nhỏ bọc cao-su, nối tiếp nhau chạy dài qua những cánh đồng từ làng này tới làng kia. Lúc đầu, người dân quê vùng tôi không rõ những cây cột và những sợi dây ấy là cái giống gì, song một vài ngày sau mới hay đó là hệ thống đường dây điện thoại dã chiến, nối từ bộ chỉ huy các đội phát động trong mỗi xã tới một nơi nào đó là bộ chỉ huy của đoàn phát động hay bộ chỉ huy tiền phương cùng ban cố vấn tối cao Trung Quốc.
Ngay sau khi được phối trí vào làng xã, đội phát động bố trí ngay các thành viên của đội nắm giữ toàn bộ các chức vụ trong Chi Bộ, Ủy Ban Nhân Dân, và Nông Hội… trong xã, đồng thời đình chỉ công tác hầu hết các cán bộ và viên chức cũ. Sở dĩ đội phát động phải làm như thế, là vì trung ương đảng CSVN cho rằng, phần lớn các cán bộ cũ tuy có chút ít học thức và am tường tình hình địa phương, nhưng không ít thì nhiều đã bị bọn địa chủ trong làng mua chuộc. Thành phần trong chính quyền chuyên chính vô sản ở nông thôn, phải là những người thuộc giai cấp bần cố nông, không tài sản, và đã trải qua nhiều thử thách trong cuộc đấu tranh chống địa chủ và cường hào ác bá ở nông thôn.
Khi phối trí vào hoạt động trong một làng xã, đội CCRĐ được ông Hồ và CSVN trao cho rất nhiều quyền hành, ngoài quyền sinh sát bọn địa chủ trong làng xã, đội còn có quyền “triệu hồi” hay bắt bớ bất cứ người nào dính líu hay có liên hệ máu mủ với các gia đình điạ chủ nơi họ đang hoạt động, dù những người ấy có đảng tịch thâm niên và đang giữ một chức vụ quan trọng trong đảng, trong chính quyền huyện, tỉnh hay là sĩ quan cao cấp trong quân đội nhân dân, để hạch hỏi, đấu tố và có thể bị giết nữa. Vì thế vào thời gian này trong vùng liên khu Bắc Việt xuất hiện câu cách ngôn: “Nhất Đội Nhì Trời.” Vì có quyền lực cao hơn Trời, nên các Đội CCRĐ đã gây ra không biết bao nhiêu là tang tóc cho rất nhiều người trong vùng quê tôi nói riêng và cho toàn miền Bắc nói chung.
Sau một thời gian tìm hiểu, và đã nắm vững tình hình về mọi mặt trong xã, đội phát động bắt đầu cho nông dân học tập tài liệu của đảng liên quan đến việc phân định thành phần dân chúng trong làng, sau những đêm học tập là đến những đêm bình bầu. Trong khi học tập, vì vốn thất học hay ít học, nên thật sự tầng lớp bần cố nông trong làng tôi không hiểu được rõ ràng về đường lối của Đảng. Do đó, trong những buổi họp bình bầu thành phần trong làng xã, họ ù-ù cạc-cạc như vịt nghe sấm, nên đã giơ tay biểu quyết chấp thuận toàn bộ danh sách thành phần dân chúng trong làng xã do cán bộ phát động thiết lập. Trong danh sách này gồm có các thành phần sau đây:
- Cố nông
- Bần nông
- Trung nông lớp dưới
- Phú nông
- Địa chủ
Căn cứ vào tỷ lệ 5% dân số trong làng phải là thành phần địa chủ do cố vấn Trung Quốc ấn định, và căn cứ vào quy luật bất di bất dịch của ông Hồ và đảng CSVN là: thà giết lầm 10 người, còn hơn tha lầm một người”, nên số lượng điạ chủ trong làng tôi trở nên đông đảo hơn trước rất nhiều. Nhiều gia đình trong làng trước đó cứ đinh ninh rằng, quá lắm là gia đình họ cũng chỉ thuộc thành phần trung nông lớp trên là cùng, nhưng sau những đêm bình bầu dưới sự lãnh đạo “sáng suốt” và “công minh” của đội, những gia đình này bỗng được nâng lên thành phần địa chủ, mà không cần phải kinh qua các thành phần trung gian khác.
Sau khi bình bầu và phân định thành phần dân làng xong, một số gia đình thuộc thành phần bần cố nông được đội cử cán bộ CCRĐ đến tận nhà, trước là để “thăm nghèo hỏi khổ” và sau là thăm dò nếu thấy thuận lợi sẽ đi thêm bước thứ hai nữa là “tam cùng.” Tam cùng có nghĩa là “cùng ăn, cùng ở, cùng làm.”
Cùng ăn không có nghĩa là gia đình bần cố phải nuôi cơm cán bộ, mà là cán bộ mang phần gạo của mình đến góp với gia chủ để nấu ăn chung, và cũng đóng góp một số tiền nho nhỏ nữa để mua mắm, muối, rau cỏ. Cùng ở, có nghĩa là cán bộ đến ở luôn trong nhà, ngày cũng như đêm. Cùng làm, có nghĩa là gia chủ làm gì cũng được cán bộ cùng làm, mà không phải trả công.
Theo lý thuyết của đảng CSVN, tam cùng có mục đích làm cho nông dân coi cán bộ CCRĐ như một người bạn “tri kỷ.” Để từ đó có thể “tâm sự” hay bộc lộ với cán bộ này tất cả những nỗi khổ đau thầm kín đã xẩy ra trong đời họ, trong gia đình họ mà trước đây họ không dám bày tỏ cùng ai, hay cũng không có ai đáng tin cậy để bày tỏ.
Cũng từ đó, bất kỳ những khó khăn trở ngại nào đó đã xẩy ra trong quá khứ cho 3 đời của những gia đình bần cố nông này như nghèo đói, dốt nát, khổ đau, bịnh tật, chết chóc…, đều được cán bộ CCRĐ quy kết là do giai cấp địa chủ gây ra cả. Rồi cũng từ đó, cán bộ CCRĐ chỉ vẽ cho họ một con đường duy nhất để thoát khỏi tình trạng nghèo khổ, đói rách, bất công, và có một cuộc sống tốt đẹp và xứng đáng hơn trong tương lai. Đó là con đường phải triệt để tuân theo và trung thành với sự lãnh đạo sáng suốt của ông Hồ và đảng CSVN, để vùng lên đấu tranh đào tận gốc, trốc tận rễ giai cấp địa chủ.
Những gia đình bần cố được chọn để "tam cùng" đợt đầu, được coi như cái “rễ” và việc phân công cán bộ đến để tam cùng trong các gia đình này được gọi là “bắt rễ.” Sau khi đã tam cùng và đã bắt rễ được một gia đình bần cố nông, có nghĩa là đã tuyên truyền, vận động, móc nối được một gia đình tham gia một cách tích cực vào cuộc đấu tranh chống địa chủ, và gia đình này đã “giác ngộ” quyền lợi giai cấp và trung thành với Đảng.
Tới lúc này cán bộ tam cùng mới yêu cầu gia chủ giới thiệu bạn bè hay thân nhân của họ có cùng thành phần và cảnh ngộ, để lựa chọn đến tam cùng đợt II. Việc cán bộ chuyển “tam cùng” hay “bắt rễ” từ gia đình bần cố này tới gia đình bần cố kia, được gọi là “xâu chuỗi.” Cứ từng bước một, dần dà cán bộ phát động trong một xã có thể bắt rễ và xâu chuỗi được một số khá đông bần cố nông nòng cốt tạo thành một mạng lưới bao vây và đấu tranh chống địa chủ.
Trong và sau chiến dịch Phát Động Quần Chúng một số đông thành phần bần cố nông nòng cốt được kết nạp vào đảng, được bố trí nắm giữ các chức vụ như bí thư chi bộ, chủ tịch ủy ban nhân dân xã và các chức trưởng khác trong các cơ quan đoàn thể trong làng xã, mặc dù có thể họ chưa đọc thông viết thạo “quốc ngữ.”
Bố mẹ tôi cũng như các địa chủ khác trong làng, ngoài việc bị đối xử như thú vật, còn thường xuyên bị áp giải tới các buổi họp của nông dân, ngoài việc bị hành hạ, xỉ vả, và truy tố mà còn làm đối tượng cho bần cố nông “tố khổ” nữa. Trong các buổi họp tố khổ, bần cố nông trong làng thường nêu lên những lý do, nguyên nhân, nguồn gốc… của mọi sự nghèo khó, tồi tệ đã xẩy ra trong gia đình họ như mùa đông thiếu áo, mùa hè thiếu ăn, con cái thất học, ốm đau không tiền thuốc thang, nhà cửa vào những ngày nắng ấm thì trứng gà treo đầy trên vách, vào những ngày mưa thì có thể tắm gội ngay trong nhà… nhất nhất đều đổ lên đầu địa chủ.
Khi chiến dịch Phát Động Quần Chúng Đấu Tranh Chống Địa Chủ thực thi tại làng tôi, bố mẹ tôi, ngoài việc bị kết tội là cấu kết với thực dân phong kiến và lợi dụng thời cơ để mua ruộng đất của nông dân với giá rẻ mạt, còn bị lên án là đã vi phạm trầm trọng Sắc Luật Giảm Tô số 78/SL của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.Theo sự giải thích của đội phát động thì đạo luật này được ban hành vào ngày 14/7/1949 tại liên khu Bắc Việt, nghĩa là ở trong một khu rừng âm u nào đó thuộc tỉnh Thái Nguyên hay Tuyên Quang và đã được công bố trên mặt báo Nhân Dân cũng được phát hành trong vùng rừng núi âm u này.
Cũng theo sự giải thích của đội, thì trước khi có luật giảm tô, tá điền phải nộp cho địa chủ thường là 50% tổng số thóc mà họ thâu hoạch được trên thửa ruộng của địa chủ, hoặc theo số lượng thóc hay tiền mà hai bên đã thỏa thuận trước với nhau. Kể từ khi có Sắc luật 78/SL được ban hành, tá điền vẫn được giữ lại 50% như trước, và còn được giảm 25% trong số 50% nộp cho địa chủ, tức là lấy thêm 12.5% trong tổng số thóc thâu hoạch. Nói khác đi là, kể từ khi sắc luật giảm tô có hiệu lực, người thuê ruộng hay tá điền được hưởng 62.5% thay vì 50% tổng số hoa lợi thâu hoạch của thửa ruộng cho thuê; còn địa chủ chỉ được hưởng có 37.5% thay vì 50% như trước.
Theo cách tính bình quân, nhân sản lượng và tỷ lệ giảm tô 25%, để tìm ra số thóc mà gia đình tôi đã bội thu của tá điền từ năm 1947, năm sắc luật giảm tô bắt đầu có hiệu lực tới năm 1954, năm làng tôi bắt đầu thực thi chương trình CCRĐ, cán bộ phát động đã tính trồng tréo thế nào không biết, mà gia đình tôi đã bội thu của tá điền lên tới con số hàng chục ngàn tấn thóc. Cán bộ nói ra bao nhiêu là chúng tôi phải chấp nhận bấy nhiêu. Vì không tin vào khả năng tính toán của đám cán bộ, nên đã nhiều lần gia đình tôi yêu cầu cho phép chúng tôi được tính lại, song chẳng những không được chấp thuận mà bị kết tội là ngoan cố nữa. Tính ra, gia đình tôi chỉ cho cấy rẽ phần lớn số ruộng đang có trong vòng 5 hay 6 năm thôi, mà số tô bội thâu đã lên cao đến nỗi, nếu bán hay gán tất cả số ruộng đất mà gia đình hiện có theo thời giá cho nông dân vào lúc bấy giờ đi nữa, cũng chỉ trả được phân nửa số tô bội thu mà gia đình tôi đã thu của tá điền. Số còn lại, có lẽ bố mẹ tôi phải trả bằng chính mạng sống của họ.
Riêng tôi, vì đã được học hết lớp 7, tương đương với lớp đệ tứ trong vùng quốc gia, nên chúng đã khai thác triệt để việc được đi học này để thuyết phục tôi đầu hàng giai cấp nông dân và tố cáo tội lỗi của bố mẹ tôi đối với nông dân. Hết cán bộ đội phát động, đến cán bộ nông hội, rồi đến cả mấy ông, bà bần cố vừa mới được bắt rễ xâu chuỗi nữa, cứ lập đi lập lại như con vẹt tập nói, như con trâu nhai lại rằng, việc tôi được học hết 4 năm bậc tiểu học, và 3 năm trung học là công lao và mồ hôi nước mắt của nông dân, mà không phải là của thằng Quang (bố tôi) và con Quán (mẹ tôi) vì họ không trực tiếp tham gia lao động nên không thể sản xuất ra của cải và lúa gạo được. Họ bảo tôi phải ý thức rõ điểm này, đừng để lòng yêu thương cha mẹ mù quáng, làm mất sáng suốt trong việc nhận định đúng đắn ai là thù, ai là bạn của bản thân. Nói thế, có nghĩa là đám cán bộ của đội phát động muốn tôi phải coi bố mẹ tôi là kẻ thù của tôi.
Gia đình tôi thành thật khai báo là của chìm thật sự chẳng còn gì, có vài ba chỉ vàng đã đem ra ủng hộ chính phủ ông Hồ trong chiến dịch “đổi vàng lấy súng cối xay” vào cuối năm 1945.
Còn của nổi, ngoài nhà cửa, ruộng vườn, chỉ còn một số đồ đạc lỉnh kỉnh, trong thời gian chiến tranh, đem gửi tại căn nhà một người bạn “cửa Khổng sân Trình” của bố tôi trong làng Thạch Cáp, song chẳng may căn nhà này đã bị máy bay Pháp thả bom làm cháy rụi mất rồi. Bố mẹ tôi cũng báo cáo cho đội biết là gia đình tôi còn một số đồ cổ hiện đang được gửi tại nhà một người quen khác trong làng Thanh Mai ở sâu trong vùng đồi núi cùng huyện Lâm Thao và cách làng tôi khoảng 6 hay 7 cây số theo đường chim bay. Ngay sau khi biết được tin này, đội cải cách ruộng đất đã cấp giấy phép cho gia đình tôi đi lấy hết những đồ cổ này về để bán và gán nợ cho nông dân.
Khi anh tôi và tôi vào làng Thanh Mai trình giấy tờ để xin lấy lại số đồ cổ này, ông chủ nhà cho biết là, riêng cá nhân ông không có gì trở ngại cả, song vì làng Thanh Mai của ông cũng đang thực thi chiến dịch Phát Động Quần Chúng Đấu Tranh Chống Địa Chủ, nên ông đã khai báo số đồ cổ này với đội phát động rồi. Do đó việc trả lại cho chúng tôi, ông cần phải có sự chấp thuận của họ. Ông dẫn chúng tôi tới gặp một cán bộ phát động hiện đang “tam cùng” trong một gia đình cố nông gần đó.
Cán bộ này giải thích cho chúng tôi hay: “Đảng và Nhà Nước đã qui định rõ ràng rằng, của cải của địa chủ để ở đâu, thì tịch thu, chia cho nông dân ở đó,” vì thế ông ta không thể cho phép chúng tôi lấy những đồ đạc này mang về làng Bản Nguyên được. Chúng tôi không dám phàn nàn hay khiếu nại gì về quyết định này cả, mà chỉ xin ông ta viết cho mấy chữ và ký tên vào mặt sau của tấm giấy giới thiệu, để có bằng chứng cụ thể trình cho đội phát động làng tôi.
Dù đã hết sức thành thật khai báo nhưng cán bộ phát động vẫn không tin vào sự thành khẩn của gia đình tôi, nên vẫn cắt cử dân quân du kích hay nông dân thường xuyên theo dõi nhất cử nhất động của từng người trong gia đình tôi để xem chúng tôi đang giấu của chìm ở đâu? Khi gọi gia đình tôi đến trụ sở của đội hay của nông hội để làm việc hay truy tô hoặc tố khổ, là một dịp thuận tiện cho những người bần cố nông có nhiệm theo dõi gia đình tôi xâm nhập vào nhà lục soát, và tìm kiếm của cải giấu giếm trong nhà. Chúng dùng những cây xiên bằng sắt soi mói từng tấc đất trong nhà, trong vườn để tìm kiếm vàng bạc, châu báu mà chúng nghĩ là gia đình tôi đã chôn giấu đâu đó.
Trong thời gian đội hoạt động trong làng tôi, vì chính sách cô lập địa chủ, nên học trò cũ và bà con họ hàng của bố tôi trong làng cũng khá đông, song không một ai dám bén mảng tới thăm hỏi hay giúp đỡ gia đình tôi. Căn cứ vào chính sách CCRĐ, cán bộ phát động không cho phép một ai được tiếp xúc với địa chủ, không ai được thuê mướn địa chủ, không ai được phép cho địa chủ tiền bạc hay thực phẩm. Bất cứ ai vi phạm lệnh cấm này, nhẹ thì bị phê bình cảnh cáo, nặng thì sẽ bi coi như địa chủ và bị đối xử như địa chủ. Với chính sách cô lập độc ác này, địa chủ muốn đi ăn mày cũng không được, vì không ai dám cho; muốn đi làm thuê cũng không xong, vì không ai dám mướn. Chỉ còn có mỗi một nước là đi lang thang mót hay lượm những củ khoai lang hay khoai mì còn sót lại trên đồi nương hay đồng ruộng để ăn sống, rồi chết dần chết mòn vì đói khát.
Theo chính sách CCRĐ, con nuôi địa chủ, dù được nuôi dưới bất kỳ hình thức nào, đều được coi là nuôi để bóc lột sức lao động, chứ không phải nuôi vì tình thương yêu. Vì thế con nuôi địa chủ được cán bộ phát động chiếu cố, và còn được coi là thành phần cốt cán, ưu đãi. Cũng theo chính sách CCRĐ, thành phần trung nông được coi là bạn liên kết và ủng hộ thành phần bần cố nông trong công cuộc đấu tranh chống địa chủ. Với tình trạng nhân sự trong gia đình tôi như thế, cô con gái nuôi từ hồi mới sinh và cô con dâu thành phần trung nông có thể giúp cho anh tôi giữ lại được khu vườn trại làm nguồn sinh sống tạm bợ cho cả gia đình. Nhờ đó mà cứ đôi ba ngày cô con gái nuôi lại lén lút tới thăm và tiếp tế cho dăm ba chén gạo. Mỗi nồi cơm cho bố mẹ tôi và tôi chỉ có hơn nửa chén gạo, nấu độn với bốn năm quả chuối xứ hay chuối tiêu xanh tước vỏ sắt nhỏ như hạt lựu, ăn cho qua ngày.
Trong giai đoạn Phát Động Quần Chúng Đấu Tranh Chống Địa Chủ, mẹ tôi là người gặp nhiều khó khăn nhất, vì bà vốn là con gái thành thị, chưa từng phải lam lũ, chân lấm tay bùn. Mang tiếng là vợ địa chủ, song bà chưa bao giờ đặt chân tới những thửa ruộng của gia đình tôi, và cũng chẳng biết những thửa ruộng ấy lớn nhỏ và nằm ở xó xỉnh nào trên cánh đồng sau làng nữa. Suốt ngày mẹ tôi chỉ quanh quẩn trong nhà trông nom con cái và điều khiển người ăn người làm thế thôi.
Buổi đấu tố cụ Bá Hảo, được tổ chức ở khoảng đất trống trong khu Vườn Vải, ngay sau dinh cơ của cụ; tất cả người dân trong xã Hùng Tiến gồm 3 làng Bản Nguyên, Thành Chu, và Quỳnh Lâm đều phải nghỉ các công việc đồng áng và buộc phải tham dự. Những kẻ vắng mặt không lý do chính đáng có thể bị nghi ngờ là có cảm tình với địa chủ, vì thế người tham dự khá đông đảo. Quang cảnh buổi đấu tố cụ Bá Hảo của xã Hùng Tiến hôm ấy nói riêng, cũng như các buổi đấu tố địa chủ trong các xã khác thuộc huyện Lâm Thao nói chung, thường được sắp xếp chung chung như sau:
Chiếc bàn của chủ tọa đoàn được đặt trên một sàn gỗ và thường cao hơn mặt đất độ nửa thước tây. Sau bàn chủ tọa đoàn là một bức phông cao rộng bằng lá cây hay bằng những tấm cót. Trên bức phông là hình của Malenkov, Thủ Tướng nước Cộng Hòa Liên Bang Xô Viết; hình Hồ Chí Minh, Chủ Tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và hình Mao Trạch Đông, Chủ Tịch nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Trước mặt và cận kề bàn chủ tọa đoàn là một mô đất có hình tròn hay một hố tròn đường kính khoảng 6 tấc được dùng như vành móng ngựa và là chỗ đứng của địa chủ trong khi bị đấu tố. Trước hố đấu, là một khoảng trống rộng rãi với những ô hình chữ nhật được kẻ bằng vôi bột dùng làm chỗ đứng cho các thành phần tham dự. Trên tay những người tham dự là những lá cờ đỏ sao vàng lớn nhỏ khác nhau, hay nhưng biểu ngữ mang những khẩu hiệu như:
- Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm
- Đảng Lao Động Việt Nam muôn năm
- Đả đảo địa chủ cường hào ác bá.
- Đả đảo địa chủ Hảo gian ác! Đả đảo, đả đảo, đả đảo.
- Đả đảo địa chủ Hảo cường hào ác bá! Đả đảo, đả đảo, đả đảo.
- Đả đảo địa chủ Hảo việt gian bán nước! Đả đảo, đả đảo, đả đảo.
Rồi một thành viên khác trong bàn chủ tọa đoàn đứng lên tóm tắt tiểu sử, cùng quá trình bóc lột và gây tội ác cùng thành tích làm tay sai cho thực dân Pháp hãm hại nông dân nghèo của địa chủ Hảo. Đồng thời hắn cũng kêu gọi nông dân trong xã mạnh dạn tố cáo tội ác Trời không dung Đất không tha của địa chủ Hảo. Hàng ngàn cánh tay trong đám người tham dự đưa lên, như muốn tranh dành lấy vinh dự là người đầu tiên đứng ra đấu tố địa chủ Hảo. Song dường như việc kêu kẻ trước, người sau trong việc tố cáo địa chủ Hảo đã được sắp xếp từ trước, nên thành viên này chỉ việc căn cứ vào danh sách đó, lần lượt mời gọi từng người ra đấu tố địa chủ Hảo.
- Mày có nhớ hay biết ông/bà là ai không?
Không cần phải đợi địa chủ trả lời, nhớ hay không nhớ hoặc biết hay không biết, người tố cáo liền nói sơ lược về lý lịch 3 đời bần cố nông của mình, rồi kể vanh vách những tội ác mà cụ bá Hảo đã gây cho gia đình và cá nhân họ. Trong khi kể tội, chúng xỉa xói vào mặt địa chủ, gào thật to, hét thật lớn như để biểu lộ lòng căm thù sục sôi đã nung nấu trong tâm can. Phần lớn bần cố nông tố cáo cụ Bá Hảo là đã lợi dụng uy quyền để mua rẻ ruộng đất, hoặc dùng những thủ đoạn thâm độc để chiếm hữu ruộng đất của họ, hay lợi dụng lúc họ gặp khó khăn trong gia đình như có người đau ốm mà không có tiền để thuốc thang, hoặc tang gia túng thiếu để cho vay lấy lời cao gấp bội.
Một vài mụ bần cố nông, khi được gọi bước ra đấu tố, đã cố gắng hết mình làm ra vẻ ta đây giận giữ và căm thù điạ chủ tới mức tột cùng, xăm xăm bước tới hố đấu, vung tay tát vào mặt cụ Bá Hảo đôm đốp, rồi tố giác là cụ hãm hiếp họ. Cứ mỗi lần một gã hay một mụ bần cố nông tố cáo cụ Bá Hảo về một tội nào đó, là lại một lần hỏi:
“Bớ thằng địa chủ Hảo gian ác, mày có nhận tội của mày hay không?
Nếu cụ Bá Hảo chưa kịp hay còn lưỡng lự chưa chịu nhận tội, là đám đông tham dự lại hô vang khẩu hiệu “Đả đảo địa chủ ngoan cố” và khẩu hiệu này được hô đi hô lại nhiều lần cho đến khi nào cụ Bá Hảo nhận tội mới ngưng.
Theo lý thuyết việc đấu tố địa chủ trong CCRĐ được kết hợp dưới 3 hình thức:
- Đấu lý: Dùng lý luận để bẻ gẫy lý luận của địa chủ.
- Đấu pháp: Dùng pháp luật để buộc tội địa chủ.
- Đấu lực: Dùng lực lượng quần chúng nông dân đế áp đảo địa chủ.
Song trong thực tế, qua các buổi đấu tố địa chủ, người ta nhận ra ngay được rằng, chẳng làm gì có đấu lý cả, vì địa chủ có bao giờ được phép dùng lý luận hay nhờ luật sư biện hộ để minh chứng là mình vô tội đâu, mà chỉ được phép cúi đầu nhận tội mà thôi, dù biết chắc chắn 100% đó là một tội hoàn toàn vu khống. Người ta cũng nhận ra rằng, làm gì có đấu pháp, vì không thể dựa vào vài ba đạo luật rừng được ông Hồ ký ban hành trong rừng, để kết tội địa chủ được, vì những đạo luật này hoàn toàn thiếu căn bản pháp lý. Đây rõ ràng chỉ là cuộc đấu lực, dùng lực lượng đông đảo của bần cố nông cộng với lực lượng của đảng CSVN dưới sự dắt dẫn lươn lẹo của ông Hồ để triệt tiêu giai cấp địa chủ mà thôi.
Chiến dịch đấu tố ở làng xã tôi và những làng xã kế cận kết thúc với nhiều địa chủ phải đi tù, nhưng chưa có ai bị xử tử cả, vì theo đường lối và chính sách của cuộc cải cách ruộng đất, giai đoạn II, mới là giai đoạn thật sự xóa bỏ hoàn toàn giai cấp địa chủ. Hầu hết địa chủ trong giai đoạn này, nếu không bị xử tử ngay tại chỗ sau khi bị đấu tố, thì cũng bị tuyên án tù chung thân, toàn bộ tài sản bị tịch thu chia cho nông dân nghèo.
Vì tin rằng sẽ bị giết hay bị tù không có ngày về vào giai đoạn II sắp tới, nên một hôm vào cuối giai đoạn I, bố mẹ tôi bảo tôi:
“Con đã trưởng thành rồi. Bố mẹ cũng đã cũng đã ngoài 60 cả rồi, mẹ con lại bịnh tật và đau yếu đã mấy năm nay, không tiền thuốc thang, cơm độn quá nửa chuối xanh, song cũng chẳng có bữa nào được ăn no, như thế mẹ con làm sao có thể sống được vào những ngày tối tăm sắp tới? Như con đã kể cho bố mẹ biết về những gì mà con đã chứng kiến trong cả 2 giai đoạn cải cách ruộng đất tại làng Sơn Lũng xã Xuân Huy, nơi con trọ học trong mấy năm vừa qua; cũng như những tin tức mà bố được biết qua lớp học cải tạo địa chủ tại làng Cổ Pháp mới đây, bố tin chắc rằng bố không thể sống sót được trong giai đoạn II sắp tới, nếu không bị xử bắn tại chỗ sau khi bị đấu tố thì cũng phải đi tù mọt gông, không có ngày trở về. Còn nhà cửa ruộng vườn vào cuối giai đoạn II sẽ bị tịch thu tất tần tật để chia cho các ông bà bần cố nông. Trước khi mẹ con chết vì đói hay chết vì ốm đau, bố chết vì bị bắn hay chết mục xương trong tù, bố mẹ muốn thấy con được yên bề gia thất, mới yên lòng xuôi tay nhắm mắt.
Trong khi bố tôi nói với tôi những lời lẽ trối trăng, mẹ tôi đã hỗ trợ cho bố tôi bằng những làn nước mắt tuôn trào. Với tình huống tuyệt vọng của mẹ tôi và những lời trối trăng thống thiết của bố tôi như thế, làm sao tôi có thể không vâng lời bố mẹ tôi được, dù thật tình tôi chưa muốn lập gia đình vào lúc khó khăn này.
Lúc ấy đã là cuối tháng Chạp năm Giáp Ngọ, sắp sửa bước sang năm Ất Mùi (1954) và tôi đã 19 tuổi đầu, nên tôi chỉ xin bố mẹ tôi tạm hoãn việc này cho đến sang năm ngày rộng tháng dài, mới đề cập chuyện này với ông bà Lý Xung. Một vài ngày sau, anh tôi đến thăm và tiếp tế cho bố mẹ tôi vài ba bát gạo. Anh cho biết là anh đã lén đi Hà Nội thăm viếng bà con họ hàng đang sống trong thành phố này, tuy lúc ấy Hà Nội đã được “Bác và Đảng” tiếp quản. Anh cũng cho biết thêm là hầu hết bà con ở Hà Nội đều lo lắng cho số phận đen tối của gia đình tôi, và họ cũng cho anh tôi biết thêm là, hiệp định Geneva, ngoài những điều khoản vãn hồi hòa bình và chia đôi đất nước, còn có những điều khoản cho phép dân chúng 2 miền, miền Bắc Cộng Sản và miền Nam Tự Do, được tự do chọn lựa nơi cư trú và sinh sống.
Hầu hết địa chủ trong vùng quê tôi không hề hay biết điều khoản này. Họ cũng khuyên gia đình tôi nên gấp rút tìm đường trốn về Hà Nội, rồi từ Hà Nội tìm đường trốn xuống cảng Hải Phòng, vì Hải Phòng lúc ấy vẫn còn trong tay quân đội Pháp và Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam trong một vài tháng nữa thôi, và nơi đây đang có chương trình giúp đỡ đưa những người miền Bắc lánh nạn cộng sản vào miền Nam sinh sống.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét