Vào thời Lê Chiêu Tông, có một viên quan lớn trong triều tên là Mạc Ðăng Dung có ý muốn cướp ngai vàng. Nhà vua biết điều đó nhưng không làm gì được vì thế lực họ Mạc rất lớn. Hắn cầm binh quyền, bè đảng lại đông nên không thể làm gì được. Năm Đinh Hợi 1527, Mạc Đăng Dung làm phản, vua Lê bị Mạc Ðăng Dung bắt đem giam lại.<!->
Hồi ấy ở gần trại giam tại Đông Hà có một cô hàng rượu vẫn thường đem rượu đến bán cho quân lính canh ngục. Một hôm, cô hàng đưa rượu vào bán, thấy có một phạm nhân mặt mũi khôi ngô bị giam riêng ra một nơi. Khi biết người đó là vua, cô hàng có ý muốn làm quen. Mỗi lần bán rượu cho ngục tốt, nàng đều rót cho vua uống. Dần dần giữa hai người có một mối tình nhóm lên. Một hôm, cô hàng cất một mẻ rượu rất ngon có pha sẵn thuốc mê, đến chuốc cho lính canh. Khi thấy họ nằm gục xuống, nàng bèn vào tình tự với vua.
Từ đó biết cô hàng rượu có thai. Nhà vua biết mình không thoát khỏi bàn tay tàn bạo của họ Mạc, bèn giao ấn ngọc lại cho nàng và nói:
- Nàng hãy giữ vật này làm dấu tích, nếu sau này đẻ con trai, nó sẽ có ngày phục thù cho cha. Còn nếu là con gái thì nàng hãy liệng ấn ngọc giữa dòng, đừng để cho một kẻ nào lợi dụng !
Không bao lâu, nhà vua quả bị họ Mạc sai người vào ngục giết chết. Tất cả hoàng hậu, thái tử, công chúa, phi tần của nhà vua cũng đều chung số phận. Xong việc đó, Mạc chiếm lấy ngôi Lê, làm vua nước Ðại Việt.
Cô hàng rượu được tin, không còn hồn vía nào nữa. Nàng trốn đi một nơi khác làm thuê làm mướn, sống một cuộc đời lẩn lút. Ðủ ngày, đủ tháng, nàng sinh được một người con trai đặt tên là Chổm. Lớn lên, Chổm được vào chùa ở với sư cụ Thạch Toàn học kinh kệ. Chổm rất sáng dạ nhưng phải cái nghịch ngợm thì không ai bằng.
Một hôm đi chơi về đói, Chổm thấy trước tượng mụ Thiện có bày một mâm đầy chuối và quýt. Anh chàng rón rén đến bệ, bịt mắt Mụ Thiện lại và bẻ chuối ăn. Bất đồ sư cụ ở đâu đi vào trông thấy liền bắt nằm ra đánh. Chổm tức lắm, chờ lúc sư đi vắng, lấy giấy viết mấy chữ: "Mười tay, mười mắt không giúp gì cho ta. Thật là vô ích. Phải đày đi phương xa". Viết xong dán vào ngực mụ Thiện. Ðêm hôm ấy, sư cụ tự nhiên mộng mụ Thiện bảo mình rằng:
- Nhà vua đói nên mới ăn, sao lại đánh ngài để ngài đuổi ta đi. Vậy phải xin lỗi ngài để ngài tha cho ta.
Tỉnh dậy, sư cụ rất phân vân, mới gọi chú tiểu Chổm vào kể chuyện cho biết và bảo bóc giấy đi. Sư cụ hỏi anh chàng:
- Cha mày đâu ?
Chổm đáp:
- Tôi lớn lên chưa từng nghe nói có cha.
Sau đó Chổm trở về hỏi mẹ:
- Cha con đâu ?
Mẹ sợ không dám nói sự thật cho con biết, đáp:
- Cha con họ Lê, bị hổ ăn thịt mất rồi.
Nghe nói thế Chổm rất buồn. Từ đo anh chàng lập tâm giết hổ để báo thù cho cha.
Một hôm, Chổm đi vào rừng chơi, thấy một con hổ đang ngủ dưới gốc cây, liền rón rén cầm một hòn đá lớn ném mạnh vào đầu hổ, hổ vỡ óc chết tươi. Ðang nắm đuôi kéo hổ về thì Chổm bỗng gặp một con hổ khác xông ra. Chổm sợ quá quẳng xác hổ cắm đầu chạy. Khi hổ sắp đuổi kịp thì tự nhiên có một ông già tay cầm một cây côn sắt ở trong rừng hiện ra đánh chết con hổ dữ. Chổm thoát chết, sụp lạy ông già. Ông già trao cho Chổm cái côn, bảo:
- Con hãy học một ít miếng võ để mà hộ thân.
Chổm sung sướng vâng lời. Dạy xong, ông già cho Chổm cái côn rồi đi mất.
Từ đó, Chổm dùng côn làm vũ khí tuỳ thân. Một hôm đi qua một cái miếu, Chổm từng nghe nói có nhiều yêu quái hại người, bèn cầm côn trèo tường nhảy vào tìm yêu quái. Một lát, ở trong hang sâu bò ra một con rắn lớn mắt sáng như sao, miệng phun khí độc toan vồ lấy Chổm. Chổm giơ thần côn vụt lấy vụt để vào đầu rắn. Rắn chết, từ đó trong xóm được yên ổn.
Hai mẹ con Chổm về sau thấy yên, lại trở về chốn cũ. Hằng ngày anh chàng đi kiếm củi hoặc làm thuê làm mướn nuôi mẹ. Những lúc bụng đói, Chổm thường vào ăn cơm hay mua thức ăn tại các quán cơm ở cửa ô. Hàng nào được Chổm vào ăn là hôm đó đắt như tôm tươi; còn hàng khác chỉ ngồi xua ruồi. Người ta cho là Chổm nhẹ vía nên hàng nào cũng muốn mời anh vào ăn dù bán chịu cũng được. Chổm loang toàng và tiêu pha bạt mạng. Toàn là ăn chịu, mua chịu. Ai hỏi nợ, hắn cũng bảo:
- Ðến ngày tôi làm nên nghiệp lớn, sẽ xin trả chu tất !
Hồi bấy giờ có một ông quan khác tên là Nguyễn Kim trốn sang Lào mưu đồ việc diệt Mạc. Vua nước Lào nhường cho ông ta miếng đất Sầm Châu làm căn cứ để lo việc khởi mã, Nguyễn Kim đã gây được lực lượng. Nhưng ông ta còn muốn tìm một người thuộc dòng chính thống để bá cáo thiên hạ. Khốn một nỗi con cháu vua Lê đã bị Mạc giết hại hầu hết.
Một đêm nọ, Nguyễn Kim thấy một vị thần hiện ra trong giấc mộng bảo:
- Thiên tử ra đời đã lâu sao không đón về còn chờ gì nữa ?
Ông hỏi:
- Thiên tử ở đâu ?
- Cứ đi về phía tây kinh thành ,ở dãy hàng cơm đúng ngày Thìn giờ Ngọ, hễ thấy rồng đen quấn cột chính thị là thiên tử.
Sau khi tỉnh dậy, Nguyễn Kim rất mừng, bèn mang theo một ít bộ hạ cải trang đi tìm con cháu nhà Lê theo như lời thần nhân đã mách.
Hôm đó, Chổm đang ngồi ở hàng cơm, thấy có mấy người khách lạ đi qua, bèn đứng ôm lấy cột nhìn ra. Nguyễn Kim rảo bước qua một lượt chỉ thấy quấn cột là một chàng trai trẻ tuổi, da đen sì, nhưng thấy bộ điệu hèn hạ nên cũng không để ý.
Ðêm hôm đó Nguyễn Kim lại mộng thấy thần trách:
- Ta đã mách cho biết thiên tử mà không nghe. Ngày mai ra bờ sông hễ thấy ai đội mũ sắt, cưỡi thuyền rồng là đúng.
Hôm sau, Nguyễn Kim chực ở bờ sông nhìn những thuyền bè qua lại nhưng chờ mãi chả thấy ai đội mũ sắt cả. Mãi đến gần gối có một chuyến đò ngang, trong đó có Chổm và một người bán chảo gang. Gặp khi trời đổ cơn mưa, Chổm không có nón, phải mượn chiếc chảo úp lên đầu cho đỡ ướt. Nhưng Nguyễn Kim không chú ý vì thấy y không có vẻ gì là quyền quý. Đêm đó vị thần lại xuất hiện trong giấc mộng của Nguyễn Kim, tráchh ông ta không nghe lời mình rồi bảo:
- Ngày mai cứ đến chỗ quán cơm cũ tìm người nào "đi chữ đại, trở lại chữ vương" thì đón về.
Qua ngày sau, Nguyễn Kim và bộ hạ lại kéo nhau đi tìm. Họ quả thấy anh con trai hôm nọ đang rượu say bây giờ nằm trong quán cơm, đầu gối lên ngọn côn, hai tay bỏ xuôi xuống, hai chân dạng ra hai bên như chữ "đại". Bỏ đi một chốc, đến lúc trở lại, họ thấy Chổm đã cựa mình, lúc này ngọn côn trật lên khỏi đầu, hai tay bỏ ra trước ngực, còn hai chân thì xếp bằng tròn như chữ "vương". Bấy giờ Nguyễn Kim mới tin chắc anh chàng này là người mà thần có ý mách bảo cho mình, bèn giả cách vào quán ăn uống, chờ Chổm dậy sẽ tiến hành làm quen.
Chổm chợt tỉnh, thấy một người khăn áo có vẻ quyền quý đến sát giường mình thì cầm côn chực bỏ chạy. Nhưng Nguyễn Kim đã giữ Chổm lại thưa rằng:
- Xin điện hạ đừng sợ !
Chổm ngạc nhiên đáp:
- Ô hay ! Điện hạ nào ? Tôi là thằng Chổm đây !
Nhưng thấy người quyền quý ấy có vẻ ân cần kh hỏi thăm cha mẹ và chỗ ở, Chổm an tâm hơn trả lời:
- Tôi họ Lê, cha bị hổ ăn thịt, còn mẹ ở nhà.
Nghe nói là họ Lê, bọn Nguyễn Kim mười phần đã chắc đến bảy tám, liền theo Chổm về tận nơi. Trước những người khách lạ, mẹ Chổm vừa mừng vừa sợ. Khi biết bọn họ có thiện ý, mới đưa ấn ngọc ra và kể rõ đầu đuôi.
Thế là từ đó Chổm cùng mẹ từ giã ngôi nhà dột nát ở ngoại thành lên đường đến Sầm Châu lo việc phục thù cho cha. Thanh thế quân Lê mỗi lúc ngày một to. Vua Mạc nghe tin, sai tướng đem sáu mươi vạn quân vào đánh. Qua bao nhiêu trận kịch chiến, quân Lê đại thắng. Rồi không bao lâu, quân của Chổm lại đánh tiến ra Bắc. Quân Mạc hễ thấy quân Lê tới đâu là chạy trốn như vịt. Bấy giờ Chổm đường đường là một vị chúa uy thế lẫy lừng. Ðến ngày khải hoàn trở về kinh thành, khi quân gia đang trên đường tiến vào cửa ô thì bỗng có một số người chủ hàng kéo ra để chào người quen và để đòi nợ cũ.
Thấy thế, bọn lính toan bắt vì tội vô lễ. Nhưng chúa Chổm ngăn lại rồi kể chuyện ăn chịu ngày còn hàn vi cho các tướng nghe. Ðoạn bảo quan hầu lấy tiền ra trả nợ cho họ. Lúc đó có nhiều người thấy kẻ kia đòi được đòi nợ cũng xúm lại kể ơn nghĩa cũ; kẻ tính thành năm quan, người tính thành mười ... biến thành một cuộc truy nợ đông như đám hội. Bọn quan hầu đếm tiền mãi không xiết vì con số chủ nợ mỗi lúc một tăng. Bọn họ bèn nghĩ ra một kế là đứng trên kiệu vung tiền xuống cho ai nhặt được bao nhiêu thì lấy bấy nhiêu. Mọi người thấy thế đổ xô vào cướp. Dần dần quan quân tiến đến phố cũ (bây giờ là vườn hoa cửa Nam). Một viên đại tướng nghĩ chúa mình sắp lên ngôi tôn mà khách nợ cứ chạy theo réo mãi như thế thì còn ra thể thống gì nữa mới viết vào một tờ giấy hai chữ "Cấm chỉ" dán ở giữa phố và sai một toán quân đóng lại đó, ra lệnh hễ thấy ai đòi nợ chúa nữa thì chém ngay. Nhờ thế, người ta mới thôi réo và thôi đuổi theo xe Chổm.
Chúa Chổm vào đến hoàng cung thì trời sắp tối. Thấy văn võ bá quan ai cũng muốn mình lên ngôi ngay để yên lòng thiên hạ, Chổm bèn ngửa mặt khấn trời rằng:
- Hỡi thượng đế, nếu tôi xứng đáng nối nghiệp nhà Lê thì xin quay mặt trời trở lại chính ngọ, bằng không thì tôi trở về chốn cũ làm ăn, giao quyền vị lại cho người khác.
Khấn được một lúc quả nhiên trời sắp tối bỗng sáng hẳn, mặt trời treo giữa đỉnh đầu. Chổm đường hoàng bước lên đàn làm lễ đăng quang tự xưng hoàng đế. Lễ tất, mặt trời tự nhiên kéo một mạch về phương Tây lặn mất. Trời bỗng tối sầm lại như mực; lúc mọi nhà vừa thắp đèn lền thì gà vừa gáy canh một.
Ngày nay còn có câu tục ngữ "Nợ như chúa Chổm" và bài ca dao:
Vua Ngô ba sáu tấn vàng
Thác xuống âm phủ chẳng mang được gì
Chúa Chổm mắc nợ tì tì
Thác xuống âm phủ kém gì vua Ngô.
Ở chỗ vườn hoa cửa Nam bây giờ, cũng do sự tích trên mà người ta gọi là Ngã tư Cấm Chỉ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét