Học xong trung học, tôi thi vào Đại Học Sư Phạm ban Anh Văn. Trong thời
gian là sinh viên tôi còn làm việc cho số 3 Bạch Đằng. Đó là cách nói gọn của phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo Việt Nam Cộng
Hòa.
Tôi làm tình báo vì có máu phiêu lưu, thích chuyện mạo hiểm, sau nầy lại thêm
mối thù việt cộng giết cha tôi. Ông già
tôi là chủ một nhà máy xay lúa nhỏ ở vùng quê tỉnh Bạc Liêu.
<!->
Vì là vùng mất
an ninh nên phải đóng thuế cho việt cộng, ấy vậy mà cũng bị chúng nửa khuya đến
gõ cửa đem ra đồng bắn bỏ. Cả mấy năm
sau, tôi cố tâm điều tra mới biết rõ thủ phạm là một tên nằm vùng trong xóm,
chỉ vì một xích mích nhỏ, hắn dẫn đồng bọn về giết người.
Dĩ nhiên tôi trả thù.
Sau khi tốt nghiệp sư phạm, trong lúc chờ sự vụ lệnh, tôi lẻn về nhà trốn
trong phòng không cho hàng xóm biết, đến khuya
tôi đến nhà hắn, nằm sau hè chờ. Ở thôn quê không có phòng vệ sinh
trong nhà, khi cần thì ra sau vườn.
Qua đêm thứ hai hắn mở cửa ra đi tiểu, tôi chĩa súng vào lưng hắn.
- Đồng chí ra ngoài kia trả lời trước tổ chức về vài việc cần gấp.
Hắn sinh nghi định phản ứng, tôi giáng cho một bá súng vào đầu, hắn bất tỉnh, tôi cột chân tay hắn, cõng trên lưng, ì ạch băng đồng ra chỗ bọn chúng giết
cha tôi.
Tôi khai thác tận tình cho đến khi hắn
thú nhận tội giết cha tôi, lúc đó tôi mới cho hắn biết sự thật.
Hắn van lạy, nhưng vô ích, hình ảnh cha tôi chết oan ức, mắt vẫn mở trừng
trừng khiến tôi sôi gan. Sau đó gia đình tôi bán nhà máy xay lúa, bán nhà lên
Sài Gòn ở.
Tốt nghiệp xong tôi được điều đi các tỉnh dạy học. Sau mỗi công tác
tình báo dù thành công hay thất bại tôi lại chuyển qua tỉnh khác.
Câu chuyện bắt đâu khi tôi được giao cho việc theo dõi một cô thợ may ở ngoại ô một thành phố
ven biển miền trung.
Nguyên nhân là thỉnh thoảng lại có truyền đơn rải vào buổi sáng trên
con đường vào thị xã. Đây là con đường mà đa số nông dân thường đem nông sản
vào chợ bán.
Họ chở bằng xe đạp, xe lăm hay xe bò. Sáng sớm nào cũng có cảnh sát
rình ở đó nhưng chẳng thấy ai đáng tình nghi cả.
Sau phải cho người nằm sát lề đường mới khám phá ra một cô gái đi xe đạp
chở rau muống phía sau, dưới chân chỗ bàn đạp để
mớ truyền đơn, cứ dỡ nhẹ chân là truyền đơn rơi xuống đường khó mà thấy được
nhất là ở quãng đường tối.
Qua điều tra đây là cô thợ may nhà ở vùng ngoại ô, sát địa giới thành phố.
Sau nhà là một vạt ruộng nhỏ trồng rau muống, mỗi sáng cô chở rau vào
chợ bán sỉ cho bạn hàng rồi về ngay.
Cô sống với một mẹ già hơn sáu mươi tuổi. Gọi là tiệm chứ thực sự là một
bàn máy may phía trước, cách một tấm vách cót là giường ngủ của hai mẹ con vừa
làm chỗ thử áo quần. Gia đình nầy mới từ một quận
miền núi về hơn một năm nay. Theo báo cáo, trước đó cô là nữ sinh
trung học, sau theo nghề may.
Tiệm của cô khá đông khách vì cô hiền lành, vui vẻ lại lấy công rất rẻ,
có lẽ đây là trạm giao liên hơn là cơ sở kinh tài của địch.
Nhiệm vụ của tôi là tìm cách tiếp cận cô để theo dõi. Tôi sẽ đóng vai một kẻ si tình cô, gặp gỡ cô mà bọn chúng không
thể nghi ngờ, hoặc tốt hơn nữa sẽ được móc nối làm việc cho chúng.
Một buổi sáng chủ nhật tôi chạy xe gắn máy gần đến nhà cô thì xe chết
máy phải dừng lại sửa.
Tôi vào tiệm xin cô miếng giẻ rồi loay hoay mở máy ra chùi, thay bu
gi, tháo bình xăng con... toát mồ hôi mà xe vẫn không nổ.
Tôi xin cô miếng nước uống và ngồi trước hiên nhà cô hỏi vài câu vơ vẩn
rồi dẫn xe về.
Qua hôm sau tôi đem một xấp vải đến nhờ cô may cho một áo sơ mi. Lần nầy tôi
được cô mời vào nhà vì tôi là khách.
Thế rồi, thỉnh thoảng tôi lại nhờ cô may một thứ gì đó và tôi ngập ngừng
nói là tôi làm thế để được dịp gặp cô, không gặp
tôi nhớ.
Cô có vẻ bất ngờ, nhưng yên lặng. Những lần sau cô lại càng giữ ý,
nhưng tôi bắt gặp trên đôi mắt cô mỗi khi thấy tôi, long lanh niềm vui. Trong lúc trò chuyện tôi
cho cô biết về gia đình tôi rằng ông già tôi tham gia mặt trận bị quân đội Quốc Gia hành quân bắn chết.
Thỉnh thoảng tôi đi chùa nghe thuyết pháp hoặc tham gia mít ting, tôi
phát ngôn bừa bãi ra người bất mãn chế độ.
Sau một thời gian lạnh lùng, giữ kẽ, cô có vẻ thân thiện, vui vẻ hơn.
Kẻ thù trong bóng tối đang kéo dần con mồi về phía chúng, tôi biết mình đã được để ý, nhưng chỉ đến đấy thì hầu
như bế tắc, tôi không biết được những gì chúng tôi cần.
Một sáng chủ nhật, như thường lệ tôi đến thăm cô, nhưng đến nơi chỉ thấy
một đống tro tàn đang bốc khói. Thì ra, không hiểu vì sao lúc khuya lửa bắt
cháy, hai mẹ con chỉ kịp chạy thoát thân. Tôi khuyên nhủ nhưng cô vẫn lắc đầu
lo lắng.
- Tiền mua bàn máy may, mua miếng đất em trả chưa hết nợ, còn quần áo của
khách nữa, họ nói bao nhiêu phải cố mà trả. Nhưng em còn đồng nào đâu!
Tôi hứa với cô là sẽ hết lòng tìm cách giúp đỡ.
Thế rồi tôi về bán chiếc xe gắn máy. Nhờ bà con chung quanh phụ giúp nhặt nhạnh
những miếng tôle còn xài được, mua ít vật liệu, dựng lại căn nhà mới cũng
khang trang, ngoài ra còn mua được một bàn máy may mới nữa. Chỉ trong một tuần
tôi lo toan cho cô chu toàn.
Từ đấy thái đọ của cô đối với tôi thay đổi hẳn. Chúng tôi thường đưa nhau đi xem hát, ăn quà rong, đôi khi cô
đến nhà trọ thăm tôi nữa.
Mỗi khi đi với nhau cô thường chải chuốt, thoa chút phấn hồng trên má,
trông cô đẹp hẳn ra, như lột xác từ một cô thợ may lọ lem thành một nàng
tiên, nhưng đối với tôi, đi bên cô, nhất là những chỗ vắng, tôi có cảm giác rờn
rợn, tưởng như mình đang đứng trước đỉnh đầu ruồi của một họng súng nào đó
trong bóng tối.
Vì nghề nghiệp, lúc nào tôi cũng cảnh giác, ngụy trang, dọ dẫm tìm một
chỗ an toàn phía sau lưng.
Một lần cô ghé nhà trọ thăm tôi, có một bà hàng xóm biết cô là thợ may đến
năn nỉ cho con gái học nghề may.
Cô là học sinh thi hỏng tú tài, muốn theo nghề may để phụ giúp gia
đình.
Nghe tôi nói thêm vào cô ta có vẻ bằng lòng nhưng hẹn ít hôm nữa mới
trả lời, có lẽ chờ quyết định của tên đầu sỏ, chỉ
huy cô.
Tuần sau cô đồng ý nhận học trò. Được độ ba tháng nhờ sáng ý, cô bé học
nghề khá tiến bộ. Tiệm may cũng đông khách hơn trước.
Một hôm tôi gọi riêng cô bé hàng xóm qua nói chuyện.
- Em học nghề may với chị Lan đến đâu rồi?
- Em cắt chưa vững nhưng may thì khá lắm, khách nào cũng khen đường chỉ em thẳng,
mịn và đẹp.
- Có lẽ cần một máy may nữa mới phụ chị Lan kịp giao hàng cho khách.
- Em cũng nghĩ vậy nhưng không có tiền.
Tôi tâm sự với cô học trò.
- Như em biết, thầy và chị Lan yêu nhau, dự định
sẽ làm đám cưới, nhưng thầy còn ngại hình như chị Lan đang yêu ai nên
thầy nhờ em giúp thầy tìm hiểu chị Lan xem có
ai đến thân mật chuyện trò với chị ấy không?
Em sẽ chẳng làm gì cho chị ấy nghi ngờ. Thầy có cái máy nầy, sẽ giấu
dưới xách tay của em, khi đến nơi, em chỉ cần mắc xách tay sau lưng chỗ ngồi
của em sát vách với phòng thử áo quần.
Chỉ thế thôi, đừng cho bất cứ ai biết chuyện nầy. Nếu chị Lan hay ai bắt
gặp cứ bảo rằng đó là máy thu thanh, thầy
sẽ chỉ em cách mở nghe đài phát thanh.
Em cũng đừng cho chị ấy biết là thầy cho em mượn tiền mua máy may, sợ
chị nghi ngờ, ghen tuông phiền phức.
Thế là chúng tôi nghe rõ những trao đổi,
bàn bạc với nhau của bọn chúng trong
phòng thử quần áo. Một bộ phận khác rình
thu hình những khách hàng khả
nghi và tiến hành điều tra.
Chúng tôi gần như nắm vững tất cả những tên nằm vùng, cơ sở kinh tài,
nơi chứa chấp những tên xâm nhập nữa, nhưng tên
đầu sỏ vẫn chưa tìm ra!?
Trong nghề nầy, một chút sơ ý là chết. Như cô thợ may, bị chúng tôi theo dõi
mà không hay biết.
Cô với tôi như hai tay nhu đạo đang lừa nhau để vật đối thủ xuống, cô
đã bị thất thế hoàn toàn, nhưng tôi chưa ra tay và chờ cô ra đòn.
Có thể cô làm bộ chuyện trò, hỏi han để tìm hiểu tôi hoặc rủ tôi một
chiều nào đó ra vùng quê hóng gió tâm sự...
Nhưng tuyệt nhiên chuyện đó không xảy ra. Cô lúc nào cũng ít nói, dịu
dàng, nhưng như thế lại càng làm tôi e ngại và thấy
cô rất bản lĩnh, rất nguy hiểm.
Đi bên cô tôi cố làm vẻ sung sướng, hạnh phúc nhưng thật sự tôi có cảm
tưởng cô như con rắn độc, chỉ một tích tắc cô hành động là đời tôi tàn ngay.
Mạng tôi đổi mạng cô thì không xứng. Thế nên tôi chẳng hứng thú gì
trong vai trò nầy cả.
Tôi được lịnh phải tiến xa hơn tức là phải
chung đụng xác thịt để giữ chặt con mồi, nhưng tôi không làm được. Dù
cô có yêu tôi thực hay giả vờ tôi cũng quyết không đụng chạm đến nơi thiêng
liêng đó của người con gái. Đó là nhuoc điểm của một tên tình báo non tay nghề như tôi.
Mùa hè năm đó, đối phương lên phương án tấn công tỉnh. Mẻ lưới được tung ra.
Chúng tôi dự định hành quân vào lúc khuya.
Buổi chiều cô bé học may về báo cho tôi biết là lúc trưa có một ông sư khất thực đến trước nhà, cô Lan
ra cúng dường, ông sư lầm thầm tụng kinh chúc phúc như mọi khi, nhưng lúc
quay vào, thấy mặt cô tái mét, người cứ run lên
bần bật...
Chúng tôi đề nghị cảnh sát hành quân sớm
hơn dự định. Thế là cả bọn bị tóm, kể
cả chính tôi cũng bị cảnh sát đến gõ cửa, còng tay, đẩy lên xe
cây.
Thường thì sau khi vở kịch đã hạ màn như thế, tôi thảnh thơi nghỉ ngơi rồi nhận
công tác mới.
Nhưng không hiểu sao hình ảnh cô ta vẫn nguyên vẹn trong đầu tôi.
Khi cô bị bắt, bị giam giữ, lòng trắc ẩn của tôi lại nổi lên. Đàn bà,
con gái, trẻ con không có chỗ trong chiến tranh, họ phải được ở hậu phương,
phải được thường xuyên che chở, bảo vệ. Một cô gái vô ý vấp ngã thấy đã động
lòng rồi, huống gì cô thợ may hiền lành, dịu dàng kia đang bị nhốt trong nhà
giam sau những song sắt như một con thú đã bị săn bắt, chờ ngày bị đem xẻ thịt.
Tôi đã nhiều lần bí mật nhìn cô ủ rũ ngồi ở một góc phòng giam, héo úa như
không có linh hồn, không còn cảm giác, suy nghĩ gì.
Tương lai là chết rũ trong tù, tình yêu, hy vọng của tuổi thanh xuân
coi như đã chấm hết.
Đối với cô, tôi thấy thật bất nhẫn, lừa gạt một cô gái dù cô ta được
điều khiển từ trong bóng tối. Và khi cảm tưởng cô không còn là kẻ thù của tôi
nữa, sự cảnh giác đã được gạt bỏ, như bụi bặm trên một bức tranh đã được chùi
sạch, để lộ ra hình ảnh trong sáng, dịu dàng của cô trong tâm trí tôi.
Thế nên tôi đề nghị thả cô ra để cho những
con mồi khác đến móc nối lại với cô.
Từ phòng giam, tôi lại được gọi lên để đối chất về sự liên hệ giữa tôi
và cô.
Chúng tôi xác nhận có yêu nhau nhưng chẳng biết gì về việt cộng cả và
anh cảnh sát thẩm vấn (vờ) tin ngay là thật, anh hứa sẽ thả chúng tôi ra và anh csat bỏ đi làm giấy tờ.
Tôi đến ngồi gần cô cầm lấy tay cô, cô ngước nhìn tôi và lắc đầu, có lẽ cô cho rằng lời anh thẩm
vấn viên chỉ là cái bẫy, nhưng tôi cố tình cho cô hiểu tôi là người có thẩm
quyền, tôi cứu cô ra vì tôi yêu cô.
- Như em đã nghe lúc nãy, anh xin bảo lãnh em và chịu trách nhiệm liên đới về
những hành động của em sau nầy.
Nếu em thương yêu anh thực lòng thì em hãy lánh xa những gì có thể gây
nguy hiểm cho em.
Em còn mẹ già phải nuôi dưỡng, rồi em sẽ lập gia đình, có con cái, sống
hạnh phúc như bao người bình thường khác.
Đừng dại dột nữa, không phải anh sợ bị vạ lây nhưng nếu em gặp chuyện
không may anh sẽ đau khổ lắm.
Anh sẽ thu xếp cho em và mẹ em vào Sài Gòn sống lẫn trong đồng bào thì
sẽ không có ai quấy rầy em nữa.
Chúng mình sẽ làm đám hỏi và khi nào anh vận động xin về dạy gần Sài
Gòn sẽ làm đám cưới.
Cô cúi đầu yên lặng nghe, rồi cô nắm tay tôi đặt lên đùi cô, siết nhẹ. Một giọt
nước mắt rơi trên tay tôi. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Cô đã hiểu ý tôi. Cô viết
cho mẹ cô một lá thư, dặn bán nhà để chuẩn bị về quê, chỉ giữ lại bàn máy
may.
Sau đó chúng tôi lặng lẽ về Sài Gòn.
Nhờ bạn bè giúp đỡ, tôi tìm mua được một căn nhà nhỏ ở chợ Cây Quéo, góc đường
Hoàng Hoa Thám, Ngô Tùng Châu Gia Định. Dĩ nhiên việc theo dõi cô không phải đã chấm dứt.
Công tác của chúng tôi thường được tình báo Mỹ yểm trợ.
Người Mỹ rất hào phóng nhưng cũng rất nguyên tắc, họ đã vui vẻ trả lại
tiền cho tôi mua lại chiếc xe gắn máy, trả cả những chi phí lặt vặt như đưa
cô đi xem hát, ăn quà rong.
Nhưng sau cuộc hành quân, hồ sơ coi như đã đóng. Lần nầy tôi lại bán
xe, vay mượn thêm để lo cho cô mà không biết khi nào mới có tiền mua lại xe
khác.
Suốt mấy tháng hè, tôi về Sài Gòn với gia đình. Buổi chiều tôi thường ghé
thăm cô, có khi tôi ăn cơm tối với gia đình cô.
Sau bữa ăn, bà mẹ dọn dẹp chén đĩa, còn cô thì xin phép đi tắm. Chợ
Cây Quéo nằm trong một đường hẻm, sau khi tan chợ chiều, trở thành vắng lặng
như ở một vùng quê
Sau nhà cô có một sân vuông nhỏ, rào kín chung quanh, tôi thích ra đấy
ngồi xuống một ghế gỗ dài để chờ cô. Cô có thói quen là sau khi tắm cô không
mặc nịt ngực, nên qua lần vải mỏng, đồi ngực cô thẳng đứng lên, lồ lộ như hai
mụt măng tre vừa chồi lên khỏi mặt đất.
Cô ngồi cạnh tôi, nghiêng đầu dùng khăn vò mái tóc cho khô, chải nhẹ
cho tóc thẳng, xong cô ngửa người vuốt mái tóc về sau lưng, rồi cô nhìn tôi mỉm
cười.
Tôi yên lặng ngắm cô, tưởng như thấy rõ làn da mịn màng, thơm tho của
thân thể cô... Sau đó chúng tôi có một thứ quà rong như chè hay trái cây để vừa
ăn vừa chuyện trò đến khuya mới chia tay.
Sau kỳ nghỉ hè tôi được chuyển ra Huế dạy học, tôi viết cho cô một lá
thư dài và hẹn Tết sẽ về xin làm đám hỏi.
Tính cô ít nói, ngay cả thư trả lời chỉ vỏn vẹn mấy câu "Được thư
anh, em khóc mấy hôm nay vì vui mừng. Cám ơn anh đã hiểu em và lời hứa của
anh lần nầy em tin là thật, bằng trái tim và cả cuộc đời em"
Khoảng cuối năm đó tôi xin phép về Sài Gòn, khi đến nhà cô tôi ngạc
nhiên thấy nhà đã sửa sang lại tươm tất. Cô dẫn tôi ra phía sau khoe một căn
phòng vừa mới được xây thêm.
- Mẹ ngủ phòng ngoài kia, em ngủ trong nầy.
- Còn anh thì nằm dưới đất?!
Cô đỏ mặt nhưng sung sướng.
- Anh với em phòng nầy chứ.
Lễ hỏi chúng tôi diễn ra đơn giản, kín đáo. Gia đình tôi cứ tưởng tôi sẽ lập
gia đình với một cô nữ sinh nào đó, không ngờ là một cô thợ may. Chẳng phải họ
kỳ thị hay giai cấp gì mà theo lệ thường, thầy
giáo rất dễ chọn vợ đẹp trong trường mình dạy.
Nhưng khi gặp lần đầu, mọi người đều thích cô ngay. Cô vừa hiền vừa đẹp
một cách thùy mị.
Mẹ tôi cứ mẹ mẹ con con với cô ngọt xớt, các cô em gái tôi thì tíu tít
hỏi han, trò chuyện rất thân mật khiến cô bối rối, vụng về vì cảm động.
Từ đó gần như ngày nào tôi cũng đến nhà cô, đôi khi ngủ lại nữa, nhưng
chúng tôi đã hứa với nhau phải giữ gìn, để dành cho ngày hôn lễ.
Cô có những suy nghĩ lẩm cẩm rất đàn bà. Cô thêu những áo gối có hình
quả tim, tên tôi và tên cô lồng vào nhau, hình đôi chim đang bay, rồi cô phân
vân về tên của những đứa con trong tương lai. Tôi chế giễu thì cô giận, nhưng
thâm tâm cô rất vui sướng với giấc mơ đơn giản đó.
Tôi bàn với cô vài tháng nữa sẽ làm đám cưới, nhưng rồi đầu năm 1975 miền Nam
bắt đầu sụp đổ từng mảng, tất cả tan rã như bọt nước.
Người ta ùn ùn chạy về phía Nam, tôi phải nấn ná lo tiêu hủy hồ sơ, phân tán mạng lưới nên vào đến
Đà Nẳng lại đành quay về Huế vì miền Trung đã rơi vào tay đối phương rồi. Kẻ
thù hình như chưa biết gì về tôi cả ngoài cái vỏ bọc thầy giáo trung học. VC
bắt đầu gọi các cô thầy đến khai lý lịch và như đang sắp xếp mở cửa các trường
học.
Thế rồi khoảng cuối tháng năm, năm bảy lăm, nửa khuya, chúng đến vây
nhà trọ, gõ cửa, còng tay tôi dẫn ra xe.
Thoạt nhìn, ngoài chiếc xe cảnh sát chở đầy bộ đội tôi còn thấy một xe mang số ẩn tế Sài Gòn, tôi biết
ngay bọn chúng đã tìm ra chính xác tông tích tôi. Nhưng tại sao trung ương lại
không hủy hồ sơ?
Ngồi kèm tôi là hai tên bộ đội còn trẻ mang súng AK. Phía trước, bên cạnh
tài xế là một người đàn bà. Xe chạy ra khỏi cửa Thượng Tứ, qua cầu Trường Tiền
đến đường Duy Tân, chiếc xe chạy trước quẹo vào ty cảnh sát (cũ), còn xe chở
tôi chạy thẳng, hướng về quốc lộ. Tôi đoán chúng đưa tôi về Sài Gòn khai
thác. Tôi dự định thoát thân, nhưng đến gần phía Nam tôi mới hành động.
Nghĩ thế nên tôi buông thả, thiu thiu ngủ dưỡng sức.
Dọc đường xe phải ngừng ở các nút chặn, tên tài xế cũng là bộ đội trình giấy
và nói gì đấy, ánh đèn loang loáng vào xe, rồi xe lại tiếp tục. Đến Quảng
Ngãi trời đã rạng sáng, tôi lơ mơ mở mắt nhìn quanh. Bỗng tôi lạnh người khi
nhận ra người đàn bà ngồi phía trước là cô thợ may, vợ sắp cưới của tôi.
Hóa ra chúng tôi đã lầm trong điệp vụ vừa kể, tên đầu sỏ là cô ta chứ không phải gã thầy tu khất thực.
Tôi cay đắng cười thầm mình thua trí một người đàn bà, cô đã ngụy
trang một cách tài tình, không chỉ đánh lừa chúng tôi mà còn đánh lừa cả đến lũ chân tay của cô.
Nhớ lại những ngày chúng tôi bên nhau, tôi sượng sùng, xấu hổ với cô.
Cô đã đóng một vai kịch rất xuất sắc, rất bản lĩnh, tôi vẫn chỉ là một con mồi
ngây thơ.
Ấy vậy mà tôi cứ tưởng tình yêu chân thành của tôi đã cảm hóa được cô.
Giờ đây cô ngồi đó, lạnh như tiền. Cô đang nghĩ gì về tôi, một tên điệp viên
hạng bét, ngây ngô, lãng mạng tiểu tư sản?
Xe đến Bình Định, ghé vào một quán cơm bên đường, tôi được tên bộ đội mở còng
nhưng dặn "Cần gì nói tôi,giữ khoảng cách năm bước,
đến gần hay xa hơn, sẽ bị bắn bỏ"
Tôi được dẫn vào ngồi một bàn ở một góc quán, mấy tên bộ đội ngồi hai
bên, còn cô ta thì ngồi riêng.
Sau bữa ăn, lúc trả tiền cô lôi ra một xấp
bạc mới tinh, rút vài tờ vất đấy, đứng dậy, không lấy tiền thối.
Tôi cố tỏ ra sợ sệt và ngoan ngoãn để chúng tin, hi vọng đến chiều tối nếu
cũng ăn uống như thế nầy tôi sẽ bỏ chạy rất dễ dàng và bóng đêm sẽ che chở
cho tôi.
Nhưng tôi đã lầm, xe chạy suốt đến sáng, đến ngã ba Hàng Xanh theo đường
Bạch Đằng, rồi Chi Lăng, Ngô Tùng Châu và vào hẽm chợ Cây Quéo.
Cô vào nhà một lúc lâu mới đi ra với bà mẹ.
Hai mẹ con ngồi phía trước, xe lại tiếp tục trở ra xa lộ đến Biên Hòa quẹo hướng
Vũng Tàu.
Tôi đoán chúng sẽ truy tôi về công tác ở Vũng Tàu, Long Hải trước đây
hoặc giao cho lũ nằm vùng, nội tuyến đã bị tôi đưa đi tù, và chúng sẽ mặc sức
trả thù.
Đến Vũng Tàu, ghé mua mấy ổ bánh mì thịt, xe vào một khách sạn hạng
trung bình. Sau khi ăn uống, làm vệ sinh, tôi lại bị còng tay cho vào phòng
riêng, phía ngoài là hai tên bộ đội canh cửa.
Tôi nghe cô ta dặn hai tên gác là phải cảnh giác cao độ với tên địch
nguy hiểm đó (là tôi), và cô đến ủy ban quân quản có chuyện cần, sẽ về ngay.
Tôi mệt mỏi lăn ra ngủ một giấc lấy sức, dự định tối nay leo cửa sổ trốn
đi. Cái còng không thành vấn đề, một cọng thép
nhỏ là xong, và cọng thép đó đang nằm
trong sợi dây đồng hồ mà tôi đã có được lúc tôi đòi đi tiểu ở
hàng cơm ở Bình Định.
Nhưng đến gần tối, sau khi được ăn một ổ bánh mì nữa, chúng lại còng cả
chân tôi vào giường và hai tên bộ đội ngồi ngay trong phòng tôi, thay phiên
nhau lõ đôi mắt cú vọ canh chừng tôi.
Thế là hết đường trốn thoát! Nhớ lại thời gian hứa hôn chúng tôi sống
bên nhau, cô đã dần dần hiểu tôi, trong sự săn sóc cô đón ý tôi rất tài.
Lúc đó tôi sung sướng nghĩ rằng mình có được cô vợ toàn tâm toàn ý,
bây giờ chính cái toàn tâm toàn ý kia lại hại tôi.
Cô đã thấy được không sai chạy những gì tôi nghĩ trong đầu, dù chỉ vừa
thoáng qua là cô đề phòng ngay.
Tối đó độ hơn mười giờ, tôi được dẫn ra xe, vẫn đủ sáu người như trước. Xe chạy
loanh quanh trong thành phố một lúc rồi hướng ra Bãi Sau.
Trời đêm đầy mây, lạnh kinh khủng, miền Nam chưa bao giờ lạnh
như năm đó, đường vắng tanh, lờ mờ ánh đèn, tiếng sóng vỗ rì rào, buồn bã. Xe
chạy đến cuối bãi thì dừng lại. Cô ra lịnh bịt mắt tôi lại.
- Đồng chí đưa tôi khẩu AK. Cứ ở đây chờ, khi nào nghe tiếng súng nổ tôi sẽ
ra.
Và cô nói với bà mẹ, giọng lạnh lẽo, hàm răng rít lại.
- Mẹ phải theo con, xem con trả thù kẻ đã giết hại
gia đình mình và bao nhiêu đồng chí khác nữa.
Đúng là oan oan tương báo. Tôi đã xử tội tên nằm vùng giết cha tôi ra sao,
bây giờ tôi sẽ gặp y như vậy.
Nhưng tôi không nhớ rõ mình đã làm gì để cô thù hận tôi đến độ giờ đây
đem ra xử bắn tôi, không lẽ cô là con của tên nằm vùng kia?!
Cô lên đạn, chĩa súng vào lưng tôi, đẩy tôi đi trước. Cô đã phạm một sai
lầm chết người. Cô dí súng vào lưng tôi là giúp tôi nắm được quãng cách giữa
cô và tôi.
Tầm vóc cô thì tôi còn lạ gì. Chỉ cần tôi
quay nhanh lại là mũi súng sẽ chệch ra ngoài và với một đòn chân,
tôi có thể đá gãy cổ cô hay ít ra
cũng hạ gục cô trong tích tắc.
Trong bóng tối thì bị bịt mắt hay không cũng mù như nhau.
Tôi lần tìm cọng thép trong dây đồng hồ và bắt đầu mở khóa còng tay.
Được một quãng, khi đoán đã xa tầm nghe ngóng của mấy tên bộ đội, tôi vừa định
ra đòn thì cô mở băng bịt mắt tôi.
- Anh cõng mẹ được không? Nhanh lên! Nếu có chuyện gì, anh và mẹ cứ chạy
thoát đừng lo cho em.
Có thuyền chờ sẵn đằng kia.
Cô ôm súng chạy phía trước, tôi cõng bà cụ men theo bờ rừng dương liễu mải miết
theo cô. Độ một cây số, chúng tôi đến một thuyền nhỏ có người chờ sẵn. Thuyền
được đẩy ra, nổ máy và nửa giờ sau chúng tôi ra thuyền lớn đi thẳng.
Hôm sau chúng tôi được tàu Mỹ vớt về đảo Guam.
PHẠM THÀNH CHÂU
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét