Mùa
Đông ở Canada năm nay thật khắc nghiệt. Những trận bão tuyết thay nhau đổ xuống
khiến cả thành phố Toronto nhìn đâu cũng chỉ thấy tuyết. Những núi tuyết trước
sân nhà, cao lừng lững, che khuất cả tầm nhìn. Vì vậy, mỗi lần lùi chiếc xe
mini-van ra khỏi garage là nàng lại có cảm giác sờ sợ, chỉ sợ không nhìn thấy
người đi bộ bất ngờ bước ra từ sau núi tuyết và lù lù đứng sau xe nàng mà nàng
không thấy kịp. Cái cảm giác bất an khiến cho Thúy nơm nớp lo lắng, nhích xe từng
chút một.
<!->Cho đến khi xe lăn bánh trên đường nàng mới cảm thấy nhẹ nhõm. Mặc dù
lái xe đã trên hai chục năm và chưa từng có tai nạn, nhưng sao nàng luôn có cảm
giác lạ lùng này. Có lẽ nàng vẫn chưa quên được tai nạn của người hàng xóm cũ,
khi lui xe ra đã vô tình bất cẩn cán phải đứa con nhỏ mới hai tuổi của ông ta.
Một tai nạn quá đau thương và nghiệt ngã! Người vợ đã ngất xỉu tại chỗ, còn người
chồng thì như một người quẫn trí. Có những nỗi đau mà con người phải gánh chịu
như định mệnh đã an bài, để rồi chỉ còn mong thời gian sẽ làm dịu đi nỗi đau và
nhạt phai đi những nỗi niềm dấu kín. Cũng may là họ đã dọn đi một nơi khác
không lâu sau đó, có lẽ để quên đi những kỷ niệm đau buồn. Nếu không Thúy chẳng
biết làm sao mà có thể an ủi họ được. Khi nỗi đau thương quá sâu đậm, lời an ủi
nào chắc cũng chỉ là sáo rỗng.
Lan man nhớ đến câu chuyện người hàng xóm, Thúy vừa lái xe ra xa lộ. Không ai bảo
ai, người nào cũng bật đèn pha và lái thật chậm vì tuyết mới rơi, nên đường xa
lộ vẫn chưa được dọn dẹp. Thúy cũng không hiểu sao những kỷ niệm quan trọng trong
đời Thúy thường gắn liền vào những ngày bão tuyết. Thời gian cứ biền biệt trôi,
trong nháy mắt cũng đã 15 năm rồi còn gì, nhưng những ngày bão tuyết như thế
này, Thúy vẫn quay quắt nhớ đến Mẹ. Mỗi khi nhớ đến Mẹ, lòng Thúy lại quặn đau,
không biết vì sao, vì thương Mẹ, nhớ Mẹ hay vì thèm khát được mẹ ôm trong tay,
hay chỉ đơn thuần ước ao được gọi hoài hai tiếng Mẹ ơi thân thương. Cái cảm
giác bất lực, nhìn người thân yêu từng bước, từng bước rời xa mình thật đau
lòng khôn tả. Ông trời thật oái oăm, ban cho Thúy niềm hạnh phúc được lần đầu
làm mẹ, thì lại nỡ cướp đi người mẹ hiền thương yêu của Thúy. Thúy và mẹ đã bàn
tính làm gì và Thúy sẽ dắt mẹ đi đâu chơi khi được nghỉ ở nhà một năm trông
con. Vậy mà ngày đầu Thúy nghỉ làm chuẩn bị sinh con thì cũng là ngày Thúy đưa
mẹ đi bác sĩ để nghe kết quả chẩn đoán. Cả nhà đã cố gắng gượng vui, đón giao
thừa trong tâm trạng rối bời. Thúy về ngủ với Mẹ để rồi chỉ có thể cắn răng
khóc thầm, cố gắng làm mặt vui vẻ để mẹ lên tinh thần. Mùng Hai Tết, Thúy vác
cái bụng bầu vượt mặt đưa Mẹ vào nhập viện. Mỗi ngày Thúy ở với Mẹ từ sáng đến
tối, cố gắng nói những chuyện vui và trấn an Mẹ để Mẹ lên tinh thần, nhưng Mẹ
nào hay Thúy đã phải trốn Mẹ chạy ra ngoài kiếm một góc ngồi khóc vì quá xót xa
và đau lòng. Các bác sĩ và y tá đều rất ái ngại khi thấy Thúy bụng mang dạ chửa
mà phải vất vả và khóc lóc như vậy. Thúy cũng cố gượng vui khi họ hỏi khi nào
thì đến ngày sinh, Thúy nói đừng lo cho tôi, ở đây tiện lắm, cần sinh thì chỉ
bước xuống mấy tầng lầu là sẵn sàng rồi, khỏi sợ bị kẹt xe. Tội nghiệp mẹ, miệng
bị đắng vì thuốc nên ăn món gì cũng không thấy ngon, chỉ có thức ăn Thúy nấu là
mẹ thích ăn thôi, cho nên ngày nào trước khi về Thúy cũng hỏi mẹ thèm món gì để
nấu theo ý mẹ.
Tối nào khi chị Thúy đến thay phiên trông mẹ, rời bệnh viện là Thúy
lật đật chạy mua thức ăn về nấu cho mẹ trước khi chợ đóng cửa. Về đến nhà, đâu
có được nghỉ ngơi, lại lên internet tìm hiểu, trả lời điện thoại, nấu ăn, …
loay hoay chợp mắt vài tiếng là đã sáng. Có trải qua những giai đoạn khó khăn
như vậy, mới thấy được sức mạnh và sự chịu đựng của con người rất phi thường.
Trái với sự ái ngại của mọi người chung quanh, Thúy vẫn cảm thấy khỏe khoắn,
ngoại trừ đôi chân bị phù nước vì mang bầu nặng mà phải đứng cả ngày. Thương mẹ
quá, mẹ ngày nào cũng lo lắng cho Thúy phải vất vả, mùa Đông bão tuyết mà cứ
vác bụng bầu chạy tới chạy lui khắp nơi, không được nghỉ ngơi. Thúy lại phải
nói an ủi mẹ là con cần phải đi lại nhiều mới dễ sinh con, ngồi một chỗ không tốt
đâu, bác sĩ cũng dặn vậy mà. Quả đúng thật, sau ba tuần chạy lui tới trong bệnh
viện với mẹ, Thúy đến ngày sinh và đã vượt cạn thật nhanh chóng khiến bà bác sĩ
cũng phải ngạc nhiên. Cô công chúa chọn đúng giờ sinh vào buổi sáng sớm, nửa
đêm Thúy âm thầm vác bụng vào bệnh viện, nên trong gia đình chẳng ai hay biết.
Sáng sớm gọi mẹ báo tin con đã có công chúa đầu lòng, mẹ vui lắm nhưng lại nghẹn
ngào, vì rất muốn được ở bên cạnh Thúy đỡ đần cho lần đầu không có kinh nghiệm.
Thúy lại phải an ủi mẹ: “Con khỏe lắm mẹ ơi, cũng nhờ đi bộ cả ngày, nên mẹ đừng
lo cho con. Cháu mẹ xinh xắn, dễ thương nhưng tham ăn lắm, khiến con cũng khổ với
nó”. Mẹ lại tẩn mẩn dặn lên dặn xuống, nào là con phải kiêng thế này thế nọ. Thúy
cười cười vâng dạ, nhưng nghĩ thầm trong bụng là con làm sao kiêng cử được như
mẹ dặn, ai lo cho mà kiêng với cử mẹ ơi.
Trời sinh voi sinh cỏ mà, ai sao mình
vậy. Ngày Thúy đưa mẹ vào bệnh viện nhằm ngày bão tuyết, đến ngày lái xe đi
sinh con cũng lại rơi vào ngày bão tuyết, nhưng tất cả đều không thấm bằng ngày
mang con về nhà. Tuyết rơi không ngưng từ sáng hôm qua, nên bước ra ngoài mà chồng
của Thúy không tìm thấy xe nữa, tất cả parking đều được chôn sâu trong cả thước
tuyết. Cào được hết tuyết để lấy xe đón hai mẹ con về, thì vừa lái ra khỏi parking
lại bị kẹt cứng trong một dốc núi tuyết, khiến xe không cách nào đi được. Thúy
ngồi trong xe mà lo quá. Gọi xe tới cứu mà mãi vẫn chưa thấy, chắc cũng bị kẹt
vì nhiều người cần giúp. Loay hoay mãi, chồng Thúy mượn được xẻng xúc tuyết dọn
đường đi, cuối cùng thì cũng vượt qua được chặn đường dốc đó mà về tới nhà bình
an. Mấy ngày đầu phải chăm sóc con và còn yếu, nên mẹ không cho Thúy vào bệnh
viện nữa, nhưng may có cô em gái ở xa bay về săn sóc mẹ giùm. Ngày nào mẹ cũng
vui gọi phone cho Thúy để hỏi thăm cháu ngoại. Những tưởng mẹ sẽ khỏe hơn, đâu
ngờ mới được vài ngày thì mẹ đã vĩnh viễn ra đi. Thúy không thể chấp nhận được
sự thật, nghe tin bệnh mẹ trở nặng, Thúy lao vào bệnh viện để chỉ được ở bên mẹ
thêm vài tiếng trước khi mẹ thiếp vào trong giấc ngủ ngàn thu. Có những sự thật
diễn ra trước mắt mình, nhưng mình vẫn không muốn chấp nhận. Có những nỗi đau
chỉ có thể cảm nhận bằng trái tim, không tài nào diễn tả nổi bằng lời. Nước mắt
có rơi bao nhiêu cũng không thể làm vơi đi nỗi sầu ngút ngàn trong lòng. Nhưng
thực tế vẫn là thực tế, trong cơn bão tuyết, gió rét lạnh buốt, Thúy vẫn nước mắt
vắn, nước mắt dài, bước thấp bước cao cùng chị gái đi lo việc hậu sự cho mẹ. Những
bận rộn lo toan ban ngày đã giúp Thúy có thể cứng cỏi hơn, nhưng đến tối về ôm
con thì tất cả những cảm xúc chất chứa trong lòng mới có dịp vỡ òa, như tan chảy
thành nước mắt rơi ướt áo mẹ và con. Thức đêm mới biết đêm dài, có con rồi mới
cảm nhận được hết tình cha mẹ thương con sâu nặng biết bao nhiêu. Nhìn chiếc miệng
bé xíu mút sữa say sưa trong giấc ngủ, đôi tay nhỏ nhắn quơ quơ tìm hơi ấm nơi
mẹ hiền,
Thúy thương con bao nhiêu lại càng nhớ mẹ bấy nhiêu, nước mắt Thúy lại
tiếp tục lã chã rơi. Thúy nhớ mẹ quay quắt, nhìn đâu cũng chỉ thấy hình ảnh mẹ
và nụ cười hiền. Những vất vả của lần đầu làm mẹ không có ai giúp đỡ, loay hoay
tự lo cho con với mớ lý thuyết học được từ sách vở, vật vờ thiếu ngủ vì phải
cho con bú sữa mẹ cả ngày lẫn đêm, rồi lúc con ngủ một chút thì lại phải lo nấu
nướng, dọn dẹp, thu xếp công việc, Thúy càng thương mẹ đã phải cực khổ cho Thúy
hồi nhỏ như thế nào. Người phụ nữ Việt Nam sinh ra vào thời chiến tranh như mẹ
của Thúy đã phải vất vả, thiếu thốn và thiệt thòi đủ thứ. Lại thêm bản tính hy
sinh và nhường nhịn, nên mẹ luôn dành những gì tốt nhất cho chồng con, bản thân
mẹ thì chẳng dám ăn, dám mặc, đến nỗi bà ngoại cũng phải la mẹ hoài.
Mẹ
của Thúy rất là giỏi và tài hoa, mẹ chẳng có được học cao vì thời loạn lạc, lại
là chị cả của một đàn em đông đúc, nhưng mẹ viết truyện, làm thơ, làm báo chẳng
thua ai cả. Bánh trái, may vá, đan móc gì mẹ cũng giỏi hết. Thúy tôn sùng mẹ lắm,
không phải chỉ vì mẹ là mẹ của Thúy. Mẹ lại rất có tài ăn nói, nên chuyện gì mẹ
kể cũng hấp dẫn và lôi cuốn người nghe. Bạn bè của anh chị em Thúy tới nhà là
thích được nói chuyện với Mẹ lắm, vì tính mẹ trẻ trung, hòa đồng với bạn bè của
con cái. Bố mất sớm, một mình mẹ quán xuyến lo toan, nhưng mẹ chưa bao giờ để
con cái bị thiếu hụt. Sau biến cố 4/1975, những công việc làm ăn của mẹ đã
không còn hoạt động được nữa, bố thì bị đi “cải tạo” biền biệt, chẳng biết bao
giờ được về, nên tất cả gánh nặng gia đình lại đổ trên vai cái cò đó là mẹ. Cái khổ là chẳng ai dám làm ăn chi cả, vì thời
buổi nhiễu nhương. Mẹ xoay ra dùng “hoa tay” của mẹ để kiếm tiền nuôi gia đình.
Mẹ bắt đầu bằng việc sửa và may quần áo cho hàng xóm láng giềng. Cũng nhiều người
làm việc may sửa quần áo tại nhà như mẹ, nhưng tiệm của mẹ đông khách lắm, vì Mẹ
đánh trúng tâm lý khách hàng. Mẹ bảo họ mang áo dài cũ tới mẹ sửa thành một cái
áo sơ-mi cho người lớn và một cái áo cho con nít. Những năm đầu sau 4/75, đâu
ai có dịp mặc áo dài nữa, mua vải mới thì tiền đâu mà mua, cho nên các bà mẹ rất
thích sáng kiến của mẹ Thúy, đua nhau mang áo dài cũ tới mẹ nườm nượp. Cái câu thành
ngữ “thợ may ăn vải”, không thể áp dụng cho mẹ được, vì mẹ tiết kiệm tối đa vải
cho khách hàng. Không chỉ các bà có con nhỏ mới mang áo dài tới sửa, ngay cả
các cô trẻ chưa có con cũng vậy vì đâu có dám khoe áo dài lả lướt đi dạo phố nữa,
nếu không muốn bị “kiểm điểm” và có khi còn bị kết tội “tư sản” nữa thì khổ. Thế
là các anh chị em của Thúy cũng được những chiếc áo mới, ké từ những mảnh vải
thừa này, như những mảnh đời góp nhặt, để mỗi chiếc áo là có cả câu chuyện đi
kèm!
Tiếng
lành đồn xa, thế là mẹ không làm xuể nữa, phải mướn các cô khác may phụ. Mẹ đứng
ra nhận hàng của khách, rồi lại chỉ cách cắt, cách may cho các cô này, để rồi
cuối cùng muốn giúp đỡ thêm nhiều người phụ nữ cùng cảnh ngộ khác, mẹ đứng ra lập
thành tổ hợp may gia công càng ngày càng phát triển. Từ một tổ hợp may nhỏ, nhờ
tài quán xuyến và khả năng giao tiếp của mẹ, tổ hợp đã nhận được đơn đặt hàng
may xuất khẩu, số nhân công cũng tăng theo đáng kể. Công việc đã vào quy mô,
nên mẹ chỉ còn lo việc giao tiếp và ký hợp đồng sản xuất. Đồng thời mẹ lại mở thêm lớp dạy đan móc cho
các phụ nữ không biết may. Rồi cũng theo đà tiến triển, mẹ lại thành lập một tổ
hợp đan móc, cũng nhận hàng xuất khẩu. Nghĩ lại mẹ thật là giỏi, vì lúc đó mẹ
có một nách sáu con mà em Út của Thúy chỉ mới được vài tháng, lại còn phải lo
chăm sóc cho chồng và bà nội nữa. Mẹ vẫn nói câu này với tụi Thúy là “cờ đến
tay ai nấy phất”, trải qua những cuộc đổi đời bể dâu, mới thấy được hết tiềm
năng của mỗi người.
Mẹ
của Thúy không những chỉ giỏi công việc, mẹ lại còn rất khéo tay tỉ mỉ. Thúy vẫn
nhớ mãi không bao giờ quên cảm giác được mẹ làm cho cái bánh sinh nhật ba tầng,
bắt bông kem thật là đẹp và sang trọng trong tiệc sinh nhật 3 tuổi của Thúy.
Trong trí óc ngây thơ của Thúy lúc 3 tuổi và cho mãi đến tận bây giờ, trên đời
này không có cái bánh nào đẹp và ngon hơn cái bánh của mẹ cả. Thúy vẫn nhớ mãi
cảm giác được mẹ yêu thương, tỉ mỉ bắt từng chiếc bông kem trang trí cái bánh
cao đến nỗi Thúy phải đứng trên bàn mới thổi tắt những ngọn nến được. Có lẽ đó
là ấn tượng sâu sắc nhất của Thúy, nên mỗi lần nghĩ đến mẹ là Thúy lại nhớ đến
cái bánh sinh nhật năm ba tuổi (cho dù sau này mẹ vẫn làm những cái bánh khác).
Cái bánh đã tượng trưng cho tình yêu vô bờ bến của người mẹ hiền. Cũng vì vậy,
nên khi Thúy có con, điều Thúy quyết tâm thực hiện đó là mầy mò tập làm bánh
cho sinh nhật của các con mình. Nhìn hai cô công chúa mắt sáng rỡ khi được mẹ Thúy
cho giúp làm bánh sinh nhật, theo đúng “đơn đặt hàng” của hai nàng, thì với
Thúy không có niềm vui nào sánh bằng. Người ta sinh xong thì nào phải kiêng cử,
không được đi lại, thế này thế kia, Thúy thì lăn vào bếp từ ngày đầu về nhà, và
chiếc bánh đầy tháng của con phải do Thúy tự làm. Khổ nhất là vừa trông con vừa
làm bánh, con bé hồi nhỏ hay khóc, ngủ không yên, nên Thúy đang bắt bông kem nửa
chừng lại phải bỏ đó chạy vào bồng con. Cái bánh cứ phải mang ra mang vô từ tủ
lạnh không biết bao nhiêu lần để kem bơ khỏi chảy, thì mới làm xong. Nhiêu khê
như vậy, nhưng Thúy vẫn vui lắm. Đến lúc các nàng công chúa 2-3 tuổi là vui nhất,
một sinh nhật phải có ít nhất 2 cái bánh, một cái có hình các công chúa hay các
nhân vật được yêu thích trong phim hoạt họa để … ngắm vì không được cắt ra ăn
các nàng sẽ khóc, và một cái bánh khác để cắt mời khách. Làm bánh một mình đã lỉnh
kỉnh, nhưng thêm hai nàng công chúa phụ tá nữa thì lại càng lắt nhắt gấp mấy lần!
Vừa phải bầy biện và chia tất cả kem bơ và đồ trang trí ra những chén nhỏ, vừa
phải chia dụng cụ làm bánh thành 2 phần, rồi lại phải “bày binh bố trận” theo
thứ tự để một mình Thúy vừa chỉ cách và hướng dẫn làm bánh, lại vừa làm thợ chụp
hình, thợ quay phim nữa, chưa kể cô bé con mới khoảng một tuổi, ngồi ghế còn
chưa vững lắm nên lâu lâu Thúy lại phải liệng máy, chụp con cho ăn chắc!
Đến giờ
xem lại những video quay lại cảnh làm bánh lúc đó thật là vui chịu không nổi. Mẹ
thì tay chụp hình, tay quay phim, miệng thì lo hướng dẫn hai cô công chúa làm
thế nào, bảo con lấy kẹo trang trí bánh, cô công chúa cũng ngước mắt nai tơ
nhìn mẹ như đồng ý lắm, nhưng tay bốc kẹo lại bỏ vào miệng! Mẹ cứ phải nhắc nhở,
con nhớ bỏ kẹo trên bánh trang trí nhé, con bé cũng gật gù, nhưng ba miếng vào
miệng con, thì một miếng mới để trên bánh. Làm xong cái bánh thì người Thúy ướt
đẫm mồ hôi cho dù đang mùa Đông, vì phải chạy qua chạy lại như con thoi, sắp xếp
chuẩn bị đạo diễn, rồi đến khi làm xong thì lại phải dọn dẹp bãi chiến trường
toàn bột, kem, màu vung vãi khắp nơi, lại còn phải rửa những dụng cụ bày ra và
tắm cho hai cô nàng “lọ lem” nữa chứ! Tuy mệt vậy, nhưng những video của các cô
bé khi còn nhỏ này quả thật vô giá. Mỗi lần có dịp mở ra xem thì Thúy cười muốn
bể bụng, sao mà các cô tiểu thư lúc nhỏ đáng yêu thế không biết. Đúng là thời
gian như vó câu qua cửa sổ, nếu Thúy không cố gắng chịu khó thì sẽ không bao giờ
ghi lại được những kỷ niệm dễ thương này. Kỷ niệm của Thúy với mẹ chẳng có nhiều
vì thời đó làm gì có phương tiện như bây giờ. Thúy nhớ mãi lúc con bé đầu lòng
chào đời, lúc đó loại máy digital camera còn rất mới và mắc. Thúy đã lục lọi
tìm kiếm mua cho bằng được cái máy tối tân nhất mới ra lò của Nikon từ bên Mỹ,
chưa bán ở Canada vì sở thích chụp hình cho con và muốn ghi lại thật nhiều hình
con lúc nhỏ. Mới đầu Thúy có cái máy digital camera thật là thích quá, vì nghĩ
không tốn tiền mua film như hồi trước nữa. Nhưng thực tế lại càng tốn tiền hơn,
vì Thúy chụp vô tội vạ, rồi khi mang đi rửa hình thì lại khó chọn lựa, tấm nào
con cũng đẹp, góc nào con cũng xinh, nên kết quả là hình rửa để đầy nhà. Sau đó
thì Thúy chuyển hướng sang thích làm digital photobook, thế là Thúy thức trắng
đêm lo chọn hình làm cho kịp thời hạn của những cái coupon bớt tiền hay được
cho khuyến mãi, lúc làm thì đam mê không sao, nhưng sáng ra mới thấy hai con mắt
thâm quầng vì thiếu ngủ. Thúy vẫn đùa với chồng đó là thú đau thương của các bà
mẹ. Nhớ lại hồi còn con gái, Thúy cần ngủ ít nhất bẩy, tám tiếng mỗi ngày,
nhưng đến khi có con rồi thì có đêm chỉ ngủ được ba hay bốn tiếng, riết thành
thói quen luôn.
oOo
Đường
phố ngập tuyết, xe cộ nối đuôi nhau chạy rồng rắn nên Thúy mất cả tiếng rưỡi mới
đến công ty. Vội vàng rũ bỏ những bông tuyết trắng vương trên tóc, trên áo
khoác và giầy boot, Thúy xách vội cái túi đựng hồ sơ vào văn phòng. Trời bão
tuyết nên giờ này văn phòng vẫn vắng hoe. Chắc nhiều người lợi dụng lý do bão
tuyết, không đi được để làm việc từ nhà cho khỏe, khỏi mất công chui ra ngoài
cào tuyết, dọn đường đi làm. Nếu Thúy không có buổi họp ngày hôm nay thì Thúy
cũng kiếm cớ ở nhà rồi. Ông xã vẫn nói Thúy “ba gai” vì làm việc theo thời tiết,
sáng ra mà thấy tuyết quá hay mưa quá, y như rằng ông xếp nhận được email của
Thúy kiếm cớ để làm ở nhà. Thật ra thì công việc của Thúy làm ở nhà cũng được,
trừ khi phải họp hành hay có projects gì mới cần bắt đầu. Tất cả mọi thứ Thúy đều
có thể làm từ nhà được qua hệ thống network.
Bước
vào văn phòng, Thúy chợt ngẩn người ra, vì trên bàn đã có một lọ hoa lan màu
tím thật đẹp. Ngày gì đây, mà sao lại có người tặng hoa cho mình? Thúy không thể
ngăn sự tò mò, thả vội cái túi xuống ghế, xoay xoay lọ hoa tìm tên người gửi
nhưng vẫn không thấy vết tích. Ai vậy nhỉ, chắc chắn không phải ông xã vì hôm
nay đâu phải sinh nhật, cũng không phải ngày kỷ niệm cưới. Chắc là của khách
hàng nào muốn lấy lòng nàng? Nhưng cũng không hợp lý, vì khách hàng chắc chắn sẽ
để lại tên. Thật là kỳ lạ quá, Thúy ngồi xuống ghế ngắm nghía lọ hoa lan tươi
thắm, lòng vẫn thắc mắc sao ai lại biết mà chọn đúng loại hoa Thúy thích nhất.
Trong một ngày bão tuyết lạnh lẽo thế này, có những đóa hoa lan tím mộng mơ
trang điểm buổi sáng khiến cho lòng Thúy cảm thấy ấm áp hơn. Thúy rất yêu màu
tím, có lẽ vì màu tím rất lãng mạn, không rực rỡ như màu đỏ, không đằm thắm như
màu xanh, cũng không nổi bật như màu vàng, màu tím lại toát ra vẻ quyến rũ và
thơ mộng. Những ngày đi học, màu mực tím đã gắn bó với thời nữ sinh trẻ trung
và những mối tình học trò thơ ngây, dễ thương. Những trang lưu bút viết bằng mực
tím đầy nhung nhớ, ghi lại cả một quãng thời gian đẹp nhất của tuổi học trò áo trắng
mộng đầy. Đến khi lớn lên, những tà áo dài màu tím tung bay trên đường phố lại
tô điểm cho những buổi chiều nắng hanh vàng Sài gòn thêm đẹp, thêm xinh. Màu
tím lại theo Thúy đến tận phương trời lạnh lẽo này.
Tủ áo của Thúy đầy những
chiếc áo màu tím đủ loại, đến nỗi các bạn bè và đồng sự đều phải để ý và gọi
Thúy là nàng áo tím. Nói đến màu tím Thúy lại nhớ có người bạn thời đại học,
anh chàng người Huế nên rất thích màu tím, đi mua một lô áo từ sơ-mi đến áo len
màu tím để mặc khiến Thúy cười ngất và chọc hoài, vì Thúy thấy màu tím chỉ hợp
với phái nữ, nhưng bên đây lại cho màu tím là “unisex” nghĩa là dành cho cả hai
phái nữ và nam. Đang lan man hồi tưởng, chợt có tiếng điện thoại reng lên phá
tan bầu không khí im lặng buổi sáng. Thúy vừa bắt máy, thì đã nghe chói lói tiếng
cô bạn thân tên Thúy Huyền, lúc trước cùng làm chung với Thúy ở đây một thời
gian dài, nhưng đã chuyển đi nơi khác sau khi lấy chồng phương xa. Thì ra là
Thúy Huyền đã về đây chơi và là tác giả của lọ hoa lan màu tím “bí mật” trên góc
bàn của Thúy. Hai đứa ríu ra ríu rít, dành nhau nói như sợ mất phần, rồi thì hẹn
ăn trưa. Thúy chạy đi họp và hối hả giải quyết công việc để rảnh rang, có nhiều
thời gian ngồi ăn trưa thật lâu với Huyền. Hai cô là bạn thân mà cũng tình cờ
tên của Thúy lại là tên lót của Huyền, cho nên dẫu có ở xa nhau nhưng tình bạn
thân vẫn luôn gắn bó.
o 0 o
Bước
vào quán Bún Bò Huế Vĩ Dạ là đã thấy Thúy Huyền đón Thúy với nụ cười tươi như
hoa. Huyền và Thúy đều mê bún bò Huế nên chẳng cần phải hỏi, Huyền đã tự ý gọi
cho Thúy một tô đúng ý Thúy rồi, vì biết Thúy rất sợ giò heo. Hồi Thúy mới sinh
con đầu lòng, các bạn bè thấy Thúy đang bị đau khổ vì mẹ qua đời, nên rất lo lắng
cho Thúy. Ngày nào cũng thay phiên nhau hỏi thăm hay ghé qua nhà Thúy, người
mua cho món này, người lại nấu cho món khác. Mặc dù có lòng tốt, nhưng ít người
biết Thúy không ăn được thịt heo, mà theo lời các người lớn tuổi có kinh nghiệm
là phải ăn thịt heo sau khi sinh con cho lành. Thế là Thúy chỉ biết than trời
khi tủ lạnh đầy các món ăn bằng thịt heo. Khổ nhất là khi các bác biết Thúy cho
con bú sữa mẹ, thế là lại lụi cụi mang tới tặng cho Thúy mấy nồi giò heo thật
to để giúp có nhiều sữa cho con bú theo như kinh nghiệm của các cụ thời xưa
truyền lại. Thúy cứ bị ép ăn mà đâu có ăn nổi, lại không dám nói sợ phụ lòng
thương của mọi người, nên cuối cùng chồng Thúy là người sung sướng nhất, được
thừa hưởng tất cả các món ngon “dành cho bà bầu”!
Ngoài
trời những bông tuyết trắng vẫn tung bay lả lướt như những nàng tiên với vũ điệu
liêu trai tuyệt đẹp. Hồi mới qua Canada, Thúy mê mẩn với những ngày tuyết trắng
đẹp như trong các phim thần thoại được xem hồi nhỏ, cứ thích giang tay đứng giữa
trời tuyết rơi để bắt những bông tuyết tan ra trên tay. Trong nhà hàng ấm cúng,
Thúy và Huyền đã nhanh chóng thanh toán hai tô bún bò thơm phức, vừa hít hà vì ớt
cay xé lưỡi. Có lẽ trời càng lạnh ăn bún bò cay cay càng thấy ngon. Thúy nhớ
mãi lần đầu tiên dắt một đám bạn đồng sự cả 20 người vào tiệm Việt Nam ăn. Mấy
người bản xứ đâu có biết món ăn Việt ngoại trừ có nghe qua món phở nổi tiếng
thôi. Thúy đã phải giải thích các món ăn Việt cho họ hiểu, nhiều người thích thử
món phở, một số thì thích thử bánh hỏi chả giò thịt nướng gói với bánh tráng,
nhưng có một anh chàng người Đức muốn ăn món gì cay nhất, thế là Thúy gọi cho
anh ta món bún bò Huế đặc biệt thật cay. Thúy cứ ngồi hù anh ta là coi chừng
nhe, sẽ bị phỏng lưỡi đó. Đến lúc mang ra, anh ta nếm thử một muỗng rồi nói với
cô hầu bàn cho xin ít ớt, Thúy muốn chọc anh ta nên nháy bảo cô hầu bàn cho xin
một tô ớt. Khi thấy tô ớt hiểm đầy, cả bàn đã nhao nhao lên cười, nhưng trong sự
thảng thốt của mọi người anh ta bốc 2-3 trái ớt hiểm bỏ vào miệng nhai một cách
ngon lành. Ăn xong tô bún bò thì tô ớt hiểm đã chỉ còn xót lại vài trái ớt.
Nhìn mặt anh chàng đỏ gay, mồ hôi mẹ mồ hôi con đầy trán, thì Thúy và mọi người
đều nhịn không nổi cười, nhưng anh chàng vẫn tỉnh queo, khen ngon rối rít. Và
thế là từ đó, mỗi hai tuần cái nhóm đó lại bắt Thúy dắt đi ăn tiệm Việt Nam, nhất
là anh chàng người Đức trung thành với món bún bò Huế ớt hiểm đó.
Vừa
nhâm nhi ly chè ba màu, Huyền và Thúy vừa đấu hót như thời còn đi học. Cũng may
hôm nay tiệm vắng khách, vì bão tuyết quá chẳng ai muốn đi ăn tiệm, nên hai đứa
tha hồ nói huyên thuyên không sợ làm phiền ai. Nói chuyện vui một hồi, thì Huyền
kể cho Thúy nghe câu chuyện buồn của Huyền. Thì ra vợ chồng Huyền đã chia tay cả
hai năm nay. Thúy nghe mà sửng sốt vì tưởng
họ rất gắn bó, yêu nhau từ thời Trung Học, đi đâu cũng có đôi có cặp như đôi
uyên ương, vậy mà mới lấy nhau được mấy năm đã chia tay. Thảm nào hơn hai năm
nay Huyền không còn liên lạc nhiều với Thúy nữa. Huyền than thở là khi cặp kè
không hiểu được hết, chỉ thấy đẹp thấy tốt, đến khi lấy nhau ở chung rồi thì mới
biết những tính xấu của nhau. Chồng của Huyền bị thất nghiệp, theo lời bạn bè rủ
rê về Việt Nam chơi bời để rồi dính vào một cô gái, có con riêng. Huyền cũng đã
cố gắng chịu đựng nhưng cuối cùng thì Huyền phải đầu hàng số mệnh, quyết định
chia tay để làm lại cuộc đời. Huyền cũng buồn lắm khi phải dứt khoát, nhưng có
lẽ đau một lần còn hơn nỗi đau âm ỉ, dày vò. Thúy chỉ biết nhìn Huyền thông cảm,
chia sẻ nỗi buồn của bạn. Mỗi người hình như khi sinh ra định mệnh đã an bài,
có những người cuộc đời được an lành, hạnh phúc, nhưng cũng có những người bị
lâm vào những cảnh đời ngang trái.
Thúy vẫn thầm cảm ơn vì từ nhỏ đã nhận được
nhiều may mắn, bây giờ lại có một gia đình ấm êm hạnh phúc, một người chồng hiền
lành cùng hai cô công chúa rất đáng yêu. Thúy cũng mong Huyền bạn mình sẽ có cơ
hội và may mắn hơn. Nhiều khi trong rủi lại có cái may, hai cô bạn khác của
Thúy cũng đã từng bị đau khổ trong lần đầu, nhưng sau khi ly dị lại có cơ hội
tìm được một người bạn đời yêu thương và hạnh phúc hơn nhiều. Được một điều là
Huyền rất lạc quan, cô nàng không phải loại người thiên sống về nội tâm, nên
cũng nhanh chóng thích ứng với hoàn cảnh. Lần này Huyền qua đây ngoài việc thăm
Thúy và những người bạn cũ, Huyền đang tính mở rộng thêm chi nhánh cho hãng mỹ
phẩm mà Huyền phụ trách. Nhìn cô bạn lăng xăng, rạng ngời với những tính toán công
việc, Thúy cũng đỡ lo vì biết thời gian đã làm cho Huyền dịu lại và quên đi những
đau buồn.
o
O o
Tạm
chia tay với Huyền để trở lại công ty làm việc, ngồi trong văn phòng nhưng Thúy
vẫn lan man với những kỷ niệm. Huyền cũng có một số suy nghĩ giống mẹ Thúy, chẳng
hạn như quan niệm của Huyền là phải lấy chồng đẹp trai, cao ráo để sau này con
cái sẽ được đẹp. Thúy nghe mà cười hoài cho ý nghĩ như vậy, nhưng mẹ Thúy thì
may mắn lấy được người chồng vừa đẹp trai vừa hiền lành, nên anh chị em nhà
Thúy cũng được hưởng những nét đẹp từ bố mẹ. Bố của Thúy phải công nhận là người
đàn ông hiền nhất thế gian này. Bố là công tử con nhà giàu, dòng dõi quý phái,
quan chức, lại là con một nên rất được chiều chuộng từ bé. Bố có thể hét ra lửa
và kiêu căng vì nhà toàn người hầu kẻ hạ, bao nhiêu người răm rắp tuân lời,
nhưng trái ngược lại bố rất khiêm tốn, nhã nhặn và tốt bụng. Nhà ông bà nội rộng
lớn, ruộng đất thì cò bay thẳng cánh, nhưng bố đều luôn giúp đỡ những người tá
điền, những người giúp việc cho gia đình nên ai cũng quý bố lắm. Bố lại đặc biệt
rất đẹp trai, cao to như người ngoại quốc, nên hồi nhỏ lúc bố đưa Thúy đến trường,
bước xuống xe hơi là bọn bạn la lên nhỏ Thúy có ông Mỹ chở đi học kìa! Mẹ vẫn
nói bố mẹ lấy nhau đúng là duyên nợ, vì bố có biết bao nhiêu cô gái thương thầm
và rất mong được làm vợ của bố.
Cả họ bên nội đều sốt ruột khi thấy bố chẳng
ưng ai, các bác hết lo làm mai nơi này, làm mối nơi nọ, thậm chí có những nhà
gia đình khá giả, đàng hoàng thích bố hiền lành nên đã tìm mọi cách để bố lấy
con gái của họ. Bà nội cũng đến khổ với bố vì nhiều đám hai bên gia đình đã ước
hẹn gặp mặt đính hôn, bố cũng chẳng phản đối nhưng đến hôm đó thì biến biệt
tăm, khiến cho bà nội dở khóc dở cười với gia đình đàng gái. Vậy mà bố chỉ nhìn
thấy hình mẹ chụp được trưng ở một tiệm chụp hình gần nhà là bố đã phải lòng và
âm thầm theo dõi mẹ. Rồi tình cờ bố lại có cơ hội gặp mẹ trong dịp đám cưới của
người anh họ, thế là bố nhất định đòi nằng nặc bà nội đi hỏi cưới mẹ cho bố. Mẹ
lúc đó cũng là con gái nhà giàu, lại xinh đẹp, giỏi giang, nên cũng nhiều người
theo. Nhưng mẹ nói không hiểu sao mẹ lại không muốn lấy chồng sớm, nên ông bà
ngoại cũng lo, thúc giục hoài. Gặp bố lại quá lì, ngày nào cũng tới chầu ở nhà
ông bà ngoại từ sáng sớm, xin hỏi cưới mẹ, khiến cho ông bà cũng ái ngại. Ông
ngoại học trường Pháp nên cũng ảnh hưởng phần nào, tính tình rất Tây nên cho
con cái quyền tự quyết định việc hôn nhân, không áp đặt như thông lệ thời đó là
cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy.
Cuối cùng thì sự kiên nhẫn, lòng thành và tính hiền
lành của bố đã làm mẹ cảm động và đồng ý. Thế là chỉ trong vòng hơn một tháng bố
đã thành công rước mẹ về dinh. Bố vẫn giữ mãi tính hiền lành và tốt bụng trong
suốt cuộc đời của bố, khiến mẹ đôi khi cũng phải bực mình. Mẹ kể bất cứ ai than
thở cái gì là bố giúp ngay, cái áo mới mẹ mua cho bố để mặc ăn tiệc, nghe tài xế
than áo rách là bố lấy cho ngay, rồì có lúc cần ủi quần áo, mẹ tìm mãi không ra
cái bàn ủi, hỏi bố thì bố nói đã mang cho gia đình hàng xóm vì họ nghèo quá, để
mai bố đi mua cái khác. Đó chỉ là một trong trăm ngàn chuyện bố âm thầm làm
giúp đỡ người khác. Bố lại rất có tài sửa máy móc, chỉ tự học nhưng bố có thể sửa
xe hơi, sửa rất nhiều thứ từ đồng hồ, đến quạt máy, radio, ti vi, … ngoài ra bố còn có tài sáng chế phát minh ra nhiều
thứ rất hay. Chẳng hạn thời sau 1975, việc cúp điện xảy ra thường xuyên ở Sài
gòn, nhưng bố lại biết chế ra máy phát điện lắp ghép từ những bộ phận của các đồ
phế thải. Cả xóm đều ngạc nhiên khi nhà Thúy có đèn, có quạt, có radio trong
khi cả khu vực đều bị cúp điện. Tiếc là bố sinh ra không đúng thời, nên không
có cơ hội phát triển tài năng đặc biệt của bố, chứ nếu ở Canada hay Mỹ thì chắc
bố đã giàu to vì những phát minh của mình rồi. Bố lại có một đam mê đó là đồng
hồ, bố thay đồng hồ như chong chóng, cứ mỗi hai tuần là lại thấy bố đeo cái
khác rồi.
Ngay cả thời sau 1975, sau khi được cho về nhà, bố vẫn không bỏ được
niềm đam mê này. Tuy không còn rủng rỉnh tiền bạc, bố tìm cách khác là ra ngồi
giúp các tiệm sửa đồng hồ, rồi mua hay đổi các đồng hồ với khách làm sao đó mà
bố vẫn tiếp tục có những đồng hồ loại mới từ ngoại quốc gửi về để đeo thường
xuyên. Đối với Thúy bố thật là giỏi lắm và rất thương con. Hồi nhỏ mỗi ngày bố
đi làm về, là mấy chị em Thúy chạy ra đón bố, đứa đưa khăn lau mặt cho bố, đứa
thì mang pajama cho bố thay, còn bố thì không bao giờ quên mang về cho mỗi đứa
một thỏi sô-cô-la thơm phức của Mỹ. Rồi lâu lâu bố có bạn bè đi tu nghiệp bên Mỹ
lại nhờ mua cho các chị em Thúy những con búp bê biết nhắm mắt, mở mắt, với những
suối tóc óng ả và khuôn mặt thật đẹp như thiên thần. Chị em Thúy mê búp bê lắm,
ôm theo đi ngủ mỗi tối, ru mình trong những giấc mộng thần tiên từ những câu
chuyện cổ tích bà nội vẫn kể cho nghe trước khi đi ngủ. Bà nội kể chuyện hay thật
hay, những câu chuyện cổ tích bà kể thật sống động, Thúy nghe mỗi ngày đến thuộc
làu làu, nhưng ngày nào cũng vẫn nhõng nhẽo bắt bà kể cho nghe. Thúy rất gần bà
nội và được bà cưng lắm. Tối tối Thúy ngủ chung với bà để được nghe bà ru ngủ.
Thúy rất ghét bị nóng không chịu ngủ trong màn, nên mỗi tối bà phải để quạt thật
mạnh cho Thúy dễ ngủ, rồi mới lén buông màn xuống sau khi Thúy đã thiu thiu. Thúy
lại còn nhõng nhẽo đến mức sáng ra ngủ dậy là Thúy gọi bà, cho dù bà đang làm
gì cũng phải ngưng tay chạy vào phòng vì Thúy sẽ giả bộ lăn ra mép màn để từ từ
rớt xuống, bắt bà phải đỡ bế Thúy ra khỏi giường. Bà vẫn mắng yêu Thúy vì cái
tính tiểu thư nhõng nhẽo này. Hồi nhỏ Thúy mê bong bóng bay lắm, mỗi khi nhìn
thấy trái bong bóng bay Thúy tưởng tượng ra những khung cảnh như trong phim thần
thoại. Vì vậy mỗi ngày bà đều mua cho Thúy một trái bong bóng bay, đến nỗi anh
chàng bán bong bóng dạo rất khôn, ngày nào cũng đến cỡ 10 giờ sáng là chạy đến
trước cửa nhà thổi cái còi báo hiệu để bà ra mua. Hôm nào bà quên mà không mua
thì khổ với những giọt nước mắt mè nheo của Thúy. Con nít thật khôn lắm, ai mà
thương thì luôn nhõng nhẽo, chứ Thúy đâu có dám nhõng nhẽo với mẹ như với bà,
vì mẹ còn phải lo cho nhiều con, Thúy thuộc loại lớn nên chẳng được cưng. Không
phải là mẹ không thương Thúy, nhưng chắc chắn mẹ không thể ưu tiên đặc biệt cho
Thúy như bà vẫn làm. Ngoài tài kể chuyện cổ tích, bà còn đọc thơ, đọc kinh Phật
cho Thúy nghe và cũng nhờ bà dạy cho Thúy học cửu chương thông thạo lầu lầu từ
lúc ba tuổi nên Thúy rất đặc biệt giỏi toán.
Thúy rất ham học, hồi nhỏ mới hơn
2 tuổi là đòi nằng nặc phải được đi học khi thấy chị được cắp sách đến trường mẫu
giáo, trong khi hai chị em cách nhau 3 tuổi. Tuổi thơ của Thúy luôn gắn liền
bên bà nội như hình với bóng. Nhớ mãi dáng bà thanh thoát, quý phái, da bà trắng
mịn màng làm nổi bật hàm răng nhuộm đen màu hạt na. Thời của bà phụ nữ đều phải
ăn trầu, nhuộm đen hàm răng như vậy mới đẹp, như câu “bõ công trang điểm má hồng
răng đen". Ra ngoài đường là bà mặc áo dài, tóc vấn khăn nhung đen, đi guốc
gỗ mun khảm xà cừ. Nét bà thật phúc hậu, quý phái, lại có sống mũi cao, nước da
trắng, nhìn lại hình Thúy rất thích những nét đặc trưng của phụ nữ thời xưa. Giống
như những tấm hình đen trắng mẹ chụp thời đó sao mà vẫn giữ được nét sắc sảo
cho dù qua bao nhiêu năm tháng và những cuộc di cư vật đổi sao dời. Những chiếc
áo dài bằng gấm nền nã hay bằng lụa thướt tha đều là những hình ảnh thật đẹp
trong mắt Thúy, hơn hẳn những kiểu áo dài mốt mát thời nay. Thúy vẫn rất trân
trọng những tấm hình kỷ niệm của gia đình thời xưa, dù hình đã bị ố vàng trong
những cuộc di cư nhưng cũng nhờ có những tấm hình này, Thúy như thấy được cả một
cuốn phim lịch sử trước mắt vậy. Đất nước Việt Nam đã nghèo lại bị chiến tranh
liên miên, nên thân phận người phụ nữ Việt Nam trong thời chiến tranh loạn lạc
thật là đáng thương. Những “con cò lặn lội
bờ sông, gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”. Đã trải qua những năm tháng đổi
đời sau 1975, Thúy càng thấm thía câu ca dao này hơn hết khi chứng kiến cảnh mẹ
phải xốc vác, thu vén để thay chồng lo cho đàn con thơ dại và cả nhà chồng. Cuộc
đời của mẹ sao cực khổ nhiều hơn vui, nhưng mẹ vẫn lạc quan, tiếng cười của mẹ
vẫn giòn tan như ánh nắng mùa hè sưởi chiếu tâm hồn những đứa con của mẹ. Lại sắp
đến mùa Vu Lan, Thúy vẫn nhớ mãi cảm giác mùa Vu Lan đầu tiên sau khi mẹ mất,
lên chùa cầm đóa hoa hồng trắng mà lòng đau khôn tả, nước mắt Thúy tuôn rơi
không ngưng, chỉ muốn được gặp lại mẹ, được ôm mẹ, được gọi hai tiếng mẹ ơi
thân thương. Bài thơ viết cho mẹ mà Thúy giấu kín vì quá buồn bã, mãi đến bây
giờ mới có thể cho bạn bè xem và đã được người bạn phổ thành bản nhạc, Thúy vẫn
lâu lâu ngâm nga để nhớ về mẹ.
“Vu
Lan năm nay không còn nụ cười trên môi
Nâng
niu trên tay màu trắng xót xa ngậm ngùi
Con
xin dâng Mẹ một nụ hồng màu ngăn cách
Cho
con gọi hoài một đời hai tiếng MẸ ƠI! “
Đời
người thật vô thường, thời gian mãi trôi đi theo bánh xe của tạo hóa, chỉ còn
chăng là những kỷ niệm tồn tại trong ký ức. Một ngày bão tuyết đã mang Thúy trở
về những kỷ niệm thân thương ngày nào, bên những người thân yêu mà Thúy yêu quý
nhất. Dòng đời vẫn tiếp tục quay nhanh, nào ai biết trước được sẽ ra sao ngày
sau, để rồi một mai ai cũng sẽ trở về với cát bụi.
Diễm Hương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét