NHÀ THƠ TÔ THÙY YÊN (1938 - 2019)
Một nén nhang lòng cho thi sĩ Tô Thùy Yên,một cội đề của thi ca miền nam trước 75.
Tô Thùy Yên tên thật là Đinh Thành Tiên, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1938 tại Gò Vấp. Cha là chuyên viên phòng thí nghiệm Viện Pasteur, Sài Gòn, sau về công tác ở Bệnh viện Chợ Rẫy. Thuở nhỏ học trung học Trường Petrus Trương Vĩnh Ký, có ghi danh theo học ở Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn, ban văn chương Pháp, một thời gian rồi bỏ dở. Ông bắt đầu có thơ đăng trên báo Đời Mới (thập niên 1950) trước khi xuất hiện và nổi tiếng trên tạp chí Sáng Tạo. Tô Thùy Yên, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, cùng với các họa sĩ Duy Thanh, Ngọc Dũng là những người nòng cốt của nhóm Sáng tạo, một nhóm sáng tác đã từng được biết đến với phong trào khai sinh "Thơ Tự Do" trên văn đàn Miền Nam vào thập niên 1960. Ông là người miền Nam duy nhất trong nhóm Sáng tạo.
<!>
Cuối năm 1963 ông nhập ngũ, phục vụ ngành chiến tranh chính trị. Chức vụ cuối cùng là thiếu tá, trưởng phòng Tâm lý chiến.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông bị nhà cầm quyền cầm tù ba lần, tổng cộng gần 13 năm. Cuối năm 1993 cùng gia đình sang Hoa Kỳ định cư theo dạng tù nhân chính trị. Hiện nay ông đang ở Houston, tiểu bang Texas.
Một trong những bài thơ hay nhất,tiêu biểu nhất của ông là bài TA VỀ (Trường thi kinh điển của Tô Thùy Yên, từ tuyệt vọng trong tâm cảnh ngậm ngùi, khắp cùng đổ vỡ, tang thương. Nhưng không bi lụy, thề. Sự hào sảng của kẻ sĩ “Thơ chẳng ai đề vạt áo phai” không còn ý nghĩa của thắng-bại, tiếng cười sảng khoái cất lên ngay trên đầy đoạ, khổ đau của chính mình. Nỗi đau “mềm phế phủ” không phải ai cũng chịu nổi, càng không phải là những tháng năm tù đày. “Bỗng nghe/ đau/ mềm phế phủ” trước vật đổi sao dời sau mười năm xa vắng, mười năm lao cải, mười năm đá cũng ngậm ngùi thay… Không tố cáo, không luận tội bằng bằng trăm câu, ngàn chữ. Nhưng giá trị cáo trạng nằm trong chữ “thay”. Đá cũng ngậm ngùi thay, huống chi lòng người. Ai làm ra nông nổi này? Triều đại có hưng vong, chiến tranh có kết thúc. Lịch sử có sự công bằng cho con chữ thẳng ngay, không tố giác nhưng không khuất phục, bỏ qua… Thái độ bình tâm nhả chữ khi viết về lịch sử là khí độ của người cầm viết...
Tuyển tập thơ Tô Thùy Yên
TA VỀ
Tô Thùy Yên
Ta về một bóng trên đường lớn
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ
Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay
Vĩnh biệt ta-mười-năm chết dấp
Chốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu
Mười năm mặt sạm soi khe nước
Ta hóa thân thành vượn cổ sơ
Ta về qua những truông cùng phá
Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may
Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ
Nghe tàn cát bụi tháng năm bay
Chỉ có thế. Trời câm đất nín
Đời im lìm đóng váng xanh xao
Mười năm, thế giới già trông thấy
Đất bạc màu đi, đất bạc màu
Ta về như bóng chim qua trễ
Cho vội vàng thêm gió cuối mùa
Ai đứng trông vời mây nước đó
Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ
Một đời được mấy điều mong ước
Núi lở sông bồi đã mấy khi
Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động
Mười năm, cổ lục đã ai ghi
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi
Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa
Làng ta ngựa đá đã qua sông
Người đi như cá theo con nước
Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng
Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này
Ta khóc tạ ơn đời máu chảy
Ruột mềm như đá dưới chân ta
Mười năm chớp bể mưa nguồn đó
Người thức mong buồn tận cõi xa
Ta về như hạt sương trên cỏ
Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời
Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt
Tội tình chi lắm nữa người ơi
Quán dốc hơi thu lùa nỗi nhớ
Mười năm người tỏ mặt nhau đây
Nước non ngàn dặm bèo mây hỡi
Đành uống lưng thôi bát nước mời
Ta về như sợi tơ trời trắng
Chấp chới trôi buồn với nắng hanh
Ai gọi ai đi ngoài cõi vắng
Dừng chân nghe quặn thắt tâm can
Lời thề buổi ấy còn mang nặng
Nên mắc tình đời cởi chẳng ra
Ta nhớ người xa ngoài nỗi nhớ
Mười năm ta vẫn cứ là ta
Ta về như tứ thơ xiêu tán
Trong cõi hoang đường trắng lãng quên
Nhà cũ mừng còn nguyên mái, vách
Nhện giăng, khói ám, mối xông nền
Mọi thứ không còn ngăn nắp cũ
Nhà thương-khó quá sống thờ ơ
Giậu nghiêng cổng đổ, thềm um cỏ
Khách cũ không còn, khách mới thưa
Ta về khai giải bùa thiêng yểm
Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi
Hãy kể lại mười năm chuyện cũ
Một lần kể lại để rồi thôi
Chiều nay ta sẽ đi thơ thẩn
Thăm hỏi từng cây, những nỗi nhà
Hoa bưởi, hoa tầm xuân có nở?
Mười năm, cây có nhớ người xa?
Ta về như đứa con phung phá
Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu
Mười năm, con đã già trông thấy
Huống mẹ cha đèn sắp cạn dầu
Con gẫm lại đời con thất bát
Hứa trăm điều một chẳng làm nên
Đời qua, lớp lớp tàn hư huyễn
Giọt lệ sương thầm khóc biến thiên
Ta về như tiếng kêu đồng vọng
Rau mác lên bờ đã trổ bông
Cho dẫu ngàn năm em vẫn đứng
Chờ anh như biển vẫn chờ sông
Ta gọi thời gian sau cánh cửa
Nỗi mừng giàn giụa mắt ai sâu
Ta nghe như máu ân tình chảy
Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau
Ta về dẫu phải đi chân đất
Khắp thế gian này để gặp em
Đau khổ riêng gì nơi gió cát
Thềm nhà bụi chuối thức thâu đêm
Cây bưởi xưa còn nhớ, trắng hoa
Đêm chưa khuya quá hỡi trăng tà
Tình xưa như tuổi già không ngủ
Thức trọn, khua từng nỗi xót xa
Ta về như giấc mơ thần bí
Tuổi nhỏ đi tìm một tối vui
Trăng sáng soi hồn ta vết phỏng
Trọn đời nỗi nhớ sáng khôn nguôi
Bé ơi, này những vui buồn cũ
Hãy sống, đương đầu với lãng quên
Con dế vẫn là con dế ấy
Hát rong bờ cỏ giọng thân quen
Ta về như nước Tào Khê chảy
Tinh đẩu mười năm luống nhạt mờ
Thân thích những ai giờ đã khuất
Cõi đời nghe trống trải hơn xưa
Người chết đưa ta cùng xuống mộ
Đâu còn ai nữa đứng bờ ao
Khóc người ta khóc ta rơi rụng
Tuổi hạc ôi ngày một một hao
Ta về như bóng ma hờn tủi
Lục lại thời gian kiếm chính mình
Ta nhặt mà thương từng phế liệu
Như từng hài cốt sắp vô danh
Ngồi đây nền cũ nhà hương hỏa
Đọc lại bài thơ thủa thiếu thời
Ai đó trong hồn ta thổn thức
Vầng trăng còn tiếc cuộc rong chơi
Ta về như hạc vàng thương nhớ
Một thủa trần gian bay lướt qua
Ta tiếc đời ta sao hữu hạn
Đành không trải hết được lòng ta
TRƯỜNG SA HÀNH
Tô Thùy Yên
Trường Sa! Trường Sa! Đảo chuếnh choáng!
Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề
Lính thú mươi người lạ sóng nước
Đêm nằm còn tưởng đảo trôi đi
Mùa Đông Bắc, gió miên man thổi
Khiến cả lòng ta cũng rách tưa
Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh Lớn
Mà Hiu Quạnh Lớn vẫn làm ngơ
Đảo hoang, vắng cả hồn ma quỉ
Thảo mộc thời nguyên thủy lạ tên
Mỗi ngày mỗi đắp xanh rờn lạnh
Lên xác thân người mãi đứng yên
Bốn trăm hải lý nhớ không tới
Ta khóc cười như tự bạo hành
Dập giận, vác khòm lưng nhẫn nhục
Đường thân thế lỡ, cố đi nhanh
Sóng thiên cổ khóc, biển tang chế
Hữu hạn nào không tủi nhỏ nhoi?
Tiếc ta chẳng được bao nhiêu lệ
Nên tưởng trùng dương khóc trắng trời
Mùa gió xoay chiều, gió khốc liệt
Bãi Đông lở mất, bãi Tây bồi
Đám cây bật gốc chờ tan xác
Có hối ra đời chẳng chọn nơi?
Trong làn nước vịnh xanh lơ mộng
Những cụm rong óng ả bập bềnh
Như những tầng buồn lay động mãi
Dưới hồn ta tịch mịch long lanh
Mặt trời chiều rã rưng rưng biển
Vầng khói chim đen thảng thốt quần
Kinh động đất trời như cháy đảo...
Ta nghe chừng phỏng khắp châu thân
Ta ngồi bên đống lửa man rợ
Hong tóc râu, chờ chín miếng mồi
Nghe cây dừa ngất gió trùng điệp
Suốt kiếp đau dài nỗi tả tơi
Chú em hãy hát, hát thật lớn
Những điệu vui, bất kể điệu nào
Cho ấm bữa cơm chiều viễn xứ
Cho mái đầu ta chớ cúi sâu
Ai hét trong lòng ta mỗi lúc
Như người bị bức tử canh khuya
Xé toang từng mảng đời tê điếng
Mà gửi cùng mây, đỏ thảm thê
Ta nói với từng tinh tú một
Hằng đêm, tất cả chuyện trong lòng
Bãi lân tinh thức âm u sáng
Ta thấy đầu ta cũng sáng trưng
Đất liền, ta gọi, nghe ta không?
Đập hoảng Vô Biên, tín hiệu trùng
Mở, mở giùm ta khoảng cách đặc
Con chim động giấc gào cô đơn
Ngày. Ngày trắng chói chang như giũa
Ánh sáng vang lừng điệu múa điên
Mái tóc sầu nung từng sợi đỏ
Kêu dòn như tiếng nứt hoa niên
Ôi lũ cây gầy ven bãi sụp
Rễ bung còn gượng cuộc tồn sinh
Gắng tươi cho đến ngày trôi ngã
Hay đến ngày bờ tái tạo xanh
San hô mọc tủa thêm cành nhánh
Những nỗi niềm kia cũng mãn khai
Thời gian kết đá mốc u tịch
Ta lấy làm bia tưởng niệm Người
Tô Thùy Yên
Chiều trên Phá Tam Giang - Thơ Tô Thùy Yên
Thanh Lan & Nhật Trường
Mặc Lâm - Tô Thùy Yên, gõ cửa thiên thu
Tôi biết làm thơ từ khi còn rất nhỏ nhưng mãi tới gần tuổi năm mươi mới thật sự đọc được thơ qua một người mà càng đọc tôi càng được mở ra những cánh cửa khác của sự mầu nhiệm từ thi ca. Người làm thơ ấy là Tô Thùy Yên, một ánh sáng khơi gợi niềm cảm hứng, một cành khô giữa rừng có khả năng giúp người đi lạc trong cơn mê muội thẳm sâu của hưng phấn tìm được lối ra, một lẻ loi của cây xương rồng giữa sa mạc có khả năng chống lại sự cô đơn mà thượng đế giao phó.
Thơ của Tô Thùy Yên được rất nhiều người yêu mến vì chất tĩnh trong cái động của nó. Nếu 10 năm tù là trạng thái “động” của những buốt nhức của cơn đau thể xác thì “thế giới vui từ nỗi lẻ loi” là cái tĩnh thiền đạo của một người đã hiểu tường tận nỗi lẻ loi có sinh lực như thế nào. Lẻ loi ấy chỉ có thể hiện hữu trong một tâm thế vị tha, tha thứ những hằn học, những miệt thị, những oán khí của người khác đã dành cho mình. Lẻ loi vì sẽ không có nhiều người làm được. Lẻ loi vì tuy cúi mái đầu sương đã điểm nhưng vẫn tin vào tâm lượng của đất trời vẫn nặng trĩu niềm vui.
Niềm vui ấy Tô Thùy Yên đã tìm thấy sau khi từ giã trại cải tạo về nhà sau hơn 10 năm biệt xứ:
“Ta về cúi mái đầu sương điểm / Nghe nặng từ tâm lượng đất trời / Cảm ơn hoa đã vì ta nở / Thế giới vui từ mỗi lẻ loi.”
Chất thiền trong thơ Tô Thùy Yên có lẽ được hình thành từ những cơ cực mà cuộc đời ông chứng kiến. Những cái chết anh liệt nhưng thảm thương, những chia ly tràn khỏi bến bờ đau đớn, sự phân hủy cuộc sống đến vô tận đã đày ải tâm linh trước khi chính bản thân ông sụp đổ. Trong bài Qua sông ông viết:
“Áo quan phong quốc kỳ anh liệt / Niềm thiên thu đầm cỗ xe tang / Quê xa không tiện đường đưa tiễn / Nghĩa tận sơ sài, đám lạnh tanh / Thêm một chút gì như hối hả / Người thân chưa khóc ráo thâm tình...”
Những câm nín ấy vẫn ám ảnh ông nhiều năm sau trong bài Ta về, nỗi ám ảnh chiến tranh và tình người, một “hội chứng nghiến răng” của nhân loại: xông vào cái chết để bảo vệ ảo tưởng. Tô Thùy Yên sống và gậm nhấm thời kỳ ấy nên biết từng mùi vị của những lần hành quân đầy máu, máu của bạn bè lẫn đối phương. Máu không những đổ ra từ súng đạn nó cũng đổ ra từ tàn khốc của trại giam. Ám ảnh trở thành thói quen và Tô Thùy Yên lẩm bẩm sợ cho cơn thất lạc của chính mình:
“Ta về như bóng ma hờn tủi / Lục lại thời gian, kiếm chính mình / Ta nhặt mà thương từng phế liệu / Như từng hài cốt sắp vô danh”
Trong những cuộc hành quân ấy Tô Thùy Yên không ít lần thấy vẻ đẹp tiềm ẩn phía sau những quả mìn tàn nhẫn, những bức tranh được ông phác thảo vội vã miêu tả cái mỏi mệt của thiên nhiên quyện lấy con người như một định mệnh khắc nghiệt. Con người thì rã rời trời thì thấp và ướt sũng, mây trên trời lục bình dưới sông tất cả như hòa nhịp cho một bản nhạc buồn chỉ có chiến tranh mới có thể tạo ra được:
“Đây ngã ba sông, làng sát nước / Xuồng ba lá đậu kế chân bàn / Trời mới tạnh mưa còn thấp ướt / Lục bình, mây mỏi chuyến lang thang”
Tô Thùy Yên là một nhà thơ, đã hẳn, tuy nhiên ông còn là một họa sĩ thiên tài. Thơ ông đầy màu sắc quyết liệt chói chang của mặt trời, lạnh lẽo cô đơn như nước biển, và hơn cả tranh, màu sắc trong thơ ông phảng phất hình bóng con người. Trong “Trường sa hành”, một bài thơ quan trọng trong sự nghiệp thi ca của ông chúng ta có thể đồng ý với nhau ở điểm: màu sắc đã tạo thơ ông khác biệt vượt qua rất nhiều tác giả khác củng thời. Chỉ có điều không như hội họa, chúng ta chỉ thấy hai màu xanh lơ và đen trong cả bài thơ nhưng trong lòng lại bùng vỡ hàng loạt những gam màu khác: Đỏ úa của mặt trời trong ánh chiều tà mà tác giả gọi là “chiều rã” Những thay đổi quang phổ của rong biển, những long lanh từ muôn vạn tầng màu làm hồn ta lay động, màu lửa cháy rực cả đào khiến chim cũng đen úa cả tiếng xao xác quần bay. Miếng mồi cháy một màu khét khói cũng không khỏi ngậm ngùi…
Trong làn nước vịnh xanh lơ mộng
Những cụm rong óng ả bập bềnh
Như những tầng buồn lay động mãi
Dưới hồn ta tịch mịch long lanh
Mặt trời chiều rã rưng rưng biển
Vầng khói chim đen thảng thốt quần
Kinh động đất trời như cháy đảo...
Ta nghe chừng phỏng khắp châu thân
Ta ngồi bên đống lửa man rợ
Hong tóc râu, chờ chín miếng mồi
Nghe cây dừa ngất gió trùng điệp
Suốt kiếp đau dài nỗi tả tơi
….
Rồi nữa, kế sau màu sắc là âm thanh. Thứ âm thanh kinh khủng của tiếng gọi không thành lời. Âm thanh bị bóp nghẹt giữa hư vô. Âm thanh rơi vào một khoảng cách đặc sệt của không gian đóng kin:
“Đất liền, ta gọi, nghe ta không? / Đập hoảng Vô Biên, tín hiệu trùng / Mở, mở giùm ta khoảng cách đặc / Con chim động giấc gào cô đơn”
Viết về Tô Thùy Yên phải cần cả cuốn sách, một vài trang giấy không những bất toàn mà còn hời hợt. Nhưng sự ra đi của ông nếu không thể thắp bằng đuốc để tưởng nhớ thì đành dùng một nén nhang cũng đủ để tiển đưa ông. Trong tâm thế ấy cùng chia sẻ với những gì mà năm 1991 ông đã viết trong trại biệt giam 3C Tôn Đức Thắng:
Ta nằm xuống
Dỗ mình hãy cố ngủ
Tập quen dần với giấc thiên thu
Hãy ngủ, ông nhé và tôi tin rằng những gì ông để lại thế gian này cũng thiên thu không kém….
Mặc Lâm
(Blog VOA)
NGỰA PHI ĐƯỜNG XA
Đặng Tiến
Tô Thùy Yên đến với văn học trên “Cánh đồng Con ngựa Chuyến tàu”, bài thơ làm năm 1956, đăng trên báo Sáng Tạo thời đó và được độc giả hoan nghênh ngay, nhất là trong giới thanh niên, học sinh. Thời ấy sinh viên chưa nhiều, quần chúng văn chương còn thưa thớt, một thế hệ độc giả mới đang chớm thành hình. Với thời gian nhìn lại, bài thơ có thể xem là một sự kiện văn học vì lời thơ tân kỳ, ý thơ mới lạ, không giống một bài thơ nào khác trước kia mà đã được người đọc không chuyên môn văn học yêu thích ngay. Chuyện hiếm, vì công chúng Việt Nam nói chung là thủ cựu.
Chuyện đẹp, vì bài thơ của tác giả 18 tuổi đi thẳng đến độc giả 18 tuổi.
Ngày nay Tô Thùy Yên là tác giả danh tiếng. Bài thơ thanh xuân được những lớp phù sa bồi thêm nhiều ý nghĩa mới.
Trên cánh đồng hoang thuần một màu,
Trên cánh đồng hoang dài đến đỗi
Tàu chạy mau mà qua rất lâu.
Tàu chạy mau, tàu chạy rất mau.
Ngựa rượt tàu rượt tàu rượt tàu.
(…) Mặt trời mọc xong, mặt trời lặn.
Ngựa gục đầu, gục đầu, gục đầu.
(…) Ngựa ngã lăn mình mướt như cỏ,
Chấm giữa nền nhung một vết nâu.
(Tô Thùy Yên, Thơ Tuyển, tr 13)
Cánh đồng, con ngựa ở đây khác với những hình ảnh trong thơ cổ, tranh Đường, tranh Tống, ngược lại phần nào đó, gợi lên nền “văn hóa đồng hoang” của Nga La Tư thời cổ đại. Chuyến tàu – nôm na là xe lửa – là biểu tượng văn minh cơ khí và hiện đại. Cuộc va chạm lớn lao giữa hai nền văn minh đông phương thảo mộc và tây phương cơ giới đã được nhà văn Phạm Văn Ký, 1910- 1992, vẽ lại trong tiểu thuyết Mất nơi trú ẩn (Perdre la Demeure, Gallimard, 1961, giải thuởng Hàn Lâm Viện Pháp), mô tả cảnh xây dựng con đường sắt tại Nhật Bản vào thế kỷ XIX. Ngày nay, với tậpTHƠ TUYỂN (1) ghi tắt TT, của Tô Thùy Yên, con tàu còn mang nhiều ý nghĩa khác, như hình ảnh của lịch sử, dân tộc và loài người, tàn khốc và vô tâm:
Tàu đi, khoan xoáy sâu đêm thép,
Tiếng nghiến ghê người, thác lửa sa.
Lịch sử dường như rất vội vã,
Tàu không đỗ lại các ga qua.
(Tàu Đêm, 1980 , TT, tr 122)
Bài thơ làm trong thời gian học tập cải tạo miệt Nghệ Tĩnh; con tàu chở những người tù lưu xứ (tr 121), từ một sự vật cụ thể, mang thêm nội hàm tượng trưng rộng lớn trong thế giới Tô Thùy Yên:
Thời đại đang đi từng mảng lớn
Rào rào những cụm khói miên man
(TT, tr 125)
"Trên đường lịch sử sắt tuôn mau” (tr 120) con tàu đối lập với ngựa; ngựa là hình ảnh loài người trong thân phận cá nhân, trong một thế hệ, một dân tộc hay thời đại trước tiến hóa. Sức người có hạn rượt theo bánh xe lịch sử, vô hạn và vô định, vì lý tưởng chính đáng, vì những say mê cuồng nhiệt và mù quáng, vì “duy ý chí”, vì hoang tưởng hay chỉ là nạn nhân trong một hoàn cảnh. Cho đến khi “ gục đầu, gục đầu’
Ngựa ngã lăn mình mướt như cỏ,
Chấm giữa nền nhung một vết nâu.
Ngựa nâu là màu ngựa thường, có khi là ngựa thồ, không phải là bạch câu, ô truy hay xích thố. Ngựa của Kim Trọng trắng tựa “tuyết in”, chấm trên nền cỏ thanh minh như một đóa hoa lê; ngựa của chinh phu cũng"tuyết in" nổi bật dưới chiến bào “đỏ tựa ráng pha”. Ngựa của Vân Tiên đen tuyền, lấp lánh dưới kim khôi và siêu bạc rạng ngời giữa trận tiền. Ngựa của Tô Lang chỉ có “lớp áo” nâu sòng, màu của số phận dân quê, nói được là màu “dân tộc” cày sâu cuốc bẫm, hay cửa chùa vắng lặng. Khi thua cuộc, con ngựa -con người- chỉ để lại một “vết nâu”.
Nâu như một giọt máu khô.
Thơ, và nghệ thuật nói rộng ra, là những giọt máu đang khô, hay đã khô, trên nền mãi mãi non xanh của ngôn ngữ loài người.
Cuộc đời như thế đấy.
THƠ TUYỂN của Tô Thùy Yên bắt đầu bằng một câu trần trụi, trong bài nhan đề Thi Sĩ làm năm 1960, có thể xem như là tuyên ngôn. Thơ, thơ ai cũng vậy, bao giờ cũng vậy, là Lời, lẫn với Đời. Khác nhau ở tỷ lệ: đời ít lời nhiều, hay ngược lại. Ở Tô Thùy Yên đời và lời cân phân.
Câu thơ dù bay bổng, nợ đời, tình đời vẫn nặng chĩu.
Thơ nhẹ cánh, mà đời nặng gánh. Nói “đời” là mơ hồ, thậm chí hàm hồ. Đời nào, đời ai, đời những ai? Đời tênh hênh thì thơ cũng tô hô. Ngày xưa Xuân Diệu tự xem như con chim “ngứa cổ hát chơi”, lại thêm “hát vô ích thế mà chim vỡ cổ”. Tô Thùy Yên không làm thơ để mà chơi.
Tôi giành giựt đổ máu với tôi
Từng chữ một
(Thi sĩ, TT, tr 9)
Người xưa kể lại giai thoại “thôi xao”, nhẹ nhàng như việc "đẩy cửa dưới trăng, tăng xao nguyệt hạ môn", ( chuyện nhà thơ Giả Đảo đời Đường ) không “đổ máu” như Tô Thùy Yên. Lê Đạt nói về nỗi vất vả trong lao động chữ nghĩa có dùng hình ảnh "phu chữ”; Tô Hoài, trong bài viết đùa thân mật, diễn nôm là “cu ly chữ”. Tôi có dịp hỏi ý kiến Lê Đạt, anh trả lời: hiểu như thế không sai, nhưng cục bộ, “phu” còn có nghĩa là "đại phu", hay "đại trượng phu" theo Mạnh Tử. Đây là lời nói riêng, không phải là ý kiến.
Tô Lang không chơi chữ nước đôi kiểu ấy: "đổ máu" là đổ máu, chỉ có một nghĩa, dĩ nhiên là nghĩa bóng. Đọc thơ Tô Thùy Yên, cũng không nên đọc để mà chơi. Tác giả kén chọn người đọc và cách đọc, có lẽ vì thế mà 40 năm sau khi có thơ thường xuyên đăng báo, anh mới cho xuất bản một tập THƠ TUYỂN. Viết về anh có phần khó; không phải ở khâu bình giải khen chê, mà ở mức độ đồng cảm. Tôi viết bài này là do yêu cầu của độc giả, chủ yếu vì lí do tâm cảm và đồng cảm, xem từng chữ của Tô Thùy Yên như những giọt máu. Ví dụ con ngựa nâu là giọt máu mới đông. Cũng trong bài tuyên ngôn Thi sĩ:
Bài thơ lọt vào người như kẻ trộm
Âm thầm
Vơ vét sạch vô tư
(TT, tr 10)
Như vậy đơn vị thơ Tô Thùy Yên không phải ở câu thơ, như thường lệ, mà là bài thơ có khi khá dài, thường trên một trăm câu, và từng bài thơ một, phải đặt lại vào toàn thể tập thơ mới đúng vị trí và ý nghĩa của nó. Trích dẫn từng câu, từng đoạn, dù tiêu biểu, là việc cực chẳng đã. Đọc toàn tập, chúng ta nhận thấy thơ của Tô Thùy Yên không có tuổi, cho dù mang nhiều âm vang của lịch sử, trong một giai đoạn chiến tranh, đổi đời và tù đày khốc liệt.
Bây giờ ta đã già như tuyết
Già vô âm vọng
Già thâm u
Bây giờ ta trẻ như hừng đông
Trẻ như tiếng reo
Trẻ bất tử.
Ta ca ngợi những điều vô ích nhất,
Như tình yêu, cuộc đời, sợi tóc cỏ.
(Chim Bay Biển Bắc, 1972, TT, tr 69)
Chàng thanh niên 18 tuổi, khi kể chuyện Con ngựa Chuyến tàu đã là một tâm hồn già; con người ngũ tuần vừa ra khỏi trại cải tạo sau nhiều năm lưu xứ với “mái đầu sương điểm”.
Ta về một bóng trên đường lớn,
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai
(Câu mở đầu bài Ta về, 1985, TT, tr 126)
Bài tuyên ngôn “Thi sĩ” làm 1960 đã có những câu:
Những tên cai ngục
Ngôn ngữ bất đồng.
Với thứ linh hồn quốc cấm,
Tôi tù tội chung thân
(TT, tr 9)
Trong một bài thơ đề tặng Thụy Vũ, ghi 7-1972 đăng báo Văn (Sài Gòn) số 208 ngày 15-8-1972:
Ôi những rặng cao su thẳng lối ngay hàng
Ôi những rặng cây mang án tử hình treo
(Bất tận nỗi đời hung hãn đó, tr 58)
Lại còn bài này nữa cùng thời 1972:
Sống trên đời chuyện ghê gớm quá,
Vậy mà ta sống, có kỳ không ?
Nước mắt ta tuôn khi nghĩ tới
Những người đã chết, chết như rơm..
Hề, ta trở lại gian nhà cỏ
Sống tàn đời kẻ sĩ tàn mùa
Trên dốc thời gian hòn đá tuột
Lăn dài kinh động cả hư vô
Hề, ta trở lại gian nhà cỏ
Tử tội mừng ơn lịch sử tha
Ba vách, ngọn đèn xanh, bóng lẻ
Ngày qua ngày, cho hết đời ta ...
(Bài: Hề, ta trở lại gian nhà cỏ, TT, tr 43- 45-46)
"Tử tội mừng ơn lịch sử tha"! Bài thơ ghi thời điểm sáng tác: tháng 7-1972. Tôi ngờ ngợ tác giả nhớ nhầm, thơ in nhầm ngày tháng chăng? Tôi (vớ vẩn) đi kiểm soát lại thì thấy đúng, bài thơ đăng trên báo Văn, Sài Gòn số 208 đã dẫn, thời đó, có ghi rõ: làm ngày 11-7-1972.
Cùng với bài Tưởng tượng ta về nơi bản trạch, lời thơ bi tráng tuyệt diễm:
Ta bằng lòng phận que diêm tắt,
Chỉ giận sao mồi lửa cháy suông.
Thôi nói, bởi còn chi để nói,
Núi xa, chim giục giã hoàng hôn.
Tưởng tượng ta về nơi bản trạch,
Áo phơi xanh phới nhánh đào hồng.
Mùa xuân bay múa trên trời biếc,
Ta búng văng tàn thuốc xuống sông
(Báo Văn, tr 61, Thơ Tuyển tr 51)
Que diêm tắt mà vẫn phơi phới đào hồng, trên cõi đời này, chỉ có Tô Thùy Yên! Niềm hạo nhiên đó, Tô Quân còn gọi là: “cái có nơi ta” trong bài Chim Bay Biển Bắc đã dẫn, làm ngày 4.8.1972.
Đừng loạn tâm, đừng loạn tâm
Cuối chặng hành trình quay đảo nhất
Cả thảy sẽ an nhiên
Trong trật tự hằng hằng của vũ trụ
A! Loài người thăng tiến được bao xa?
Trời đất phồng lên cơn giận dữ
Thổi trận mưa rơm, Cõi Tạm mù
(Văn số 208, tr 91, Thơ Tuyển tr 70)
Trước đó, bài Đãng Tử,1971 có ghi tiền đề: (epigraphe)
Ngày kia trở lại Ngôi Nhà Lớn
Lòng những bằng lòng một kiếp chơi.
(Báo Văn, số 190, TT, tr 23)
Mười năm lưu đày, thêm những lần bị bắt đi bắt lại, âu cũng chỉ là một kiếp chơi! Nắm bắt được điều đó, mới hiểu thấu bài Ta về (1985) nổi tiếng về sau, được nhiều người trích dẫn, không phải lúc nào cũng với hảo ý văn nghệ.
Gần đây và hiện nay, về mặt văn hóa, trong nước đang thảo luận dài dòng về đề tài: truyền thống và hiện đại; dân tộc và thế giới; cái riêng trong cõi chung… Ý hướng tốt: muốn liên minh cái nọ với cái kia, điều hòa cuộc sống dân tộc trong một thế giới đang bước đi những bước khổng lồ.
Thực tế văn hóa, nghệ thuật không rắc rối như vậy. Người nghệ sĩ làm thơ, vẽ tranh một cách hồn nhiên muốn sao làm vậy, rồi tác phẩm của họ nó ra sao còn tùy; dân tộc hay hiện đại là do người xem người đọc. Nếu rung cảm chân thành và sâu sắc thì phải mang đủ hai yếu tố, với phần liều lượng khác nhau.
Nói rằng điều hòa truyền thống với hịện đại, ngày nay trở thành một khẩu hiệu, một cách chào hàng trong thị trường văn hóa. Trong thâm tâm người sản xuất đã có hậu ý đối lập: làm sao cho có bản sắc dân tộc mà vẫn hiện đại; làm sao theo kịp các trào lưu của thế giới mà vẫn giữ truyền thống. Hai chữ “mà vẫn” có tính cách lãnh đạo và tham lam. Mà lãnh đạo và tham lam là phi văn hóa. Người nghệ sĩ chân chính, dù cho bề ngoài phải chịu ức thúc, nhưng trong đáy tâm hồn, trong cõi thâm sâu của sáng tạo, họ là những cá nhân tự do sống và sáng tác với "cái có trong ta" như chữ nghĩa Tô Thùy Yên.
Con người nô lệ, vụ lợi và xu thời, giỏi lắm là nghệ nhân hay văn công. Trong thực tế sáng tạo, dân tộc và hiện đại là một đơn vị bất khả phân. Nhà phê bình mỹ thuật Thái Bá Vân, trong một tác phẩm mới in, đã nói chí lí và dũng cảm: “cái khẩu hiệu Dân tộc Hiện đại của văn nghệ chúng ta trong nhiều năm nay là một mệnh đề thiếu chính xác và hoàn chỉnh ngay ở mặt tu từ (…) khẩu hiệu này thiếu cái hàm ý nhân loại trong truyền thống” (tr 58). Trong một bài khác, anh nói thêm “ Cũng vậy đối với nghệ thuật bản sắc dân tộc và tính toàn cầu phải được hiểu là một”.(tr 73).
Cần nêu lên tiền đề này trước khi đề cập đến đề tài cục bộ: Tô Thùy Yên, dân tộc và hiện đại, đặt một trường hợp riêng lẻ trong cuộc thảo luận chung của đất nước - dù rằng cuộc thảo luận khập khiểng. Nói khác đi, vấn đề không đặt ra với tôi; với tôi chỉ có thân xác những bài thơ ngoài thời gian và vô quốc tịch; nó là thơ Tô Thùy Yên thế thôi, không dân tộc hiện đại gì ráo. Nhưng với người đọc – người đọc báo chẳng hạn, người viết có nhiệm vụ (và hạnh phúc) phải cập nhật hóa bài viết, trong bối cảnh lý luận rộng lớn hơn, hiện hành trên đất nước.
Tô Thùy Yên đến với văn học Việt Nam ở một giai đọan mới, mở ra tại miền Nam khoảng 1955-1956. Anh là thanh niên trí thức, đọc nhiều sách báo nước ngoài, trên một mảnh đất mở vào “Thế giới tự do” thì dĩ nhiên tâm hồn và trước tác cũng phải hiện đại: câu thơ, nhịp thơ, hình ảnh, ý tứ trong thơ Tô Thùy Yên minh chứng điều đó, chúng ta không cần đồ họa lôi thôi. Cái chính là làm nổi bật tính dân tộc trong thơ Tô Thùy Yên, đã đưa thơ anh đến với một nhân loại muôn đời,vượt qua hàng rào “hiện đại”.
Trong số những nhà thơ đương thời, có lẽ Tô Thùy Yên là người sử dụng nhiều ca dao nhất. Lưu Trọng Lư, một trong những người phát động thơ mới, thuộc nhiều ca dao, hay nhắc đến những màu sắc dân tộc, nhưng ít khi đưa ca dao vào thơ. Thanh Thâm Tuyền sành ca dao, nhưng không sử dụng, thậm chí có thể nói thơ Thanh Thâm Tuyền là một thi loại phản-ca-dao. Tô Thùy Yên, ngược lại ưa dùng lời ăn tiếng nói dân gian; nếu không thuộc tục ngữ, ca dao, người đọc có khi không hiểu anh nói gì. Ví dụ bài thơ mới làm cuối 1993, để Giã Biệt, “từ bỏ căn nhà, từ bỏ quê hương” lên phi cơ biệt xứ:
Anh ra đi
Bứt ruột mà đi (a)
Như đã một lần cũng bứt ruột
Đi những mười năm tưởng chẳng còn về
Máu chảy không cầm như nước theo sông
Thành phố của anh
Nhục nhằn duyên cưỡng ép (b)
Cay đắng phận rau răm (c)
Tim lay lắt chập chờn nỗi đợi
Mòn mỏi nén nhang khuya (d)
Buổi trở lại, trèo lên cây bưởi cũ (e)
Trông thấy nhau, thương chỉ để mà thương (f)
Đôi bông đó thôi thì em hãy giữ (g)
Tưởng tình xưa
Xin bỏ lỗi cho anh
Anh ra đi
Một lần nữa ra đi
Một lần nữa bứt ruột
Thương người ở lại
Thương như mưa (h)
(TT, tr 203)
a. Đưa tay mà bứt ngọn ngò
Thương em đứt ruột, giả đò ngó lơ
b. Ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên
c. Cay đắng phận nghèo (mùi đời)
(thành ngữ).
Gió đưa cây cải về trời
Rau răm ở lại chịu lời đắng cay.
d. Anh buồn còn chỗ thở than
Em buồn như ngọn nhang tàn thắp khuya
e. Trèo lên cây bưởi hái hoa
f. Cây cao bóng ngã qua rào
Trông cho thấy mặt không chào cũng thương.
g. Một mai thiếp có xa chàng
Đôi bông thiếp trả, đôi vàng thiếp xin.
h. Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa.
Dĩ nhiên là còn nhiều câu khác mà tôi không biết, như “máu chảy không cầm” tôi nhớ mang máng đâu đó, không tường tận. Muốn tìm ra nhiều điển cố dân gian trong một bài thơ như vậy, phải lần lên đến Quốc âm Thi Tập của Nguyễn Trãi, thế kỷ thứ XV.
Có những giao hưởng tài hoa và thi vị, trong lời hẹn một ngày về Vườn hạ
Ăn trái chín cây mùa hạ trước
Thấy nhành ớt động bóng chim quen
(TT, tr 91)
Muốn đi vào tâm tư tác giả, ta cần biết:
- Chim chuyền bụi ớt líu lo
Tình thương quân tử ốm o gầy mòn
- Chim quyên ăn trái nhãn lồng
Thia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi
Trong bài Ta về , 1985:
Đêm buồn, ai nữa đứng bờ ao
Khóc người, ta khóc ta rơi rụng
(TT, tr 135)
Câu trên gợi lên cảnh “ đêm khuya ra đứng bờ ao” mà ai cũng nhận ra, nhưng không gian bờ ao kết hợp với “rụng” nhắc lại một câu ca dao khác và gợi ra tâm trạng hờn tủi của người về
Thiếu chi cam rim hường rim anh không chuộng
Anh đi tìm trái khế rụng bờ ao.
Một bài khác còn nhắc tới cây khế dung dị nhưng tuyệt đẹp:
Ta nhớ lắm
Khu vườn xưa, cây khế tím mùa hoa
Có khi Tô Thùy Yên sử dụng nguyên si một câu ca dao:
Thôi, em tiếc thêm chi cái sợi dây dài
Để đến nỗi ngồi hoài bên giếng cạn?
(TT, tr 150)
Nguyên câu văn ca dao, hóm mà sâu :
Tưởng giếng sâu em(anh) nối sợi dây dài,
Ai ngờ giếng cạn em (anh) tiếc hoài sợi dây.
Bài Mùa Hạ làm trong trại học tập Nghệ Tĩnh, trực tiếp nhắc nhở nội dung dân gian của một hình ảnh.
Ngày nghỉ về vườn thăm họ ngoại
Lòng như con sáo trong ca dao
(TT, tr 108)
Con sáo là hình tượng tự do: "con sáo sổ lồng sáo bay”. Vương vấn đâu đó ít nhiều cay đắng, khi nhớ đến câu trước: "Ai đem con sáo sang sông," so với tình huống của người dân miền Nam đi học tập cải tạo “ bên kia sông”. Cùng trong trang đó:
Em mặc bà ba ra bến nước,
Đưa tay khỏa nhẹ nhớ thương nào,
Đến nay lòng ấy còn xao gợn…
Mùa trái cây nào hái tặng nhau .
(TT, tr 108)
Ngoài “mùa trái cây” gợi nhớ đời sống Miệt Vườn, chữ “bà ba” là đặc tính của Nam Bộ , nhưng không xuất hiện nhiều trong thơ. Thường thường ta chỉ thấy “áo lụa Hà Đông” hay là:
Yêu nhau gói trọn hồn trong áo
Nhớ nhau từ trong tà lụa bay
Đinh Hùng
Võ Phiến thời đó (1972) đã nhiều lần luận về cái áo dài tha thướt; sau này, ra nước ngoài, anh mới nhớ đến cái áo bà ba. Tô Thùy Yên trong những câu thơ uyên bác, không ngại dùng những từ dân dã, Nam Bộ như cười bung (tr 59), lá bung phơi (tr 111), bung nở (tr 212), tiếng hò mời dzô dzô (tr 47), quên ngang (tr 119). Những lời lẻ dân gian được sử dụng uyên bác:
Tôi gầy yên lặng với âm thanh (TT, tr 10)
Ngọn cây, ô, đã giát hoàng hôn ( TT,tr 43)
Ngoài ra còn có một số hình ảnh lấy từ ở đời sống hàng ngày, ở tuổi thơ nông thôn, từ tàu chuối lưa thưa đến hoa khế tím, con còng, con dế, đến chim bói cá, cá thia lia, những trò chơi trẻ con như cút bắt, "xu thảy hết... đồng cái thua buồn cũng liệng sông" (tr 95) ; với những kỷ niệm sắc bén:
Ai ngắt dùm anh cây cỏ sướt
Làm đôi gà đá, đá ăn cười
(TT, tr 92)
Gà đá, ở đây là những chùm cỏ cú, làm trò chơi của trẻ nghèo ở nông thôn.
Kỷ niệm thơ ngây, lần xen vào những câu thơ hào hoa
Con chim lạc bạn kêu trời rộng,
Hồn chết trôi miền dạ lý hương.
(TT, tr 94)
Trong từ vựng, đặc sắc trong ngôn ngữ thơ Việt là giá trị những hư từ, như liên từ, giới từ, những công cụ cú pháp không có nội dung riêng, trái với thơ chữ Hán nặng về thực tế và né tránh hư từ. Thơ Tô Thùy Yên cô đúc và có phong thái cổ thi nên cũng ưu đãi thực từ, nhưng hư từ trong thơ anh lại rất đắc vị:
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi
(Ta Về, TT, tr128)
Đọan thơ này thường được trích dẫn vì nội dung lịch sử và nhân đạo, triết học. "Hoa đã vì ta nở" nhắc đến câu thơ vua Trần Thánh Tông,1240-1290, trong bài Vườn xuân nhớ người cũ:
Vạn tử thiên hồng không lạn mạn,
Xuân hoa như hứa, vị thùy khai ?.
ĐT tạm dịch :
Muôn hồng ngàn tía suông đua sắc,
Hoa nở, vì ai vẫn nở nhiều ?
Nhưng đừng quên giá trị của nó về mặt thi pháp, cách sử dụng các hư từ “vì”, “từ”, và cách ngắt nhịp huê dạng “ từ mỗi” trong câu thơ.
Nói chuyện thơ, chúng tôi nghĩ nên ưu tiên cho các vấn đề về thi pháp, từ pháp, âm pháp, nói chung là ngôn ngữ. Dĩ nhiên nội dung của tác phẩm là quan trọng. Trong thời Tô Thùy Yên, lịch sử dân tộc để lại nhiều hình ảnh sâu đậm, quá khuôn khổ của một bài báo.
Vậy xin khất độc giả đến một dịp khác.
Paris, 22.10.1998. Điều chỉnh, 6-12-2009.
Đặng Tiến
(1) Tô Thùy Yên, THƠ TUYỂN. Tác giả xuất bản, Minnesota, Hoa Kỳ 1995. Thơ trích từ đấy.
(2) Thái Bá Vân, TIẾP XÚC VỚI HỘI HỌA, nxb VIỆN MỸ THUẬT, Hà nội, 1998, chỉ in 400 cuốn, ai đọc ai không? Đến hôm nay, 2009, chưa thấy tái bản.
Trang Đặng Tiến
Art2all.net
__._,_.___
Posted by: Huong Pham
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét