Bùi Giáng, sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926 (nhằm ngày 13-11 năm Bính Dần) tại Thanh Châu, Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, cha là ông Bùi Thuyên (ông Cửu Tý) và mẹ là bà Huỳnh Thị Kiền.
• Năm 1933 bắt đầu đi học tại trường làng Thanh Châu với thầy Cù Đình Quý.
• Năm 1936 học ở trường làng Bảo An với thầy Lê Trí Viễn.
• Năm 1939 ông ra Huế học tư thục tại Trường trung học Thuận Hóa. Trong số thầy dạy ông có Cao Xuân Huy, Trần Đình Đàn, Hoài Thanh, …
• Năm 1944 ông cưới vợ, vợ ông là bà Phạm Thị Ninh con ông bà Phán Trai ở Hội An, nhưng chỉ vài năm sau, bà bị bệnh rồi mất. Ông không tái hôn lần nào nữa.
• Tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, nhưng sau đó ông cũng kịp đậu bằng Thành chung.
• Năm 1949 ông tham gia kháng chiến chống Pháp, làm bộ đội Công binh. Một năm sau giải ngũ.
• Năm 1950 ông thi đỗ tú tài đặc biệt do Liên khu V tổ chức, được cử tới Hà Tĩnh để tiếp tục học. Từ Quảng Nam phải đi bộ theo đường núi hơn một tháng rưỡi, nhưng khi đến nơi, thì ông quyết định bỏ học để quay ngược trở về quê, đi chăn dê trên vùng rừng núi Trung Phước.
• Năm 1952 ông trở ra Huế thi tú tài 2 ban Văn chương. Thi đỗ, ông vào Sài Gòn ghi danh học Đại học Văn khoa. Tuy nhiên, ông quyết định chấm dứt việc học và bắt đầu viết khảo luận, sáng tác, dịch thuật và đi dạy học tại các trường tư thục.
• Năm 1965 nhà ông bị cháy làm mất nhiều bản thảo của ông.
• Năm 1969 ông "bắt đầu điên rực rỡ". Sau đó, ông "lang thang du hành Lục tỉnh", trong đó có Long Xuyên, Châu Đốc...
• Năm 1971 ông về Sài Gòn sau những năm tháng sống "điên rồ lừng lẫy chết đi sống lại vẻ vang". Những năm cuối đời ông tá túc tại nhà người anh em chú bác là ông Bùi Văn Võ tại Quận Bình Thạnh cho đến ngày “ngàn thu rớt hột”.
Tác phẩm
Theo thống kê chưa đầy đủ, tác phẩm của Bùi Giáng có (tạm phân theo thể loại):
THƠ
• Mưa nguồn (1962)
• Lá hoa cồn (1963)
• Màu hoa trên ngàn (1963)
• Ngàn thu rớt hột (1963)
• Bài ca quần đảo (1963)
• Sa mạc trường ca (1963)
• Sa mạc phát tiết (1972)
• Mùi Hương Xuân Sắc (1987)
• Rong rêu (1995)
• Đêm ngắm trăng (1997)
• Thơ Bùi Giáng (Montréal, 1994)
• Thơ Bùi Giáng (California, 1994)
• Mười hai con mắt (2001)
• Thơ vô tận vui (2005)
• Mùa màng tháng tư (2007)
• Trăng châu thổ
• Mùa xuân trong thi ca.
• Thúy Vân
Các sách xuất bản năm 1970, gồm có:
• Biển Đông xe cát
• Mùa thu trong thi ca.
Các sách xuất bản năm 1971, gồm có:
• Ngày tháng ngao du
• Đường đi trong rừng
• Lời cố quận
• Lễ hội tháng Ba
• Con đường ngã ba-Bước đi của tư tưởng.
NHẬN ĐỊNH
• Nhận xét về Bà Huyện Thanh Quan
• Nhận xét về Lục Vân Tiên
• Nhận xét về Chinh Phụ Ngâm và Quan Âm Thị Kính.
• Nhận xét về truyện Kiều và truyện Phan Trần.
Tất cả đều được xuất bản năm 1957.
GIẢNG LUẬN
• Giảng luận về Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu.
• Giảng luận về Phan Bội Châu
• Giảng luận về Chu Mạnh Trinh
• Giảng luận về Tôn Thọ Tường
• Giảng luận về Phan Văn Trị
• Giảng luận về Nguyễn Công Trứ
• Giảng luận về Cung Oán Ngâm Khúc
Tất cả đều được xuất bản năm 1957-1959.
TRIẾT HỌC
• Tư tưởng hiện đại (1962)
• Martin Heidgger và tư tưởng hiện đại I và II (1963)
• Sao gọi là không có triết học Heidgger? (1963)
• Dialoque (viết chung, 1965)
TẠP VĂN
Các sách xuất bản năm 1969, gồm có:
• Đi vào cõi thơ
• Thi ca tư tưởng
• Sa mạc phát tiết
• Sương bình nguyên
• Trăng châu thổ
• Mùa xuân trong thi ca
• Thúy Vân
• Biển Đông xe cát (1970)
• Ngày tháng ngao du (1971)
• Đường đi trong rừng (1971)
• Lời cố quận (1971)
• Lễ hội tháng Ba (1971)
SÁCH DỊCH
o Các sách xuất bản năm 1966, gồm có:
+ Trăng Tỳ hải
+ Cõi người ta
+ Khung cửa hẹp
+ Hoa ngõ hạnh
+ Othello
o Các sách xuất bản năm 1967, gồm có:
+ Bạo chúa Caligula
+ Ngộ nhận
+ Kim kiếm điêu linh
o Các sách xuất bản năm 1968, gồm có:
+ Con đường phản kháng
+ Mùa hè sa mạc
+ Kẻ vô luân
o Các sách xuất bản năm 1969, gồm có:
+ Nhà sư vướng luỵ
+ Ophélia Hamlet
+ Hòa âm điền dã
o Các sách xuất bản năm 1973 và 1974, gồm có:
+ Hoàng tử bé (1973)
+ Mùa xuân hương sắc (1974)
VẼ TRANH
Những bức tranh Bùi Giáng vẽ trong giai đoạn này (1982-1994) tại nhà họa sĩ Phạm Cung chủ yếu bằng màu nước hoặc bút bi trên giấy khổ A4, gồm có:
• Bò khát bia
• Người say
• Người cởi ngựa hộc máu
• Chân dung tự họa
• Lão Từ Hải thất vọng
• Chó hút thuốc
• Chân dung người điên
…
Hiện nay, nhiều tác phẩm của ông đã và đang được tái bản và xuất bản trong và ngoài nước.
Bùi Giáng được văn giới, không phân biệt không gian thời gian, yêu mến trọng vọng. Ông đã để lại cho đời hơn 60 tác phẩm đủ các thể loại như sách giáo khoa, thơ, biên khảo, dịch thuật… Nhưng tiếng tăm ông nổi bật từ tập thơ “Mưa Nguồn”.
Bùi Giáng là một nguời tự học và học rất giỏi, ông tinh thông nhiều ngôn ngữ khó như chữ Hán và tiếng Đức, tiếng Pháp, tiếng Phạn… làm kinh ngạc mọi người trong văn giới.
Bùi Giáng đã trở thành một tên tuổi quá quen thuộc với đông đảo bạn đọc. Ông tự nhận mình là “Trung niên thi sĩ” cùng hàng loạt biệt danh trào lộng: thi sĩ Đười ươi, Brigitte Giáng, Giáng Moroe, Bùi Bán Dùi, Bùi Bàn Dúi, Bùi Tồn Lưu, Bùi Tồn Lê, Bùi Bê Bối, Bùi Văn Chiêu Lỳ…
Bùi Giáng được xem như một “ngôi sao” trên vòm trời văn hóa văn nghệ miền Nam trước đây, được không ít độc giả xưng tụng là “thiên tài”, là “bậc thượng trí”, là “đáng tiêu biểu hơn cả về thi ca bây giờ và có lẽ… vạn đại”. Là sao Vân Khúc hạ giáng vào họ Bùi ta.
Ngày nay, tác phẩm, dịch phẩm của Bùi Giáng vẫn tiếp tục tái bản và các tập di cảo thơ vẫn được liên tục cho ra mắt độc giả yêu mến thi tài Bùi Giáng.
Thi sĩ Bùi Giáng mất lúc 2 giờ chiều ngày 7 tháng 10 năm 1998 nhằm ngày 17 tháng 8 năm Mậu Dần, sau một cơn tai biến mạch máu tại bệnh viện Chợ Rẫy. Ông được an táng tại Nghĩa Trang Gò Dưa, Thủ Đức.
BAN TU CHÍNH PHỔ HỆ 2015
BÙI KIẾN TIẾN - BÙI KIẾN QUANG
Thế thứ 18 cung soạn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét