Trần
Doãn Nho/Người Việt
KENNEDALE,
Texas (NV) –
Trong thời gian tôi “cố thủ” ở trong nhà để phòng
tránh dịch bệnh COVID-19, thật là một ngạc nhiên vô
cùng thú vị khi được nhà văn Nguyễn Tường Thiết gửi
cho đọc tập sách viết về văn học Việt Nam (bằng
tiếng Anh) của một tác giả người Tiệp (Czech) (1):
“Life and Writings of Nguyễn Tường Tam/ Život a dílo Nguyễn
Tường Tama” (Cuộc Đời và Sự Nghiệp Viết Lách của
Nguyễn Tường Tam).Đây
là luận án tiến sĩ của bà Maria Strasakova trình tại Đại
Học Karlova, Prague, thủ đô nước Cộng Hòa Tiệp vào năm
2011, dày 346 trang, dựng lại hình ảnh một Nhất Linh toàn
diện, từ việc viết văn, làm báo cho đến các hoạt
động chính trị. Xin giới thiệu cùng độc giả một số
nét chính trong tập luận án này.
<!>
Để
viết về cuộc đời của Nhất Linh, tác giả cho biết đã
sử dụng hai tập biên khảo, “Thân Thế và Sự Nghiệp
Nhất Linh” của Lê Hữu Mục và “Chân Dung Nhất Linh”
của Nhật Thịnh, cùng các hồi ký, hồi ức và tài liệu
của các thành viên trong gia đình Nhất Linh như người
chị Nguyễn Thị Thế, người em ruột Nguyễn Tường
Bách, người con trai Nguyễn Tường Thiết, các người
cháu Thế Uyên, Tường Hùng và nhiều bài viết khác của
bạn bè, đồng nghiệp của Nhất Linh, ghi lại nhiều đoạn
đời hoạt động khác nhau của ông, chẳng hạn như Tú
Mỡ, Hoàng Xuân Hãn… Ngoài ra, bà còn tham khảo hàng trăm
tài liệu khác viết về lịch sử, văn hóa và xã hội
Việt Nam của nhiều tác giả khác, trong cũng như ngoài
nước.
Bà
Maria Strasakova đã soi rọi cuộc đời và sự nghiệp viết
lách của Nhất Linh dưới lăng kính của một lý thuyết
văn học mới gọi là “Tân Duy Sử” (New Historicism). Lý
thuyết này nghiên cứu văn chương trong tương quan với
các biến chuyển xã hội và lịch sử, theo đó, văn
chương có tính lịch sử, không phải là một hoạt động
tách biệt của con người. Tác phẩm và tác giả là một
cấu trúc xã hội, kết quả của các xung lực xã hội và
chính trị, nên cả hai không thể hiểu ra ngoài ngữ cảnh
văn hóa và xã hội lúc chúng xuất hiện. Kết quả là,
tác giả hay nhà phê bình văn chương, trong khi phân tích
bất kỳ một sản phẩm văn hóa nào, cũng đều là tù
nhân của “sử tính” riêng của mình, không ai có thể
thoát ra khỏi các hình thái và ảnh hưởng xã hội và
văn hóa trong đó mình sống.
Áp
dụng luận điểm này vào việc nghiên cứu, tác giả
Strasakova không chỉ bàn về Nhất Linh như chỉ là một
nhà văn, nhà báo hay nhà chính trị mà đề cập đến rất
nhiều khung cảnh và biến động xã hội, văn hóa, chính
trị ở Việt Nam trước cũng như trong thời gian mà Nhất
Linh sống có ảnh hưởng đến cuộc đời và sự nghiệp
của ông. Mặt khác, bà cũng sử dụng các sáng tác văn
chương của Nhất Linh để soi sáng hay chỉ rõ những biến
cố lịch sử có thể đã có một ảnh hưởng quan trọng
không chỉ trong các sáng tác mà còn trong cuộc đời ông.
Theo
bà, “Nguyễn Tường Tam đã sáng tác và tiến hành các
hoạt động chính trị của mình trong một kỷ nguyên
trong đó văn chương Việt Nam cũng như xã hội Việt Nam
đang phải trải qua một sự chuyển đổi tận gốc rễ
do sự đụng độ giữa xã hội truyền thống Việt Nam
với văn minh Tây phương và các giá trị của nó gây ra.
Nguyễn Tường Tam, tự bản thân, đã đóng một vai trò
quan trọng trong sự chuyển đổi này.”
Luận
án có bốn phần chính nghiên cứu về Nhất Linh:
-Chương
2 nghiên cứu về bối cảnh lịch sử, văn hóa của Việt
Nam trong khúc quanh giữa hai thế kỷ 19 và 20 với những
thay đổi lớn lao về ngôn ngữ, văn hóa, văn chương, xã
hội và báo chí giữa buổi giao thời giữa hai nền văn
hóa Trung Hoa và Tây phương, giữa truyền thống và hiện
đại.
-Chương
3 đề cập đến cuộc đời của Nhất Linh từ thuở
thiếu thời cho đến ngày mất, qua nhiều giai đoạn khác
nhau, từ hoạt động chính trị, báo chí, văn chương, lui
về ẩn dật, rồi trở lại hoạt động văn hóa, và sau
đó, trở lại chính trường. Tác giả giành một phần
khá chi tiết đề cập đến những tình huống đưa đến
cái chết của Nhất Linh và đám tang rất lớn của ông ở
Sài Gòn vào năm 1963.
-Chương
4 bàn về hoạt động báo chí của Nhất Linh qua hai tờ
tạp chí Phong Hóa và Ngày Nay.
-Chương
5 bàn về các sáng tác văn chương của Nhất Linh. Dựa
theo lý thuyết Tân Duy Sử, tác giả không phân tích chỉ
nội dung các tác phẩm mà còn liên hệ đối chiếu chúng
với cuộc đời tác giả, với các tác phẩm và tác giả
khác và với hoàn cảnh xã hội bên ngoài diễn ra cùng
thời kỳ.
Dù
là một người ngoại quốc, nhưng học giả Maria
Strasakova đã dựng lại một cách sống động chân dung và
sự nghiệp của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. (Hình:
Metropolitan University Prague)
Bà
Maria Strasakova cho rằng, những tác phẩm viết trước khi
đi Pháp như “Nho Phong,” “Người Quay Tơ,” trong đó,
nhân vật phụ nữ là những người hoàn toàn phản ảnh
đạo đức Nho Giáo. Nhưng sau khi ông đi Pháp ba năm
(1927-1930) về, những nhân vật phụ nữ trong các tác phẩm
của ông hoàn toàn thay đổi. Sở dĩ thế vì trong
thời gian ở Pháp, Nhất Linh chịu ảnh hưởng của chủ
nghĩa cá nhân trong các tác phẩm của André Gide, một nhà
văn thời danh của Pháp lúc bấy giờ. Một trong những
nguyên tắc chính của chủ nghĩa cá nhân là “hành động
tự do” (l’acte gratuit). Các nhân vật của Gide phá tung
mọi ràng buộc, sẵn sàng hy sinh bằng mọi giá, kể cả
mạng sống của mình, để bảo vệ nó. Họ mạnh mẽ
chống lại các định chế gia đình, vì cho rằng các định
chế đó là sức mạnh đàn áp tự do và ngăn cản con
người hoàn thành hạnh phúc cá nhân riêng của mình. Ảnh
hưởng đó tìm thấy trong các tác phẩm Nhất Linh viết
sau khi trở về từ Pháp.
Theo
bà Strasakova, xã hội Việt Nam của thập niên 1930 là một
xã hội giao thời giữa hai nền văn hóa với nhiều xung
đột mãnh liệt. Những trí thức Việt Nam vừa chịu ảnh
hưởng của nền giáo dục Khổng Giáo truyền thống lại
vừa chịu ảnh hưởng của tư tưởng tự do Tây phương,
cố gắng giải quyết sự xung đột đó bằng cách sản
xuất ra một số lượng lớn các tác phẩm văn chương
qua hình thức truyện ngắn và truyện dài. Thể loại văn
chương học hỏi được từ văn hóa Pháp này cung cấp
cho họ một không gian, qua đó, họ có thể kết hợp lại
các tình huống khó xử về mặt tình cảm và tri thức
đang xâm chiếm và chi phối họ.
Các
thành viên của Tự Lực Văn Đoàn và đặc biệt Nhất
Linh, là những đại biểu điển hình cho hình thức văn
chương mới mẻ này. Các tác phẩm của họ phản ảnh sự
xung đột văn hóa mãnh liệt của các giá trị mâu thuẫn
nhau giữa cái cũ (xã hội truyền thống Việt Nam dựa
trên các giá trị Khổng Giáo) và cái mới (văn hóa Tây
phương được người Pháp mang vào).
Tác
giả Strasakova khẳng định rằng giai đoạn 10 năm từ
1930 đến 1940, là thời gian thành công nhất và hữu ích
nhất trong cuộc đời của Nhất Linh, vừa như một nhà
báo vừa như một nhà văn, mà đáng kể nhất là sự
thành lập Tự Lực Văn Đoàn, kích thích sự thay đổi về
xã hội cũng như văn chương của Việt Nam cả về hình
thức lẫn nội dung.
Trong
thời gian này, Nhất Linh đã xuất bản bảy tiểu thuyết
được đăng từng kỳ trong các tạp chí Phong Hóa và Ngày
Nay. Bà Strasakova nhận xét, trong nửa đầu tập niên 1930
tác phẩm của ông quan tâm đến tình yêu lãng mạn, đến
những phụ nữ trẻ trong xã hội truyền thống Việt Nam
và sự nổi loạn của họ chống lại cơ cấu áp bức
của gia đình. Sau năm 1936, Nhất Linh thay đổi đề tài,
bắt đầu tập trung chú ý vào những con người bình
thường khác, đặc biệt là người nông dân, và các
phương cách cải tiến hoàn cảnh sống khốn cùng của
họ.
Một
trong những tác phẩm được bà Strasakova phân tích khá kỹ
là “Đoạn Tuyệt,” vì theo bà, đây là tác phẩm mà
Nhất Linh đề cao chủ nghĩa cá nhân và phê phán một
cách không kiêng dè hình thức gia đình truyền thống. Tuy
nhiên, cũng theo tác giả, chủ nghĩa cá nhân này không bao
giờ đạt tới mức độ của Gide. Ngoài “Đời Mưa Gió”
viết chung với Khái Hưng, trong đó, nhân vật nữ của
Nhất Linh ít nhiều tỏ ra có ý muốn đoạn tuyệt hẳn
với truyền thống, nhưng thất bại, còn nói chung, hầu
hết các nhân vật nữ khác chỉ cố gắng giải thoát họ
khỏi sự chi phối của gia đình truyền thống trong tư
tưởng, và họ chưa bao giờ thực sự thực hiện bất cứ
một hành động mạnh mẽ hay triệt để nào nhằm phá vỡ
truyền thống đó.
Thành
thử, mặc dầu lớn tiếng kêu gọi từ bỏ hẳn truyền
thống Khổng Giáo, nhưng qua cuộc đời cũng như qua tác
phẩm, Nhất Linh lại là “hiện thân của một người
quân tử kiểu Không Giáo thực sự và trong tác phẩm của
mình, ông thường, có lẽ một cách vô tình, phục hồi
các giá trị Khổng Giáo,” theo bà Strasakova.
Từ
điểm này, bà cho rằng Nhất Linh quả thật là một mẫu
người quân tử chân chính đúng nghĩa của Khổng Giáo.
Điều đó biểu lộ ngay trong cái thú chơi lan của ông.
Tác giả Strasakova cho rằng Nhất Linh chơi lan không chỉ
là một hình thức tiêu khiển mà là một ám ảnh, biểu
lộ gián tiếp tính cách quân tử đó. Bà khẳng định:
“Điều trông có vẻ nghịch lý là Tam [Nhất Linh], một
người nhiệt tình chống-Khổng Giáo lại tự gắn mình
vào biểu tượng Khổng Giáo của cây lan. Do đó, kết
luận duy nhất của chúng tôi là ông đã thấm nhuần các
giá trị Khổng Giáo hơn là chính ông có thể nhận biết.”
(2)
Từ
đó, bà Strasakova tìm thấy cuộc đời của Nhất Linh có
nhiều điểm tương đồng với cuộc đời của một nhà
thơ Trung Hoa mười mấy thế kỷ trước, Khuất Nguyên. Cả
hai đều là người chính trực, học rộng tài cao; cả
hai đều hoạt động chính trị và có lúc làm bộ trưởng,
Khuất Nguyên là quan đầu triều của vua Sở Hoài Vương,
Nhất Linh làm bộ trưởng ngoại giao của chính phủ Hồ
Chí Minh; cả hai đều được sự tin cậy trong thời gian
đầu rồi sau đó bị vu khống là có âm mưu lật đổ,
bị mất chức và đều từ bỏ chính trường, sống ẩn
cư; và cuối cùng, cả hai đều tự sát.
Dù
là một người ngoại quốc, nhưng với tinh thần làm việc
chuyên nghiệp của một học giả, bà Maria Strasakova quả
là đã dựng lại một cách sống động chân dung và sự
nghiệp của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, một trong những
nhà văn có công rất lớn, nếu không phải là lớn nhất,
đối với nền văn học Việt Nam hiện đại.
Bà
sinh năm 1980 tại Tiệp, từng sống ở Việt Nam khi còn bé
và nói tiếng Việt rất giỏi, là giảng viên tại Phân
Khoa Nghiên Cứu Á Châu ở đại học Palacky University và
đại học Metropolitan University Prague, Cộng Hòa Tiệp
(Czech Republic).
Ngoài
tập luận án “Life and Writings of Nguyễn Tưòng Tam,” bà
còn viết nhiều tiểu luận khác về Việt Nam như: “The
Process of Modernization of Vietnamese Literature” (Tiến Trình
Hiện Đại Hóa Văn Chương Việt Nam), “The Lives of
Vietnamese Women in the Czech Republic” (Cuộc Sống của Phụ
Nữ Việt Nam ở Cộng Hòa Tiệp), “The Influence of European
Translations on the Naissance of Vietnamese Literature” (Ảnh
Hưởng của các Dịch Phẩm Âu Châu trên sự Khai Sinh Văn
Chương Việt Nam).
Ngoài
ra, bà còn có một số sách và tiểu luận viết chung với
các tác giả khác như: “History of Viet Nam” (Lịch Sử
Việt Nam), “Dictionary of Vietnamese Literature” (Tự Điển
Văn Học Việt Nam)… (Trần
Doãn Nho) [qd]
Chú
thích:
(1)
Cộng Hòa Tiệp (Czech Republic) là một nước độc lập,
tách ra khỏi quốc gia Tiệp Khắc (Czecho-Slovakia) trước
đây vào ngày 1 Tháng Giêng, 1993, sau khi chế độ Cộng
Sản sụp đổ.
(2)
It may seem paradoxical, that Tam as an ardent anti-Confucian had
associated himself with the Confucian symbol of an orchid. The only
conclusion that we can make is that he had been imbued with Confucian
values more than he himself might have realized.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét