“Tưởng nhớ ba
tôi trong mùa báo hiếu từ phụ”
DTDB
Ba ơi, sắp đến ngày báo hiếu từ phụ
rồi! Con nhớ quê hương mình không có ngày lễ báo hiếu từ mẫu “Mother’s Day” hay ngày báo hiếu từ phụ “Father’s Day” như cái xứ con đang tạm
dung đó ba!
<!>
Con biết ba sẽ cười hiền lành, mà bảo với con gái của
mình rằng:
- Con bé nầy
nhiều chuyện và rườm rà quá đi… Bởi ở xứ mình cha mẹ hàng ngày chạy gạo cho cả
nhà mở con mắt không lên… thì còn có tâm tình gì mà nghĩ đến ngày báo hiếu, báo
ơn cha mẹ con ơi. Công ơn cha mẹ với bổn phận làm con không chỉ có ngày đó thôi
đâu con à, mà nó suốt cả cuộc đời. Nhớ lúc đi tu nghiệp ở Mỹ, ba cũng biết ngày
lễ báo hiếu từ mẫu hay từ phụ chớ. Bên dó, tới ngày lễ nếu con cái ở gần thì
đưa cha mẹ đi ăn sáng, ăn trưa, ăn chiều… ở xa thì mua gởi cho cái áo, cái
khăn, hay gởi cho mấy chục đồng... nếu con cái khá có tiền thì được một trăm,
hay nhiều hơn tùy hoàn cảnh gia đình của họ. Theo ba nghĩ thì công ơn cha mẹ
sanh thành dưỡng dục như núi Thái, như đại dương vô bờ vô tận… chớ đâu chỉ có
mấy ngày vậy thôi đâu con…
Ba à, con sẽ vùi đầu vào ngực, ôm chầm lấy vai ba mà
nhỏng nhẻo, mà nũng nịu và thỏ thẻ nói với ba rằng:
- Ba ơi, theo
con biết, mỗi năm xứ người có ngày báo hiếu là để gợi nhớ, để hâm nóng, để nhắc
nhở lòng tôn kính, thương yêu, hiếu thảo của con đối với cha mẹ. Đó cũng còn
tùy thuộc vào tâm tình và hoàn cảnh của mỗi gia đình và mỗi người nữa ba. Còn
con thì ba đừng có lo nghe! Con nhớ thương và kính yêu ba dài dài, nhớ đều đều,
nhớ cho đến ngày lìa bỏ cõi đời nầy... trong lòng con sẽ không hề lạt phai
thương kính ba chút nào hết đó ba!
Nhìn những cánh hải âu bay lượn giỡn đùa, cùng tiếng
kêu vang vang của chúng trên trời cao, và những cây mọc trong nước sát mé bờ,
có nhánh gie ra ngoài… Trên cành có tổ chim, mà chim mẹ đang đút từng miếng mồi
nhỏ vào miệng lũ chim con… Nghĩa cảm thấy buồn nao cõi lòng, và thở dài nghĩ
ngợi... bất chợt hồi ức lại quay về...
Cho đến bây giờ thật sự tôi cũng chưa biết mẹ mình là
ai? Có thể mẹ tôi đã qua đời rồi chăng? Cũng có thể vì hoàn cảnh nào đó bà
không nhận con? Có thể, có thể, và có thể lắm… Bao nhiêu nguyên nhân khiến tôi
nghĩ và đặt câu hỏi trong đầu? Nhưng từ nhỏ đến giờ tôi vẫn không có câu giải
đáp! Vì chưa bao giờ tôi được gặp và biết mặt mẹ mình! Cho đến khi tôi biết
đánh vần chữ “Mẹ, Má” và khi tôi biết
nhận xét, khi tôi hiểu, khi tôi biết nghĩ suy, và biết tủi than... khi thấy và
biết mọi người, mọi sinh vật cho đến cỏ cây hoa lá... sống trên thế gian nầy đều
có mẹ!
Bởi mẹ bỏ Nghĩa (tôi) cho nội, khi con bà chưa tròn 2
tuổi! Ngôi nhà cũ trống không của ông bà để lại, là di vật cuối cùng của gia
đình cũng bị giặc tịch thu lấy làm chỗ hội họp cho đám thanh niên trong phường.
Họ bảo đó là nhà của“Ngụy quân” cho nên bà cháu tôi bao nhiêu năm ở trong căn nhà đó,
dù là chủ nhà và mọi thành viên đều có tên trong sổ gia đình, nhưng vẫn bị đuổi
đi kinh tế mới! Trong khi cha tôi còn bị họ nhốt trong tù cải tạo, từ khi miền
Nam rơi vào tay Việt cộng và nước Việt Nam hoàn toàn nhuộm đỏ trong chế độ Cộng
sản.
Bà nội già cả mà đùm túm cháu lang thang sống hẩm hiu
lây lất bữa khoai, bữa cháo ở xó chợ, gầm cầu! Bởi bà cháu tôi giờ đây không
còn nhà để ở nữa, bà già yếu lại bịnh tật liên miên nữa…
Cho đến ngày giặc thả ba tôi về, ông bị bịnh phù thủng
trầm kha không lao dịch được nữa. Tôi nghĩ vì thế nên chúng mới cho ba tôi về
vì lý do đơn giản là: “...Ông ở trong cải tạo chỉ tốn phần ăn, chớ không có lợi
lộc chi cả. Và nếu ông bị chết trong tù, thì chúng sẽ thêm một cái tội với thế
nhân nữa, là: “Nhốt người vô tội, bịnh
hoạn không thuốc men... và bị hành hạ đến chết…”
Tội nghiệp ba của tôi, sau bao nhiêu năm bị đày đọa
trong tù ngục cải tạo. Thân thể ông đầy thương tật, yếu đuối, gầy còm như cái
xác biết đi! Khi được giặc thả về, ba của tôi đã mất tất cả, cái gì cũng không
có, chỉ có nhiều thứ bịnh!
Ba tôi như người mất trí, bởi bà nội đột ngột qua đời,
sau khi ông ra tù chưa đầy ba tháng! Nỗi đau buồn mất mát đeo dính ba người
chúng tôi. Không có ăn thì tiền đâu mà thang thuốc… Vì bịnh tật, thiếu thốn,
khổ đau, và nỗi buồn nối tiếp buồn theo… Đau khổ ngập lòng, uất hận riêng mang,
nhiều lần ba tôi đã ngửa mặt lên trời cao, nghẹn ngào mà than rằng:
- Ông Trời có
bất công không? Hay kiếp trước tôi đã gây nhiều oan khiên cay nghiệt nên bây
giờ nhận lãnh bao nhiêu đau khổ buồn thương lần lượt chụp phủ xuống cha con
tôi! Tội nghiệp con tôi còn nhỏ quá, xin cho tôi nhận lãnh tất cả mọi sự việc
đã vay... Mong Ơn Trên linh thiêng giúp cho cháu có cuộc sống an ổn, cuộc sống
thật sự của kiếp một con người bình thường trên cõi đời nầy…
Khốn khổ chất chồng, và thương đau khóc mẹ, đôi mắt ba
tôi đã bị mù lòa! Tội nghiệp ông tôi sống không bằng chết trong tăm tối, không
được ánh sáng mặt trời chiếu rọi, cùng nỗi đau đớn xâu xé, Không còn lối thoát,
ba tôi phải đi xin ăn! Đó là việc làm duy nhứt để kiếm sống cho hai cha con
tôi... trong xấu hổ ngửa tay xin tiền, mong nhờ vào từ tâm của thế nhân!
Tuy đôi mắt bị mù lòa, nhưng tâm hồn ba tôi trong sáng
như nhật nguyệt. Ông thường dạy dỗ và nhắc nhở cho con biết ai là bạn, ai là kẻ
thù… Ông cũng không vì bịnh tật và hoàn cảnh hiện tại của mình mà thất chí, rồi
làm những chuyện không nên, hay nói năng xàm xỡ với những người chung quanh.
Ông luôn giữ câu của người xưa: “Lành cho
sạch/ Rách cho thơm” và luôn lấy đức báo oán, trước những cảnh trái ngang
nhiều hệ lụy đã qua của đời ông.
Ngày ngày ba tôi đi xin ăn từ sáng sớm tới chiều tối
mới về. Nhưng không bao giờ ông cho tôi đi theo. Tôi được ba gởi trong chùa để
sư cụ sai vặt, và dạy cho biết chữ.
Nhớ lại ngày đó, sư cụ cũng thấy cha con tôi hàng ngày
gội nắng, dầm mưa lang thang đi qua chùa. Sư thương tình gọi lại hỏi thăm và
cho cha con tôi tá túc ở mé hiên sau của chùa, vách nhiều chỗ bị hư, mái
có nhiều chổ dột... bởi qua năm tháng trơ gan
cùng tuế nguyệt... không được tu sửa.
Tôi không sao quên, đó là ngôi chùa nghèo nằm sát bên
bờ sông Bảo Định (Thành phố Mỹ Tho) nước rồng, nước lớn lửng lờ xuôi chảy.
Những ngày gió lạnh mưa chan đi xin về đến chỗ ở, có
khi ba tôi bị lạnh cóng cả người… Tôi la cầu cứu, sư nấu nước gừng nóng cho
uống, sư châm cứu, cho đốt củi lửa hơ, và xức dầu nắn bóp để ba tôi giãn gân
cốt, và từ từ khỏe lại…
Với trí hiểu biết non nớt của mình, tôi không biết ba
tôi đang nghĩ suy gì? Nhưng tôi biết chắc chắn một điều: “Ý chí mãnh liệt để
ông sinh tồn vì ba tôi không muốn con mình côi cút, bơ vơ…”
“Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhân” Tôi vẫn nhớ chiều hôm đó, cha con tôi vui mừng và hết
sức ngạc nhiên. Bởi có ông khách qua đường dừng lại cho ba tôi một số tiền lớn!
Một số tiền rất lớn với một người mù đi xin ăn bữa đói bữa no… Vị thần độ mạng
của cha con tôi, chính là một đồng đội trong “Thiên thần Mũ Đỏ” cộng sự với ba ngày xưa. Giờ ông là một ngoại
kiều về thăm quê hương bất ngờ gặp lại…
Kể từ sau đó, ba tôi không còn đi xin ăn nữa, và gánh
nặng xót xa trong lòng ba có phần nào được nhẹ đi. Và cứ mỗi sáng sớm, khi vầng
thái dương còn e ấp ở phương đông, chim chốc gọi đàn bay đi tìm mồi… Thành phố
Mỹ Tho rộn tiếng còi, tiếng động cơ xe cộ, tiếng nguời bán hàng, tiếng trẻ con cười
nói trên đường đến trường… Thấy chúng ôm tập sách, mặc áo quần lành lẽ… lòng tôi
se thắt, với những ước mơ thầm kín nở lớn trong lòng thơ dại của mình...
Mỗi ngày như mọi ngày, tôi dắt ba ra ngã tư Giếng
Nước, ở đầu đường có nhiều người qua lại. Giúp ông treo tấm ni-long che nắng
che mưa để ngồi bán vé số, chiều tối tôi mới đến dắt ba về. Cha con tôi đi giữa
thành phố lên đèn, qua những ngôi biệt thự đồ sộ nguy nga tráng lệ, qua những
nhà hàng, khách sạn cao ngất trời của bọn tư bản đỏ… Chúng bán lãnh thổ, lãnh
hải... cho ngoại bang phè phỡn sống sa
hoa trong đau khổ của nhân dân nghèo khổ...
Khi vui, ba thường kể cho con gái mình nghe những
chuyện ngày xưa lúc còn là lính chiến… Ba kể trong say sưa, với niềm tin lẫn
niềm xúc động nghẹn ngào, và niềm hy vọng thầm kín dâng lên… Dần dà ba tôi đã
lấy lại được mức sống bình thường trong tâm hồn, và thỉnh thoảng tôi còn bắt
gặp niềm vui trong giọng nói, hoặc nụ cười nhẹ trên môi ông...
Ngày đó, nắng Sài Gòn đẹp lắm! Phố phường rực rỡ vàng
màu cờ và sắc áo lính. Những người lính chiến trên Bốn Vùng Chiến Thuật đại
diện các quân binh chủng, từ các chiến trường trở về dự trong ngày Đại lễ.
Ngồi tán dóc với mấy bà trong xóm, bà Tám y tá (chích
thuốc theo toa bác sĩ) lên tiếng trước:
- Mấy chị biết
con bà Hai bán bánh bò, bánh da lợn ngoài chợ, là cậu Nhân chớ? Tôi thấy cậu
mặc bộ đồ lính “Dù”, cùng một số quân nhân đại diện đơn vị về diễn hành “Ngày Quân lực 19 tháng 6” Ôi trông cậu
ấy đẹp trai thì thôi, và thật oai phong quá chừng chừng đi!
Bà Tư bán gạo, góp chuyện:
- Thế cho nên, sau mùa Quân lực đó, khi thấy
bóng dáng thấp thoáng chàng về phép, thì các em trong xóm lượn qua lượn lại
nườm nượp hà! Họ mong coi có được lọt vào giếng mắt xanh của chàng, để làm
người yêu lính chiến miền xa không...
Chị Tám Dung thợ uốn tóc mở to mắt ngạc nhiên, lên
tiếng:
- Mấy chị nói
chơi hay nói giỡn, bộ có vậy thiệt hả, sao tôi không biết vậy cà?
Chị Út Nga vợ ông Sáu Hiến, tài xế xe đò đường Long
An, Sài Gòn. Chị là phụ nữ trẻ nhất trong nhóm đang bàn chuyện thiên hạ sự.
Tánh tình chị trẻ trung và hay nói tiếu. Ngồi kế bà Tư chị cười khè khè chêm
vào những lời lẽ vui nhộn… Tiếng cười chưa dứt, thì chị gống gân cổ trỗi giọng:
- Có chớ, sao không thật! Mấy bà nghĩ xem: “Bạn ơi quan hà xin cạn chén ly bôi/ Ngày
mai tôi đã đã đi xa rồi… Giữa đoàn hùng binh có tôi đi hàng đầu/ Trở về là khi
nước non vui bình yên…” Rồi chị bắc qua bài khác, hát câu đầu nầy nhảy qua
câu giữa bài kia vừa hát vừa lắt đầu nhịp chân, than mình ẹo qua ẹo lại: “Đừng chê anh lính đám cưới nhà binh em ơi/
Em sẽ là cô dâu đẹp tuyệt vời …/ Đám cưới bọn ta tưng bừng biết mấy…/… Tám xe
lội nước theo sau/ Chín xe đại bác đi đầu… Cưới em nhỏ lắm em ơi/ cưới em mời
mấy trăm người… Có ai bằng đôi ta đâu…” Mèn ơi, mấy em nghe đến đó quýnh
đít thiếu điều năn nỉ ỉ ôi, xin được sửa túi nâng khăn cho chàng ta là đàng
khác…
Coi bộ chưa đã, chị hứng chí lớn tiếng:
- Nhưng“Sức mấy! Bỏ qua đi tám...” Bây giờ thì
hai bông mai vàng trên ve áo cậu Nhân, đã làm các em cho mình là kiều nữ trong
xóm nín khe… Bởi lúc chàng còn đi học, các nàng chê là thằng con bà bán bánh
nghèo mạt rệp… Chê cho đã thiệt là mấy nường không biết nhìn xa, hiểu rộng, chớ
có biết đâu anh chàng lính chiến Nhân “Con
nhà nghèo, nhưng học giỏi, và đẹp giai...” để giờ đây anh ta tảng lờ làm
ngơ các cô nàng trong xóm… Khiến các em vừa tức vừa tiếc hùi hụi, bởi ngày xưa
lỡ dại chê nhằm người ta... đó mà!
Các bà phá lên cười rộ vui vẻ rồi trở về nhà ai phận
nấy của mình. Họ là những người phụ nữ lam lũ ở xóm nghèo, bình dân, vui vẻ,
tốt bụng giúp đỡ chòm xóm khi nhà ai có người đau bịnh, tối lửa tắt đèn… Họ hay
chọc ghẹo đối phương nhưng để vui cười chung, rồi qua đi chớ không nói xấu, nói
hành nói tỏi, hay ức hiếp hoặc có ác ý với ai…
Cho đến một ngày kia, chàng Nhân dắt về giới thiệu với
mẹ, cô Hồng Thủy làm ở sở Mỹ nơi chàng thường theo mấy người bạn ngoại quốc ghé
mua hàng “PX” (PX, chữ viết
tắt của Post
Exchange, là những cửa hàng bán lẻ cho Mỹ... không có thuế) Bà Hai má Nhân là người mẹ hiền,
thương yêu và luôn chiều chuộng con. Bà nghĩ giờ con bà cũng đã lớn rồi, có
thương cô nào thì bà cưới cô ấy cho anh.
Thế là đám cưới nhà binh được tổ chức đơn sơ nhưng đầy
đủ lục lễ cho con mình. Dù là cảnh nhà mẹ góa con côi, nhưng bà Hai cũng đi đủ
lễ, chớ không nói đơn sơ mà giảm quà lễ để thiên hạ cười chê mẹ con bà...
Sau ngày cưới, Hồng Thủy về sống với mẹ chồng. Còn
Nhân thì luôn bôn ba ngoài chiến trận, đôi ba tháng mới về thăm gia đình một
lần. Khi dâu sanh đứa con gái, bà nội đặt cho tên: Nguyễn Thị Nhân Nghĩa, con
của ông Nguyễn Vĩnh Nhân và bà Trương Hồng Thủy…
Bà Hai nghỉ buôn bán, vui mừng sung sướng ở nhà trông
coi tâm can bửu bối, là đứa cháu nội bé nhỏ của bà đó đa! Bà để cho con trai
mình yên lòng ngoài chiến tuyến, và con dâu đi làm!
Thuở đó, ở góc nhỏ của phương trời miền Nam tự do dưới
Chánh thể Cộng Hòa, có gia đình bà Hai bán bánh bò, không giàu sang nhung lụa,
nhưng cơm no, áo ấm cuộc sống êm đềm và hạnh phúc dâng đầy bên dâu con và tiếng
cười khóc vô tư của trẻ thơ...
Sau ngày Nghĩa ra đời không bao lâu thì thời thế đổi
thay, “Ngày 30 tháng 4 năm 1975” giặc phương
Bắc ào át tràn vào cưỡng chíếm miền Nam. Gia đình bà Hai tan nát, Nhân bị giặc
bắt cầm tù trong cải tạo. Hồng Thủy ra buôn bán hàng ở chợ trời, nhưng không
bao lâu nàng đi luôn không về nữa! Bà Hai già yếu phải đi bươi rác, lượm lon…
khổ cực biết chừng nào để chắt chiu nuôi cháu, và bám víu cuộc sống nghèo nàn
chờ ngày con trai trở về…
(Đó là những gì Nghĩa nghe bà nội kể lại, và cô hiểu
biết suy xét theo thời gian theo tuổi lớn khôn dần…)
Bà chủ tiệm nước Cao Thăng ở chợ thành Mỹ Tho, thường
đi chùa làm việc từ thiện… Qua lời sư, bà biết được tình cảnh cha con tôi. Nên
khi sắp sửa trốn chạy khỏi nước Cộng sản nầy… bà cho hai cha con tôi một chỗ
ngồi ở dưới tàu chở mấy trăm người vượt biên...
“Một chỗ ngồi nhỏ xíu dưới hầm tàu, nhưng to lớn vô
cùng, to lớn như một thế giới cho những kẻ nghèo đi tìm tự do! Và đó đã thể
hiện một tấm lòng thương người, một tấm lòng Bồ Tát bao la như đại dương của bà
chủ tiệm Cao Thăng (chủ tàu vượt biên…) đối với cha con chúng tôi...”
Lúc đầu bà chủ tàu chỉ cho một người đi. Nhân nhường
cho con gái đi, còn ông thì ở lại! Nghĩa biết tâm ý của cha, khóc sướt mướt...
Cô vùi đầu vào ngực Nhân tức tưởi bệu bạo:
- Con không đi,
con không đi đâu! Con không thể xa ba… Con nhứt định không đi... chết sống
chúng ta có nhau ba ơi!
Cặp mắt sâu hõm hàng ngày như hai cái hố nhỏ của ba
tôi... càng sâu thăm thẳm hơn! Mặt đanh lại, ông lạnh lùng bảo tôi:
- Nầy Nghĩa,
hãy thành thật trả lời ba: “Con có thương, và muốn trả hiếu cho ba không...?”
Giọng sũng đầy nước mắt thương đau:
- Dạ có, dạ có…
trên cõi đời nầy người con kính yêu nhứt là bà nội và ba… Giờ chỉ còn hai cha
con mình, ba chết con sẽ chết theo, ba ở đâu con sẽ ở đó… Xin ba đừng bắt con
phải xa ba… cho dù nơi con sắp đến giàu sang, nhung lụa, hay chốn Bồng lai tiên
giới cũng vậy... nếu không có ba thì còn có ý nghĩa gì nữa... con sẽ không đi
đâu ba ơi…
Nhân ôm chầm lấy đầu con mình, vuốt
tóc nghẹn lời thổn thức:
-
Ba cũng không muốn xa con gái ba, nhưng vì tương lai của con… Qua bên đó
may ra con còn gặp được tấm lòng nhân của người khác xứ, sẽ được đi học, và
tiến thân… Con ở lại là gánh nặng cho ba, vì ba không lo cho con được! Dù muốn
lo nhưng tình cảnh ba mù lòa, lại là một người thất bại bị kẻ thù trù dập cố
tình hủy diệt thì làm sao lo? Ở đây chúng ta ăn không no, lạnh không áo, vô gia
cư, không nghề nghiệp, thì tương lai của con sẽ về đâu? Và con còn chuyện quan
trọng phải thay ba đang làm dang dở… Con ơi, trả hiếu cho ba, thì con hãy nghe
lời ba! Nghe lời ba tức là đã trả hiếu cho ba rồi đó con…
Nghe cha nói xong, tôi ôm chặc lấy người vừa khóc vừa gật
đầu:
- Dạ con nghe
ba… Con sẽ quyết làm những gì ba muốn, ba dặn dò… Con nghe ba, con nghe ba! Con
thương ba lắm ba ơi!
Bên ngoài gió lành lạnh hắt hiu, mưa trong suốt rào rạc
rơi mau và long lanh trong ánh nắng hoàng hôn le lói ở phương tây chiếu rọi. Trời
gầm gừ,sấm nổ ầm ầm vang dội... những tia sáng lòe chớp nhanh rồi tắt ngấm như
những ý nghĩ chợt đến rồi chợt đi... trong tâm hồn thơ ngây của Nghĩa.
Trong cuộc đời bé nhỏ chưa bao giờ tôi sung sướng và hạnh
phúc bằng... cho dù sau nầy ngày tôi ra
trường Y khoa, nhận bằng bác sĩ của Mỹ, cũng không bằng! Tôi vẫn nhớ hoài, nhớ
suốt đời kiếp nầy để không bao giờ quên ơn người, ơn đời có lòng giúp đở cha
con tôi...
Số là sáng hôm đó trời trong mây tạnh và nắng hồng
rạng rỡ chiếu lung linh trên cành cây so đũa. Lác đác trên những cành ẻo lả,
bông so đũa trắng như mây trời, và điểm những trái dài xanh như ngọc bích, mong
manh treo tòn ten trên cành ở hiên sau chùa.
Tôi vẫn không quên, nên tôi vẫn nhớ, nhớ rất rõ, nhớ mấy
hôm trước khi phải theo đoàn người vượt biên. Tôi buồn rầu vì phải sắp xa người
cha tật nguyền bịnh hoạn của mình. Ngồi bẹp dưới góc cây trắc bá diệp ngoài sân
chùa, nghe sư tụng kinh có ca có kệ bên trong, khi lòng đang ngổn ngang trăm
mối đau buồn, khiến tôi càng thêm sầu thúi ruột! Ngồi dựa gốc cây tôi nhìn trời
xanh cao vòi vọi bao la bát ngát thút thít khóc một mình! Tôi lơ đãng trước
không gian trong suốt, màu nắng lụa trãi dài trên cỏ cây hoa lá với bầy bươm
bướm chớp, chớp đôi cánh màu sắc rực rỡ cạnh đám huỳnh trúc hơn hớn lá tươi non
trước sân chùa...
Cảnh sắc nhẹ nhàn êm ả như vậy nhưng trong tâm tư tôi
trời như đang tối sầm, tưởng chừng như mây khói đèn đang kín trên cao… Và tôi
cũng nghĩ dại, là mong trời sập xuống chết hết cho rồi!
Từ trong Chánh điện bước ra, dáng sư cao gầy. Mặt sư
lúc nào cũng trang nghiêm, trầm tĩnh. Thấy tôi sư bảo:
- Nghĩa cha con
đâu, ông đi bán vé số rồi à? Chừng nào ba con về, dắt lên gặp sư nghe… Con đang
khóc đó hả?
Tôi mau lẹ lấy tay quẹt nhanh những giọt nước mắt còn
đọng trên mi:
- Dạ, con khóc
vì không muốn xa ba con! Tội nghiệp ông mù lòa, con đi rồi không ai đưa ba con
ra chỗ bán vé số, không ai rót nước, đút cơm khi bịnh hoạn… Con thương ba con
lắm sư cụ ơi…
Nhịn không được, tôi khóc ồ lên! Sư vuốt tóc tôi chép
miệng nhẹ thở dài rồi trở vào chùa… Tiếng cầu kinh hòa cùng tiếng mõ chuông lại
ngân nga, êm êm rền vọng xa đưa… Mùi khói, nhang, trầm hương theo gió nhè nhẹ
thoảng bay…
Chiều đó tôi dắt ba đến gặp sư, như sư đã dặn dò. Tôi
thấy sư đang tỉa nhành chết, lá úa của những cây kiểng trước sân chùa. Sư vẫn
điềm đạm, nét mặt suy tư, và chầm chậm bảo với chúng tôi:
- Nghe thấy
hoàn cảnh của cha con anh, ông chủ Cao Thăng bảo vợ cho cả hai cha con cùng đi
luôn một thể…
Cha con tôi quì xuống lạy sư! Không nói gì, tay lần
chuỗi, mắt u buồn nhìn trời cao vòi vọi... hiền lành, từ tốn sư khẽ bảo:
- Cầu xin Phật
Tổ phù hộ cho cha con anh! Tôi chẳng giúp gì được, có lẽ do lòng thương con của
một người cha như anh, đã làm động lòng người đời và động lòng Trời khiến xui
như vậy… Anh phải luôn ăn hiền ở lành, bởi Ơn Trên không bao giờ phụ kẻ có
lòng… Tôi sẽ cầu an cho cha con anh…
Sư quay qua vuốt tóc tôi:
- Nghĩa, sư
biết con là đứa trẻ ngoan! Qua tới bờ bến tự do con ráng học hành… làm người
tốt, để trả hiếu cho cha con và trả ơn đời…
Trong đoàn người ngồi chờ xuống tàu lào xào, ồn ào lúc
to lúc nhỏ, mặc dù người dẫn đường đã nhiều lần nhắc nhở giữ yên lặng. Tôi ngồi
sát vào lưng ba, tay ôm bọc áo quần cũ vá chằng vá chịt của cha con tôi. Nhưng
lòng tôi ngập tràn hạnh phúc… cho dù trước mắt là hầm chông, là bẫy mìn của Việt
cộng… tôi vẫn thản nhiên tiến bước, vì có ba đi bên cạnh cuộc đời với tôi! Mặc
dù ba tôi là người tàn phế, đang ngồi đó, trầm ngâm chẳng nói lời nào, trong
đôi mắt sâu thẩm không còn thấy ánh sáng mặt trời, nhưng trên khuôn mặt hằn nét
thống khổ, lẫn kiên cường, bất khuất đó đã cho tôi sức sống, niềm tin và niềm
hy vọng mảnh liệt vô biên!
Mười mấy ngày trên đường vượt biên sóng gió nộ cuồn của
biển khơi. Rồi tàu cũng được cặp một bến ở Nam Dương Quần Đảo. Trên Hành trình
vượt biên của tàu bán chánh thức (Người đi trả chủ tàu bằng vàng. Chủ tàu đóng
cho Việt cộng để được rời nước) mang số “Mỹ Tho 2736”
Tàu vượt biên chúng tôi chết gần cả trăm người vừa già
vừa trẻ em, vì sóng gió dập dồn và yếu sức… “Huyệt
mộ người cha kính yêu của tôi, cũng ở lòng đại dương trong chuyến bôn đào bằng
đường biển nầy!”
Hôm nay cũng trên chuyến tàu ra biển,
tôi theo đoàn y tế thiện nguyện, đi trị bịnh cho những tù nhân trong trại tù
Alcatraz, ở hòn đảo Alcatraz gần San Fransico thuộc tiểu bang California.
Nhìn trời nước bao la, nhìn thành phố San Fransico nhà
cái cao, cái thấp… chập chùng san sát như dính liền nhau. Cả thành phố dưới bầu
trời trong nắng mai rực rỡ, và như nằm lững lờ trên mặt nước trong xanh lao xao
sóng bủa chập chùng.
“...Ba kính yêu của con ơi, con gái ba giờ đã lớn đang ở trên một nước tự do, ngắm
nhìn trời xanh, in những vầng mây trắng cuồn cuộn nhẹ trôi. Nắng mai chiếu lung
linh, gió mát thổi bồng mái tóc con... và gió là là trên mặt nước biển xanh,
trong vắt thấy cả cá lội nhởn nhơ… Con nhớ ba lắm, con thương ba vô cùng… con
gái không phụ lòng ba, giờ con đã thành tài như ba ước mong… Ngoài những giờ
làm việc ở bịnh viện chuyên khoa về mắt… Thời gian còn lại, con ghi danh hành
nghề trong các đoàn y tế thiện nguyện. Con đã đi Thái Lan, Cam-Bô-Chia, các
nước vùng dân nghèo… cả ở Ép-Phi-Ca, Ai-Rắc nữa đó ba. Nhưng con chưa trở về cố
quốc, vì nơi đó vẫn còn chế độ Cộng sản vô thần, tàn bạo... biết bao người dân
bị trù dập, khổ đau tộc cùng...
Sư cụ giúp chúng ta đã viên tịch… Gia đình ông Cao
Thăng chủ tàu cho cha con mình vượt biên đang ở Canada (bà chủ qua đời từ mấy
năm trước) các con ông đã thành nhân.
Lời dạy dỗ của ba là kim chỉ Nam đã và sẽ làm hành
trình cho con suốt cuộc đời nầy! Ngày xưa ba đi lính vì an nguy cho gia đình và
dân tộc. Không kể đến thân mình, ba cùng đồng đội bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải quê
hương đất nước, cho một miền Nam Cộng Hòa Tự Do của chúng ta. Hôm nay con gái
ba làm những gì con có thể làm được như ba dạy bảo là giúp người, giúp đời, và…
Ba ơi, mặc dù ba nay đã ra người thiên cổ, nhưng con
biết ba lúc nào cũng quanh quẩn bên con, nhắc nhở con, giúp đỡ con gái ba. Con
thấy tủi thân không có ba như các bạn bè. Ai còn cha thì xôn xao mua quà nầy
quà kia cho cha, trong ngày lễ báo hiếu, vinh danh cha…
Thưa ba, mỗi năm ngày báo hiếu từ phụ, lại cận kề ngày
Quân Lực của Việt Nam Cộng Hòa. Con xin gởi ba tấm lòng thành ghi nhớ ơn tiền
nhân, nhớ ơn ba trong ngày báo hiếu từ phụ. Ba đã cho con dáng dấp hình hài
lành lặn nầy. Ba cho con tâm hồn tươi vui, khỏe mạnh nầy. Ba đã cho con tất cả,
tất cả những gì con hiện có… Con đã làm những việc thiện, và những việc... ba
dặn dò chỉ dạy.
Nhưng con vẫn còn nợ ba! Ba đã trăn trối: “...Trước khi qua đời ba còn nhắc nhở/ …Hoàn
cảnh nào cũng phải giữ sắt son/ Cha ấu lo nhân nghĩa sẽ không còn/ Trên đất
nước mấy nghìn năm Văn Hiến…”
Thưa ba, những người trẻ Việt Nam lưu vong, ở quốc nội...
sẽ hoàn tất trong ngày không xa… Con sẽ dong ruỗi đường ba đi còn dang dở…” Ba
ơi “Con
còn nợ ba”!
Tuyển
tập truyện ngắn“Xứ Lạ Tình Quê”
DƯ THỊ DIỄM BUỒN
ĐT: (530) 822 5622
Email: dtdbuon@hotmail.com
1 nhận xét:
Chúc mừng-
Câu chuyện thiệt thật tuyệt vời - Mong sao được đem lên màn hình lớn
Cầu chúc "Cô Nghĩa" được an lành và làm tròn bổn phận của cha dấu yêu.
Đăng nhận xét