Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Tư, 27 tháng 4, 2022

Tháng Tư Đen Không Dễ Gì Quên - Lê Thị Hoài Niệm

Ngày đó, Người di tản tràn đến, từng đoàn người, từng đoàn xe từ Ban Mê Thuột (BMT), Pleiku, từ Phú Bổn, từ các tỉnh miền Trung đổ về vào những ngày giữa tháng Ba. Trường Nam tiểu học, nơi cô trò chúng tôi gặp gỡ hằng ngày, đã không còn bóng dáng học sinh, vì trường đã biến thành “trung tâm tiếp cư”. Các thầy cô giáo chạy đôn chạy đáo tìm thức ăn, gạo muối, quần áo, vật dụng cần thiết, v.v. để phân phối, giúp đỡ những người đang xơ bơ, xấc bấc, lếch thếch, hốt hoảng buồn rầu, ngồi ủ rủ trong các phòng học làm nơi tạm trú. Một buổi chiều, đang còn ở trường về, được bạn báo tin: “Cháu chị U đã chết cháy rồi!” Tin thật buồn với sự chết chóc đã đến gần sát. Người vừa ra đi là một pilot Trực thăng, và đơn vị đang hành quân ở BMT. Tàu anh đã trúng đạn phòng không của địch quân, bùng cháy như cột lửa ở trên không. Chạy đến nhà chị U, nhìn chị và bà con trong nhà khóc than, tôi và hai cô bạn thân vừa đến cũng chụm đầu lại khóc.
<!>
Về nhà lại gặp một người bạn không quân tìm đến thăm khi biệt đội của anh từ Cần Thơ, biệt phái ra để phụ giúp với các đơn vị bạn. Đáng lẽ ở căn cứ Pleiku, nhưng vì đơn vị trên đó cũng đã di tản, nên các anh lại kéo xuống phi trường Nha Trang. Ngồi nghe anh kể những bữa đổ quân khó khăn với quá nhiều phòng không địch, những chuyến hành quân tiếp tế, và đặc biệt là cứu “dân chạy loạn”. Từng đoàn người từ các tỉnh cao nguyên chạy về, phải đi bằng đường rừng vì Quốc lộ 21 đã bị VC chiếm mất từng đoạn. Họ băng rừng, vượt suối bồng bế gánh gồng mà đi, có đàn bà đã “sanh rớt” trên đường chạy loạn, may mà Trực thăng đã nhìn thấy nên đáp xuống chở về nhà thương. Có hôm, anh phải bay thật thấp để hướng dẫn đoàn người đi lạc trong rừng sâu có thể đi ra con đường mòn lớn hơn mà về được Khánh Dương (anh Th/tá ĐS Phước - Công binh, là một trong số “người di tản buồn” đã nhận ra tài xế “chiếc trực thăng cứu nạn” trong những ngày gian khổ đó, nên quí anh nhiều ở những ngày tháng sau này).
Nhiều người đổ dồn về và cũng có lắm kẻ ra đi. Người Nha Trang cũng bắt đầu tìm đường tháo chạy, bằng xe hơi, xe hai bánh và chủ yếu là ghe thuyền đường biển. Một vài ngày cuối tháng Ba, trung tâm tiếp cư đã vơi người, một phần người tị nạn có thân nhân đến đón về, một lớp nữa họ tiếp tục xuôi Nam, những thầy cô giáo cũng xôn xao nhiều vì người đi kẻ ở.

Từ làn sóng radio phát đi chương trình tiếng Việt BBC - Luân đôn, cho tin quân dân miền Nam đang… thua xiểng liểng. Nhiều nơi giặc chưa đến đã không còn người lãnh đạo, cơ sở bỏ tan hoang. Và đường phố Nha Trang vừa đón một lớp người mới đến, có một số “hung hăng, dữ tợn” vô cùng. Có hôm lái xe trên đường về một mình, sau khi đưa người bạn trở lại căn cứ, tôi cũng rất sợ vì với súng đạn có sẵn trên tay, họ có quyền cướp xe, có thể bắt phụ nữ và làm nhiều điều xấu. Người ta bảo “họ là toán lính” vừa đổ bộ lên bờ từ tàu hải quân cặp bến cảng Cầu Đá (?) Chẳng ai dám ra đường thường xuyên nữa.

Tâm trạng hoang mang giữa đi và ở. Ở lại sẽ như thế nào trước tin đồn quân giặc quá dã man, đàn bà con gái sẽ bị “rút móng tay”, bị bắt đi làm “hộ lý” cho bộ đội, đàn ông con trai sẽ bị bắt đi tải đạn. Nếu lính tráng bị bắt, mạng sống sẽ không còn… Nhiều tin rất hãi hùng mà người thành phố phải để ý đến. Nhưng đi thì đi về đâu, bằng phương tiện gì, nơi chốn nào để đến, hay cũng lang thang lếch thếch như những đoàn người đang nối đuôi nhau trên quốc lộ số một kia đang được chiếu trên truyền hình. Cuối cùng Ba Má tôi chọn giải pháp có chết thì cũng sẽ chết chung ở nhà mình, vì gia đình quá đông người, lại có thêm mấy gia đình bà con ở vùng ngoài chạy vào tị nạn; mặc dù cá nhân tôi đã được người bạn sẵn dành cho phương tiện trực thăng để ra đi đêm cuối cùng của tháng Ba, khi đơn vị anh trở về căn cứ ở miền Tây.

Buổi sáng ngày một tháng Tư, sau khi đưa người anh trai, nguyên là sĩ quan đang làm việc tại bộ Tổng Tham mưu, là một trong những thành viên của phái đoàn về Nha Trang dự họp với tướng Ph. mấy hôm trước. Cuộc họp không đi đến đâu và cuối cùng phải trở lại Sài Gòn. Quang cảnh phi trường Nha Trang hỗn loạn không thể tưởng tượng nổi. Cổng đóng, quân cảnh cầm súng lăm lăm, có thể nã đạn vào ai đó bất cứ lúc nào, nếu không tuân thủ mệnh lệnh. Người và người chen lấn nhau, người la kẻ khóc, lớp trong lớp ngoài. May quá, anh tôi vào được bên trong vì còn “sự vụ lệnh” và đang đi bên cạnh một “ông quan lớn”.
Tôi quay đầu xe trở về nhà mà lòng buồn khôn xiết, chán nản tột cùng. Vừa về đến nhà, đã thấy người bạn phi công phản lực vừa từ Phan Rang chạy về, anh nói muốn đến... từ giã tôi! Anh hỏi tôi có muốn “di tản với anh” không vì không còn nhiều thời gian nữa? Tôi đang nói lời chúc Anh trên đường về Sài Gòn được bình yên, thì người chị bà con xuất hiện; tôi đẩy chị lên yên sau chiếc xe Lambretta cùng đi với anh, và “tặng” chị chiếc khăn quàng Hướng đạo sinh tôi đang đeo trên cổ để chị làm kỷ niệm (lúc này tôi đang là Sói già của đạo K.H.). Tôi nhìn theo họ mà mắt cay cay, miệng vẫn thầm cầu nguyện cho hai chị em đến nơi an toàn, dù gì, chị cũng từng là “chị kết nghĩa” của anh ấy.

Mới tối qua, ngay phòng khách nhà tôi, vài ông tá cấp cao, vài ông úy cùng ngồi “bàn chiến sự”. Họ “trấn an” ba má và gia đình tôi rằng: cả nhà đừng có lo, nếu có chuyện xấu xảy ra, thì “Đèo Cả” sẽ là lằn ranh Quốc - Cộng, chia hai phần lãnh thổ như Bến Hải ngày xưa. Chúng tôi nghĩ đó là những lời nói vô thưởng vô phạt, nói để trấn an chứ họ cũng đâu biết gì hơn. (Sau này đọc trong Cuộc Đời Binh Nghiệp của Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH, do tác giả Đặng Kim Thu viết; có đoạn nói đến chuyện chia đất từ Đèo Cả là có thật.
Xin trích: “Ngày 13-3-73, Tướng Trưởng được lệnh vào Sài Gòn họp. Trong phiên họp tại phòng hành quân ở dinh Độc Lập, có sự hiện diện của Thủ tướng Khiêm, Trung tướng Quang, và tôi (ông Viên); TT Thiệu lấy cây viết gạch trên bản đồ VN, xóa vùng Cao Nguyên và Vùng I, rồi vạch một đường từ Ban Mê Thuột đến Nha Trang, rồi nói rằng chúng ta sẽ còn giữ phần đất dưới đường này. Từ đèo Cả trở ra Quảng Trị là phần đất dành cho Mặt Trận GPMN.
Ông Thiệu nói với ông Trưởng: “Đây là chỉ thị của tôi. Phải thi hành, nhưng giữ bí mật. Không được nói lại cho ai!” (Có lẽ tin này rò rỉ ra ngoài.)
Xong buổi họp, Tướng Trưởng theo tôi về văn phòng, có ý trình bày thêm về lệnh của ông Thiệu. Ông Trưởng nói: “Tôi không thể thi hành lệnh vừa rồi của Tổng thống, vì tôi đã hứa với đồng bào ở Huế là tôi sẽ giữ Huế. Xin Đại tướng chỉ thị một tướng khác để làm việc đó.”) Ngưng trích.

Khi họ đi rồi, ruột gan tôi héo hon quặn thắt, nhất là mỗi khi nghe tiếng máy bay cất cánh rời phi đạo xé nát không gian, hay những tiếng trực thăng xành xạch rồi nhỏ dần về hướng Nam…
Cùng lúc cô bạn hàng xóm nhà đối diện, hối hả xách một túi hành trang chạy sang, rủ tôi cùng xuống bến cảng Cầu Đá, vì “tàu hải quân”, mà anh trai của cô là Hải quân thiếu tá trên đó, sắp rời bến cảng, tôi đành chúc cô thượng lộ bình an, tôi không nỡ bỏ gia đình mà đi được.
Buổi xế chiều đó, một người anh họ mặc đồ lính đến gõ cửa, anh vô nhà mà cánh tay đang quấn băng trắng dính đầy máu khô. Thì ra, lúc di tản từ ngoài Tuy Hòa vào, cả đơn vị bị thất lạc hết, anh bị trúng đạn, tìm đường về nhà tôi để buộc lại vết thương. Nhưng chưa ngồi yên chỗ, anh đã nhìn dáo dác và bắt gặp mấy chị em tôi đang ngồi ủ rũ, anh hét lên: “Sao không tìm đường đi đi,. Bây giờ ở dưới phố đang hỗn loạn lắm, cả một đám tù nhân hung dữ vừa phá cửa nhà tù và tràn ra đường cướp phá!”

Cả nhà tôi thất kinh, chưa kịp có phản ứng gì, thì một người hàng xóm chạy về la toáng lên ngoài đường: “Nhà ai có con gái lớn hãy tìm cách trốn đi. Cả một đám tù ở quân lao vừa mới tràn ra đường, họ đang tủa ra nhiều đường phố cướp phá đó.” Không còn chần chừ nữa, ba tôi vội vàng dắt chiếc Yamaha của tôi ra cửa, chiếc xe tôi vừa đưa anh tôi đi buổi sáng, vẫn còn đầy bình xăng; chị lớn tôi chạy đi xúc vài ký gạo; hai em tôi đi bốc vội vài bộ quần áo, cái mền; thế là 3 chị em phóng lên xe, chạy vô Suối Dầu, nơi ba má tôi có khu vườn trồng nhiều cây ăn trái, với căn nhà nhỏ.
Trong cơn hỗn loạn, muốn tìm con đường sống, tiềm năng sức mạnh trong mỗi một con người đã thể hiện, vượt qua những sinh hoạt thường ngày mà không ai ngờ tới. Với cái xe nhỏ xíu, mang đến ba con người, thêm gối mền gạo mắm, vậy mà tôi cũng phóng nhanh qua mấy con đường để ra xa lộ số Một, rồi len lỏi, luồn lách qua một đoạn đường dài lên Thành với hằng hà sa số xe cộ từ xe GMC, xe Jeep, xe hàng, xe nhà, xe hai bánh đủ loại... và một đoàn người gồng gánh, vai mang, gậy chống, võng khiêng…rồng rắn nối đuôi nhau. Họ âm thầm lặng lẽ lách qua đoàn xe đang nghẹt cứng trên đường.

Lách mãi, tôi cũng qua được đoạn đường Thành. Đang dáo dác tìm lối lách nữa, bỗng nghe có tiếng gọi tên mình. Thì ra, nguyên cả một đoàn xe của Trung tâm Huấn luyện Lam Sơn cũng trong đoàn người di tản, và đang di chuyển nhích nhích nơi đây vì kẹt cây cầu đàng trước.
Tôi chia tay với quí anh trong bịn rịn, những người đã từng đem mồ hôi và nước bọt để huấn luyện cho những tân binh trước khi ra chiến trường chống địch, giờ này cũng đang tham gia vào cuộc di tản vô trật tự, một cuộc “rút chạy” mà không biết sẽ ra sao ngày sau?

Mới lách luồn được một đoạn ngắn, lại có ai gọi mình, quay lại gặp người anh là Đại úy làm trong... Quân sự bốn bên gì đó; con của người cậu ruột cũng trong đoàn người di tản; anh nói: “Ba đứa lui ra sau, anh... lái xe cho!” nhưng anh vừa ngồi lên yên, thì cái bánh xe... xẹp lép, thế là anh... leo xuống, chúng tôi chạy tiếp.
Xe chen lấn mà chạy. Qua ngang cầu Lùng, một cảnh tượng thương tâm xảy ra, một xe Honda đàn ông, hình như chở đến 7 người lớn nhỏ (?), người tài xế bị lạc tay lái và ngã cái rầm; người văng tung ra, nhưng đoàn người đang ở trên cầu cứ lách qua mà chạy, coi như chẳng thấy gì và cũng không thể dừng lại khi mà đoàn xe sau cứ lao tới. Tình nhân loại, lòng nhân ái đã “bị bỏ quên” khi chính mình cũng đang đi tìm lối sống? Hóa ra hình ảnh mấy hôm trước trên TV còn chiếu cảnh những người… đạp đầu nhau để tìm một chỗ ngồi trên tàu di tản là chính xác. “Mạnh được yếu thua” đang diễn ra mọi nơi mọi chỗ trên quê hương tôi? Và trong đó có cả chính bản thân tôi. Buồn thật!

Cơn mưa chiều hung bạo, xối xả tự nhiên đổ ập xuống. Mưa và gió đập rầm rầm vào mấy bức vách của căn nhà nhỏ, nơi chúng tôi vừa đến chẳng bao lâu. Những hạt nước mưa nặng nề rơi xuống như muốn cuốn trôi dùm nỗi uất nghẹn trong tim của những con người bất lực, đang thua chạy mà không biết tại sao mình bị thua? Nhìn ra đường, đoàn người ướt nhẹp vẫn lóp ngóp đi hai bên lề dưới cơn mưa, xe cộ vẫn chen nhau mà chạy. Đoạn đường Suối Dầu này, ngoài những khu vườn trồng cây ăn trái với căn nhà nhỏ để ở tạm, không có nhà cửa hai bên đường, nên người đi bộ không thể nào có chỗ núp mưa, nên họ cứ lầm lũi mà đi, như những đám ma trơi tháng Bảy…
Chiều xuống dần, mưa tạnh bớt, một người nhà vườn bên cạnh chạy sang. Họ yêu cầu chúng tôi góp tiền mua chiếu để chôn hai người vừa bị xe tông chết ở trên Quốc lộ I. Lúc này đoàn người di tản đã đi về phía trước, chỉ còn những xe nhỏ chạy vụt qua. Thương thay hai người lính đèo nhau trên chiếc xe Honda, và đã bị chiếc xe nào đó đụng phải, họ ngã xuống đường và chết liền tại chỗ, máu loang đỏ cả mặt đường trộn lẫn nước mưa. Dù sao hai người lính này vẫn có được nén nhang cúng bái và nấm mồ dù chỉ đắp bằng đất, và cả tên tuổi ghi rõ bằng những mảnh gỗ đóng trên đầu mộ.

Sáng ngày 3 tháng Tư, anh lớn tôi vào gọi về vì “quân giải phóng” đã vào chiếm thành phố Nha Trang (NT) hôm qua. Tôi để hai em ở lại trong vườn vì đã đem thêm gạo mắm cho các em đủ sống một thời gian,và về ngoài NT đang lộn xộn lắm. Riêng tôi phải về vì dưới phòng Giáo dục, “Chánh quyền mới đã tiếp quản” và cho người đi lùng sục từng nhà kêu gọi các thầy cô giáo “không di tản” phải ra trình diện gấp. Anh tôi nói có một nhóm người đã ra tận đèo Rù Rì để đón mừng “Cách mạng", và hú hồn vì chúng tôi đã đi thoát đêm đó. Nếu ở lại nhà, không biết chuyện gì sẽ xảy ra, khi mà đám tù nhân hình sự, chuyên cướp của giết người, lẫn những người tù “bất trị” ở quân lao họ túa ra đường phố, đến phá cửa những nhà buôn nào họ nghĩ là có thể cướp được, nhà nào có con gái họ bắt để hãm hiếp. Về sau có nhiều người kể lại, các cô gái phải chui trốn ở những nơi dơ bẩn nhất, trên gác xép, dưới gầm giường, nhà xí, v.v. Cũng hên là sau khi vơ vét được mớ tiền của thì họ bỏ đi, cùng lúc, những căn cứ quân sự, những cơ sở chính quyền, nhà dân bị bỏ trống, đã bị nhiều nhóm người khác nhau đến “hôi của” đốt phá. Thành phố đã hỗn loạn giờ thêm cảnh điêu tàn, nhếch nhác...

Bấy giờ mới thật sự là những ngày hãi hùng của “Tháng Tư Đen” khi bộ đội miền Bắc đã đem xe tăng vào thành phố. Những chiếc xe Molotova kềnh càng, lù lù chạy ngang chạy dọc trên đường, trên xe chở đầy những bộ đội mặc quần áo màu cứt ngựa và nón cối đội đầu; cả người và xe đều cắm đầy lá cây như những “cánh rừng” biết đi. Người dân đứng nhìn “quân giải phóng” xuất hiện trong lo âu sợ hãi, trong khi những tên nằm vùng xuất đầu lộ diện ăn mừng chiến thắng.
Giọng nói “chanh chua-chát chúa-the thé-sắc lạnh” từ miền Bắc xa xôi nào đó truyền đi qua làn sóng đài phát thanh, với “bảy điểm của ủy ban quân quản” cứ làm người nghe rờn rợn, nổi gai ốc cùng mình, và những bài hát “ca tụng bác Hồ" với giọng the thé đi lên đến chói óc.

Những lúc ra đường gặp phải những bộ đồ màu cứt ngựa, đôi dép râu và cái nón cối; những bộ mặt ngơ ngơ ngáo ngáo, nhìn xiên nhìn xéo trầm trồ, xuýt xoa; ngước mặt nhìn lên cao thì... rớt nón cối; cứ vừa đi vừa nói chuyện với nhau bằng chất giọng lơ lớ như người miền núi mà thở dài ngao ngán và tự hỏi những người chiến thắng đây sao? Mặc dù người thành phố đã cải dạng, quần áo thường ngày đã đem giấu kỹ, chỉ còn những bộ đồ đen đúa hoặc nâu đà, nhưng vẫn bị nhìn với cặp mắt soi mói, ác cảm.
Chuỗi ngày tiếp theo thành phố bị tắt ngúm đèn điện ban đêm, nhà nhà đóng kín cửa, leo lét ngọn đèn dầu. Tháng Tư đen đúng nghĩa. Thành phố trống vắng, hoang lạnh tiêu điều. Mới hôm nào những con đường phố đông vui nhộn nhịp với những bộ quân phục từ các quân trường, từ nhiều đơn vị về đây; trai thanh gái lịch dìu nhau đi trên phố, trên bãi biển những buổi chiều lộng gió; phố xá sáng trưng; sinh hoạt tấp nập; giờ còn lại một thành phố chết, vắng hoe. Đã vậy những tiếng súng phòng không được đặt khắp nơi cứ bắn lên nổ rền trời, tiếng súng đại bác bay xé không trung, xé trời và xé cả lòng người. Buồn đau và sợ hãi là tâm trạng của những người dân trong thành phố, dù mọi sách báo, tài liệu, của cải hiếm quí đã đem dấu cất, phi tang (nhà tôi đã chôn nguyên một “thùng phuy” sách báo cũ đủ loại ở sân sau nhà, về sau đào lên cho bạn bè... mượn coi, và bị ... mất hết).

Những tiếng máy bay ầm ĩ thả bom vào mỗi đêm, nơi đã bị bắt buộc phải treo cờ “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam”, những tiếng nổ long trời lở đất cứ dội lại, rền ra xa; những giấc ngủ chập chờn khi đài phát thanh của “Quân Giải Phóng” ra rả loan tin “bọn Ngụy” càng ngày càng thất trận. Lệnh của Ủy Ban Quân Quản ban ra: “Cách mạng sẽ khoan hồng nếu quân dân cán chính Ngụy miền Nam ra đầu thú”.
Một người anh họ, chỉ là một Cán bộ Xây dựng Nông thôn của một xã ngoài Phú Yên, chạy vào nhà tôi tạm trú. Ba Má tôi lo sợ đã bảo trốn đi vào Nam, nhưng vì nghe lời gia đình của vợ bảo ra trình diện sẽ được khoan hồng, đã bị “cách mạng dẫn độ” về Tuy Hòa và bị chặt đầu không chút nương tay. Ngày liệm xác phải chờ xin lại... cái đầu để ráp lại cho nguyên vẹn hình hài hầu mai kia còn... “ăn cúng giỗ”.
Có người thanh niên ăn trộm vặt vì đói quá, bị “bộ đội” bắt đem ra bãi biển xử tử để làm gương, dù người bị mất cắp đã năn nỉ van xin bộ đội khoan hồng đừng xử bắn. Nhưng những con người vô cảm kia vẫn thi hành mệnh lệnh. Người dân thành phố cảm nhận được nỗi mất mát tột cùng nhưng không biết làm gì hơn.
Những thầy cô giáo như chúng tôi, vào những ngày sau đó, buổi sáng bị bắt buộc phải trở lại trường để “học tập chinh trị”. Buổi chiều không đến trường, cứ khoảng hai giờ là leo lên xe đạp, đèo theo chiếc mùng và vắt cơm nguội, đạp xe lên tận trên Thành, khu nhà ở “cải lộ tuyến” hoặc khu Đại Điền xin ngủ nhờ qua đêm, chọn những gia đình có “hầm trú ẩn”. Vì cha mẹ già sợ bom đạn từ “phe ta” trở về thả bom, tai bay họa gửi chẳng biết đâu mà tránh.
Dù đã đi khỏi thành phố, nhưng nhiều khi đang ngủ chập chờn, còi báo động rú lên liên hồi, dai dẳng đến rợn người, thế là ba chân bốn cẳng phải chạy chui vội xuống hầm, ngồi bó gối chờ cho đến sáng, khi biết chắc rằng “máy bay Ngụy” không còn trở lại thăm viếng tặng bom.

Hỡi ơi! Khi rút chạy, những người có thẩm quyền đã không chịu hủy bỏ những gì cần hủy, như tài liệu văn phòng, những hồ sơ cần thiết, hay những cây cầu chiến lược để xe giặc khỏi đi qua. Giờ đã lọt vào tay giặc, họ ra lệnh đem bom về thả chính nơi họ vừa mới bỏ ra đi. Thành phố như đã chết, giờ càng ghi đậm thêm nỗi chết, khi quá nhiều nơi bị bom đạn của chính quân mình. Từ ngoài xóm Bóng, đến đường Tô Hiến Thành, và cả ngôi trường thân thương của chúng tôi cũng lãnh nhiều quả đạn. Về sau có gặp lại một người bạn Không quân tham gia cuộc đánh bom trong những ngày tháng đó cho biết rằng: “Chúng tôi có lệnh phải đánh bom phá sập cầu xóm Bóng, nhưng không thể xuống thấp hơn, vì phòng không địch nhiều quá, nên cứ ở độ cao mấy chục ngàn bộ mà thả xuống nên mới ra... cớ sự.” Gia đình một người tị nạn chưa kịp tìm phương tiện trở về lại quê xưa, thì người vợ trẻ và đứa con trong bụng đã chết tức tưởi ngay trong phòng học lớp Năm phía bên dãy trường Sư phạm Nha Trang, vì trúng đạn sập căn phòng.

Buổi sáng trên đường đi đến trường để dọn xác chết và gạch ngói ngổn ngang, chiếc xe đạp cà tàng của chị bạn tên T. (có chồng là sĩ quan Hải quân đã không liên lạc được) bị đứt dây sên; hai chị em vừa dắt xe chạy mà vừa khóc ròng vì đường vắng tanh đến lạnh người; lại tủi thân, xót phận con người bỗng chốc thành kẻ thua cuộc. Lúc đi ngang qua khúc quanh trước cửa trường Nữ trung học, nơi có ba xác chết nằm sấp, ruồi nhặng bu đầy thật hôi thối, mà chưa có người dọn dẹp khiêng đi mai táng…

Thú thật hồi đó cứ mỗi một đống gạch vụn khiêng đi đổ, là đổ cả mồ hôi và nước mắt, nhưng đã giữ lại trong tôi nỗi đau và sự tức giận đối với những người vừa là bạn, là phe mình mới hôm nào cùng dắt nhau đến những quán ăn Thọ Lộc, Hoài Linh còn ấm cái ghế ngồi, mà hôm nay đã trở thành… thù địch? Thương và giận luôn giằng co theo từng bước chân đi. Bao nhiêu ngày của Tháng Tư Đen, là ngần ấy ngày chúng tôi sống trong lo âu sợ hãi, khủng hoảng tinh thần. “Cách mạng” luôn đưa người đến tận nhà bắt buộc các thầy cô giáo phải đến trường, nhưng có lúc mới đi đến giữa đường đã phải chạy về vì tiếng súng phòng không nổ đụp đụp liên hồi. Có hôm tôi và cô bạn vừa đi gần đến chợ Đầm, đã phải vội vã... phóng về lại nhà ở đường Trưng Nữ Vương vì súng phòng không của “bộ đội” nổ liên hồi không dứt. Mãi đến khi trên làn sóng Đài Phát thanh chát chúa oang oang: “Mặt trận Lâm thời Giải phóng miền Nam thông báo là quân dân ta đã chọc thủng chốt cản của bọn Ngụy tại Phan Rang và đang tiến nhanh theo gót bọn chúng đang tháo chạy…” thì không còn nghe tiếng ù ù của “những chuyến bay đêm!” Nhưng ngoài nỗi đau, sự hoang mang sợ hãi giờ mang thêm niềm thất vọng tột cùng.

Ôi Tháng Tư Đen! Đời đen như cục than bắt đầu từ những ngày tháng đó. Cho đến một ngày cuối tháng Tư cả nước cùng nghe chung một tiếng loa của Phe Thắng Trận với “đại thắng mùa Xuân”! Những ngày mà “đôi dép râu dẫm nát đời son trẻ, nón tai béo che khuất nẻo tương lai” bắt đầu một chế độ mới. Khi mà nửa đêm về sáng của ngày mồng Một tháng 5, người dân thành phố Nha Trang đã bị những “cách mạng 30” đến gõ cửa từng nhà, kêu gọi tập trung tại sân vận động để chào mừng lễ lao động nhưng thật sự là ăn mừng chiến thắng. Khi mà những loa phóng thanh bắt đầu chỉa vào nhà dân lúc 5 giờ sáng, bắt người dân phải nghe những lời ca… chói óc, the thé ca tụng bác và đảng. Thầy cô giáo cũng phải hát thuộc lòng những bài hát đó ở trong trường để dạy lại cho học trò, nếu còn... đứng lớp). Những bản tin thắng trận, những “tội ác Mỹ Ngụy”… được loan tải từng giờ, nghe mà ớn lạnh. Tiếp theo là những ngày ăn cơm độn với gạo mục, bo bo, mì sợi, với mỗi tháng một cái tem phiếu đi cửa hàng lương thực chờ chực cả nửa ngày mới mua được vài ký rau muống già…

Người thì bị đi tù mút chỉ không biết ngày ra, quá nhiều gia đình ly tán. Người tuổi trẻ bị bắt vào đội Thanh Niên Xung Phong lên rừng chặt cây lồ ô, đi lao động khổ sai tiếp diễn, chịu bao nỗi khổ ải đắng cay. Đã vậy thêm lớp người mới mang băng đỏ, chuyên đi lùng sục bắt bớ những người “chưa chịu tuân thủ” lệnh của chính quyền mới, vào nhà vơ vét tài sản của dân lấy cớ tịch thu “sản phẩm đồi trụy của Mỹ Ngụy”... đã tạo thêm nỗi kinh hoàng cho những người dân ở thành phố vừa bị đổi chủ.
Những tháng ngày không thể nào quên, và mãi mãi không dễ gì quên…

Lê Thị Hoài Niệm

Không có nhận xét nào: