Ngày 5.4. 2018, ông Nguyễn Văn Đài bị cái gọi “Tòa án Nhân dân” ở Hà-Nội kết án 15 năm tù, và 5 năm quản chế kể từ ngày chấp hành xong hình phạt về tội “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”. Cùng bị án tù với ông Đài là năm người khác thuộc “Hội anh em Dân chủ” mà ông là phó chủ tịch và bị cho là người chủ mưu trong một vụ án làm xôn xao dư luận trong và ngoài nước Việt Nam về tính cách “luật rừng” của nó. Nhiều người cho ông Đài bị xử nặng vì là người có khả năng tập hợp những kẻ chống đối chế độ nên thuộc thành phần nguy hiểm, sẽ khó mà ra khỏi nhà tù.
<!>
Vậy mà chỉ hai tháng sau, đêm 7 tháng 6, ông Nguyễn Văn Đài và người cộng sự Lê Thu Hà (bị án 9 năm tù, 2 năm quản chế) đã được đưa ra khỏi nhà tù, tới thẳng sân bay quốc tế Nội Bài cùng với bà Vũ Thị Minh Khánh, vợ ông Đài, để lên phi cơ rời VN bay thẳng tới phi trường Frankfurt, Đức, và sau đó bay tiếp tới thủ đô Berlin.
Việc rời Việt Nam có tính cách “tống xuất” của ông Nguyễn Văn Đài, một luật sư, một lần nữa vấn đề nên đi hay ở lại VN của những “người tù lương tâm” lại được nêu ra. Bác sĩ Trần Văn Tích, ở Đức, trong một bài đề ngày 11.7.2018 có tựa là “Đi hay ở” đã viết như sau:
Đầu đề bài viết này do Bà Sybille Ploog đặt. Bà Ploog là người phụ trách tờ Der Stacheldraht (Giây kẽm gai), cơ quan ngôn luận chính thức của tổ chức chống cộng Union der Opferverbände Kommunistischer Gewaltherrschaft e.V., UOKG (Liên hiệp các Hội đoàn Nạn nhân của Chuyên chế Cộng sản). Nhân vụ Luật sư Nguyễn Văn Đài được giải thưởng của Hiệp hội Thẩm phán Đức rồi kế đó, Luật sư bị Việt cộng tống xuất sang Đức cùng người phối ngẫu và một nữ nhân viên phụ tá, tôi cám cảnh nên viết thành bài văn chính luận tiếng Đức lấy nhan đề: “Asyl für abgeschobene vietnamesische Dissidenten, eine zerstörerische Politik des Westen“, xin dịch thoát sang Việt ngữ là “Cấp qui chế tỵ nạn cho những nhân vật đối kháng người Việt, một chính sách hủy diệt của phương Tây“. Nội dung bài viết trình bày ngắn gọn các hoạt động chống cộng hữu hiệu của Luật sư Nguyễn Văn Đài khiến Việt cộng căm ghét và khiến công luận Đức lưu tâm nên đưa đến kết quả là Luật sư được cấp giải của Hiệp hội Thẩm phán Đức.
Trong một bài viết trước đây, tôi đã nhắc đến những người ở lại như Bác sĩ Nguyên Đan Quế, Linh mục Phan Văn Lợi và Luật sư Nguyễn Văn Đài. Tôi ghi tên Luật sư vì được đọc đâu đó trên internet lời tuyên bố sẽ không ra nước ngoài của Luật sư. Nay tình hình thay đổi, Luật sư cùng gia đình và phụ tá sang Đức. Từ Luật sư Đài, tôi chuyển qua hoàn cảnh của những nhân vật tự xem hay được xem là đối kháng đã lìa bỏ môi trường tranh đấu chính trị quen thuộc là quốc nội để lưu vong ra quốc ngoại.
Tôi ngậm ngùi nêu nhận thức là tất cả quí vị này – dù hiện sinh sống ở Mỹ, ở Pháp hay ở Đức – đều trở thành những người Việt lưu vong hay những người Việt tỵ nạn, không hơn không kém. Đánh giá hết sức chủ quan, tôi buồn bã viết thêm là như vậy hàng ngũ chống cộng vô hình trung đã mất đi những nhân vật đáng kính đáng quí. Để bổ sung ý kiến, tôi nêu trường hợp Bác sĩ Nguyễn Đan Quế. Bác sĩ Nguyễn Đan Quế được nhiều giải thưởng hơn Luật sư Nguyễn Văn Đài.
Năm 1995, Robert F. Kennedy Human Rights Award. Năm 2004, Certificate of Distinction in Civil Courage thuộc US-based Civil Courage Prize. Cùng năm 2004 Asia-Pacific Initiative giới thiệu dự tranh giải Nobel Hoà bình. Năm 2016, The Gwangju Prize for Human Rights của Nam Hàn. Việt cộng làm áp lực rất nặng nề lên bác sĩ Quế để tống cổ Ông ra nước ngoài cho khuất mắt, khỏi phải cử công an, mật vụ, an ninh, mật thám luân phiên thường xuyên canh gác, theo dõi, rình mò, dò la ngôi nhà 102/7 (địa chỉ cũ, trước 1975) đường Nguyễn Trãi, Sàigòn. Trong khi đó thì phía Hoa Kỳ công khai tuyên bố sẵn sàng nhận bác sĩ Quế cùng gia đình nếu bác sĩ quyết định xin tỵ nạn tại Mỹ; dẫu vậy, bác sĩ Nguyễn Đan Quế liên tục, cương quyết, cố định từ chối lời đề nghị của phía Mỹ. Chuyển qua lịch sử nước Đức, tôi nhắc lại câu khẩu hiệu hào hùng từng vang dội trong những cuộc tuần hành, biểu tình, mít-tinh ngày nào tại các thành phố Leipzig, Berlin v.v..trên lãnh thổ Đông Đức cũ : “Wir bleiben hier!“ (Chúng tôi ở lại đây!). Tôi kể thêm lời kêu gọi của Christa Wolf ngay trên truyền hình Đông Đức vào ngày 8 tháng 11 năm 1989, hướng vào dân chúng Đông Đức : “Die jetzt noch weggehen, mindern unsere Hoffnung.“ (Những kẻ ra đi bây giờ chỉ khiến niềm hy vọng của chúng ta suy giảm). Trước khi chấm dứt bài viết, tôi lại đan cử trường hợp thần tượng của tôi, Linh mục Ba lan Jerzy Popieluszko, người đã được Giáo hội Thiên chúa giáo phong thánh vì đã kiên cường chống lại chế độ cộng sản và ủng hộ Phong trào Đoàn kết, người đã được Tổng Giám mục Josef Glemp đề nghị cấp học bổng sang nghiên cứu ở La mã nhưng đã thẳng thừng từ chối để ở lại cùng dân tộc và quê hương và cuối cùng để hy sinh dưới tay những tên hung thủ mật vụ Ba lan.
Trước khi viết bài và cho phổ biến bài, tôi tham khảo một người bạn Đức khác là Tiến sĩ Josef Bordat, một blogger chuyên bảo vệ các bloggers Việt Nam hiện đang ở quốc nội. Tiến sĩ Bordat thông cảm với nỗi ưu tư khắc khoải của tôi và đồng ý là tôi có thể protest, phản kháng. Tôi cám ơn thái độ biểu đồng tình của Tiến sĩ nhưng khẳng định cùng Ông là tôi sẽ không phản kháng bất cứ cá nhân, bất cứ tổ chức nào. Tôi chỉ lễ độ, kính cẩn bitten, thỉnh cầu. Tôi cầu xin cho điều tốt lành sẽ xảy ra đúng lúc đúng nơi – tôi tránh lạm dụng chữ “phép lạ“ – để Luật sư Nguyễn Văn Đài cùng các bằng hữu của Luật sư sẽ hoạt động chống cộng có hiệu quả trên vùng đất tạm dung mới. (ngưng trích)
Trước sự “tống xuất” của Ls. Nguyễn Văn Đài bốn tháng, Nhạc sĩ Việt Khang cũng đã “được tống xuất” sang Mỹ, và đã gây ra một cuộc tranh cãi và tranh công ồn ào giữa các phe nhóm trong cộng đồng người (Mỹ gốc) Việt, và có thể cả những kẻ nằm vùng do VC gài vào.
Khi ấy, Nhà báo Huy Phương cũng đã viết một bài (ngày 12.2.2018) với nhiều dữ kiện đáng cho mọi người suy nghĩ:
Việt Khang đã bị chính quyền CSVN bắt vào cuối năm 2011, bị kết án 4 năm tù vào ngày 30 Tháng Mười, 2012, được trả tự do vào ngày 14 Tháng Mười Hai, 2015 và bị quản chế hai năm, đã đến phi trường Los Angeles, California, lúc 1 giờ 20 chiều ngày 8 Tháng Hai, và được đông đảo đồng hương và giới truyền thông ra đón.
Cũng không phải tự dưng mà công an Cộng Sản tử tế tới nhà Việt Khang mời lên máy bay đi Mỹ. Nhạc sĩ Trúc Hồ và SBTN có sáu năm vận động cho Việt Khang, mở chiến dịch Thỉnh Nguyện Thư vào năm 2012, và sau đó đã âm thầm vận động với Thượng Nghị Sĩ John McCain để ông trực tiếp can thiệp, nêu trường hợp của nhạc sĩ này với Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ khi làm việc với CSVN.
Phải nói Việt Khang là hình ảnh của tuổi trẻ tinh hoa của tổ quốc với một lối tranh đấu, phê phán đặc biệt. Không giăng biểu ngữ, không xuống đường, không hô hào, chỉ với một bài hát, Việt Khang đã làm đánh động đến con tim và nỗi xót xa của hằng triệu người Việt tha hương, và làm chấn động cả bộ máy cầm quyền CSVN, nhất là giới công an, những người được Việt Khang gọi đích danh, chỉ mặt trong trong câu hát “Anh là Ai?” Rõ ràng là nhà cầm quyền đã phải kiêng nể. Việt Khang không có thế lực, không có dao súng trong tay, chỉ với một cây đàn và những nốt nhạc, đã làm cho cường quyền phải sợ hãi. Dập tắt nỗi sợ hãi này, chúng đã dùng thứ vũ khí muôn đời của mọi chế độ độc tài là cảnh sát, dùi cui, tòa án và cuối cùng là nhà tù. Có một thời đại nào trong lịch sử Việt Nam, tồi tệ và hèn hạ như hôm nay, khi mà một câu hát chống Tàu xâm lược, lại làm cho chính quyền lo sợ, bắt bớ, trù dập tác giả như trường hợp của Việt Khang?
Nhưng nhà tù không bưng bít dập tắt được lời hát yêu nước này, bài hát này đã bay qua những đại dương, những cánh đồng, vượt qua những biên giới để đến trên môi những em thơ, trong lồng ngực của tuổi trẻ yêu nước đang hướng về quê hương, về hình ảnh Việt Khang sau những song sắt của nhà tù.
Báo Nhân Dân Hà Nội đã lên án cho rằng “mục đích hành động của một số người đang nhân danh dân chủ để gây rối loạn xã hội, cản trở sự phát triển đất nước.” Vậy thì nếu có cơ hội, Việt Cộng không ngần ngại đẩy những nhà tranh đấu dân chủ trong nước ra đi, dù là đến một đất nước tự do, giàu sang, không phải chịu cảnh lưu đày, trước là được tiếng nhân đạo, sau là loại bỏ ảnh hưởng của những nhà tranh đấu này ở trong nước.
Việt Khang không phải là nhà tranh đấu dân chủ cho Việt Nam đầu tiên đến Hoa Kỳ, trước đây đã có những nhân vật như Đoàn Viết Hoạt, Đoàn Thanh Liêm, Nguyễn Chí Thiện, Hoàng Minh Chính, Tạ Phong Tần, Trần Khải Thanh Thủy, Mục Sư Nguyễn Công Chính, Cù Huy Hà Vũ, Đỗ Thị Minh Hạnh, Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Nguyễn Chính Kết… Trong này có những người như Đỗ Minh Hạnh được sang Áo thăm mẹ, đi một vòng sang Úc, cuối cùng trở về Việt Nam. Ông Hoàng Minh Chính sang Mỹ chữa bệnh, đã về lại Việt Nam. Trong trường hợp này thì Nguyễn Chính Kết đến Mỹ bằng con đường tự chọn, không phải do CSVN cho phép ra đi.
“Những nhà tranh đấu ra hải ngoại có dễ dàng tranh đấu hiệu quả hơn ở trong nước hay không?” Đó là sự băn khoăn của nhiều người khi nghe tin một người bất đồng chính kiến với nhà cầm quyền trong nước, “bị” hay “được” ra đi. Tôi đã có dịp đặt câu hỏi này với nhà thơ Nguyễn Chí Thiện, nhà thơ này cho rằng, ra hải ngoại việc tranh đấu thuận lợi hơn, nhờ không khí tự do, gần gũi với truyền thông thế giới.
Câu trả lời của một người khác, đã hoạt động trong cộng đồng lâu năm là “không!”
Nhân vật này nêu lý do, trừ một vài trường hợp đặc biệt, như Giáo Sư Đoàn Viết Hoạt và Luật Sư Đoàn Thanh Liêm, dễ hội nhập với đời sống mới, ít lo đến sinh kế, có nhiều mối liên kết với cộng đồng và các nhân vật ngoại quốc. Phần lớn các nhà tranh đấu ra nước ngoài khó hội nhập với đời sống mới, một mặt phải lo cho cuộc sống áo cơm, lo ăn, lo mặc, chịu cảnh nhà thuê, nên một số đành thúc thủ, im hơi lặng tiếng vì “lực bất tòng tâm.”
Đó là chưa nói đến sự đánh phá, vùi dập, bôi xấu của nhiều phe phái, Cộng Sản hay không Cộng Sản, tại hải ngoại hay được yểm trợ từ các thế lực trong nước mà trường hợp của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện là rõ nét nhất. Ông bị vu cáo là “Nguyễn Chí Thiện giả,” “ăn cắp thơ,” thậm chí bọn đánh phá, táng tận lương tâm, đã gắn cho ông cái tội xấu xa, là đã hành nghề “chủ động đĩ!”
Một số khác có thành kiến hiểm độc, kết án các nhà tranh đấu có gốc gác là bộ đội như Điếu Cày, công an như Tạ Phong Tần… là đối lập cuội, khổ nhục kế. Nếu khổ nhục kế mà phải dùng đến cái chết của mẹ già như trường hợp Tạ Phong Tần, thì bọn vu oan, giá họa này đúng là bọn “ngậm máu phun người!” Nói chung không có nhà tranh đấu nào sau một vài năm còn giữ được khí tiết và hoạt động hữu hiệu cho đất nước!
Phải chăng vì vậy mà Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế, một người bất đồng chính kiến tại Việt Nam, đã ba lần bị tù tội, với tổng cộng thời gian trên 20 năm, mặc dầu được quốc ngoại can thiệp cho ra đi, đã chọn con đường ở lại tranh đấu cùng với đồng bào trong nước.
Hải ngoại đã có bao nhiêu bài báo, bao nhiêu cuộc phỏng vấn, bao nhiêu bản nhạc bài thơ, bao nhiêu đêm thắp nến cho những nhà tranh đấu, nhưng chúng ta đã tiếp đón những người này với thái độ như thế nào, khi họ ra hải ngoại, được hít thở bầu không khí tự do như chúng ta?
Thay vì một vòng hoa tri ân, chúng ta gửi đến họ những quả trứng thối!
Nhiều người cho rằng việc đánh phá những người tranh đấu từ trong nước khi ra hải ngoại là chủ trương của Cộng Sản, nhưng tham gia công việc “giết người chẳng lọ gươm dao” này hôm nay lại là những người thường vỗ ngực cho mình là người chống Cộng ở hải ngoại.
Đó là hình ảnh một miếng thịt tươi được vứt xuống một hầm cá sấu, và chính quyền cộng sản trong nước luôn luôn tìm cách đẩy họ ra khỏi nước để nhờ tay người khác giết họ để khỏi bị mang tiếng là đao phủ thủ! (ngưng trích)
Trái lại, mỗi khi có một “người tù lương tâm” bị CSVN “đẩy ra khỏi nước” thì dưới mắt một số người chống cộng ở hải ngoại lại coi đó như là một “chiến thắng” của người Việt Quốc gia để tổ chức đón rước tưng bừng.
Thật ra, những người ở trong nước đã can đảm đứng lên, tranh đấu cho tự do, nhân quyền của mọi người dân Việt Nam, bất chấp đàn áp, tù tội, là những con người đáng khâm phục, những anh hùng dân tộc, xứng đáng được đón rước long trọng. Những người ấy đã bị cái chế độ mà LS Nguyễn Văn Đài gọi là “chế độ khốn nạn” kết tội “phản động, âm mưu lật đổ chính quyền”, những tội mà “giải pháp” trong những năm đầu cướp được chính quyền của “cách mạng” là thủ tiêu, bắn bỏ, chặt đầu, mổ bụng, chôn sống. Lịch sử đã để lại không thiếu bằng chứng mà con số nạn nhân “khiêm tốn” của CSVN được ước tính là vào khoảng một triệu người, trong số hơn một trăm triệu nạn nhận của Mác-Lê trên toàn thế giới.
Ngày nay thời thế đã đổi thay, nhưng bản chất của cái “chế độ khốn nạn” ấy không hề thay đổi.
Sẽ là một ảo tưởng lớn nếu nghĩ rằng vì áp lực từ bên ngoài mà CSVN đã phải nhượng bộ, trả tự do cho những “người tù lương tâm” và cho họ ra nước ngoài.
Cũng sẽ là một ảo tưởng rất lớn nếu nghĩ rằng ra hải ngoại việc tranh đấu của các “cựu tù nhân lương tâm” sẽ thuận lợi hơn khi ở trong nước.
Muốn tranh đấu thành công, cần phải “giải ảo”.
Ký Thiệt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét