Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Bảy, 4 tháng 10, 2014

Tình người trong những ngày cuối cuộc chiến Việt Nam
Tuesday, September 30, 2014 

WESTMINSTER (NV) - Chiếc trực thăng trên một chiến hạm bị đẩy xuống biển. Một dòng người bất tận chờ leo lên một máy bay trực thăng của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đã đầy ắp người trên một sân thượng. Ðám đông xô đẩy nhau tìm cách trèo qua tường để vào Tòa Ðại Sứ Mỹ. Người tị nạn chồng chất lên nhau như cá mòi trên những con tàu lênh đênh trên biển. Ðó là những hình ảnh người ta thường nghĩ đến khi nhắc đến kết cục của chiến tranh Việt Nam. 


alt

Poster phim tài liệu “Last Days in Vietnam” do Rory Kennedy đạo diễn. (Hình: ww.lastdaysinvietnam.com)



Ðã 40 năm, cuộc chiến đã là câu chuyện của quá khứ, những tưởng chẳng ai nghĩ còn điều gì để nói.

Thế nhưng khi đạo diễn Rory Kennedy, “nữ hoàng” của phim tài liệu, với hơn 30 cuốn phim, và từng đoạt giải Emmy về loại phim này, tìm hiểu về cuộc chiến này, thì kết quả là “Last Days in Vietnam,” một cuốn phim vừa trình chiếu đã nhận được biết bao nhiêu lời khen ngợi của mọi nơi, mọi giới.

Nói chuyện với phóng viên nhật báo Người Việt qua điện thoại, ông Mark Bailey, chồng của đạo diễn Rory Kennedy, cũng là người viết kịch bản cho phim “Last Days in Vietnam,” kể, “Ý tưởng làm cuốn phim này đến từ ông Mark Samels, người điều hành của chương trình lịch sử nổi tiếng “American Experience” của PBS (Public Broadcasting Service). 

Cách đây hơn một năm, ông Samels tìm đến Rory và đề nghị nhà tôi làm một phim về cuộc chiến Việt Nam. Thoạt đầu họ e ngại đã có quá nhiều tài liệu và phim ảnh nói về cuộc chiến này, và sợ không tìm được gì mới để nói, nhưng sau khi tìm hiểu kỹ lưỡng về những ngày cuối Tháng Tư, 1975, thì Rory khám phá ra nhiều điều ít ai biết, và điều này làm nhà tôi hứng khởi. Và thế là chúng tôi bắt tay vào việc.”

Người viết kịch bản sát cánh với Mark Bailey, ông Keven McAlester, thì chia sẻ, “Ðiều mà Rory thích làm là kể những câu chuyện về con người, tập trung vào con người và những nhân vật tham dự trong sự kiện bà muốn tường trình. Cách thực hiện phim (tài liệu) của Rory, ngay từ đầu đã được định hướng là phải để cho các nhân vật kể chuyện của họ.”

Trong khi đó, đạo diễn Rory Kennedy thổ lộ với Người Việt, càng tìm hiểu, bà càng ngạc nhiên khi biết được “những câu chuyện rất cảm động, đầy tình người mà rất ít ai biết đến,” và thấy là “những điều này cần phải được ghi lại.” 

Hơn một năm sau, “Last Days in Vietnam” ra đời.

Ôn lại quá khứ

Căng thẳng, bi thương, nhưng cũng hào hùng và đầy cảm hứng, cuốn phim tài liệu của đạo diễn Rory Kennedy không xét xem sự tham gia của Hoa Kỳ vào cuộc chiến Việt Nam đúng hay sai, mà kể lại tỉ mỉ cuộc di tản hoảng loạn của người dân Việt Nam vào những ngày cuối Tháng Tư, khi ngày thất thủ của miền Nam Việt Nam đã gần kề. 


alt

Trên boong tàu của USS Kirk, các thủy thủ ra dấu cho chiếc trực thăng Chinook thả người xuống tàu. (Hình: Hugh Doyle)

Bằng cách pha trộn những khúc phim tài liệu sống động, nhiều chi tiết chưa từng được phổ biến, phối hợp với hồi ức của những người Mỹ và Việt Nam từng có mặt ở Sài Gòn những ngày cuối cùng, đạo diễn Rory vẽ nên một bức tranh tình người sống động, giữa những người Việt đang tìm cách ra đi, và người Mỹ tìm cách giúp họ lánh nạn. 

Hãy cùng nhau bước chân vào một rạp Edward Theaters ở Irvine, hiện đang chiếu “Last Days in Vietnam” cho đến hết ngày 2 Tháng Mười. 

Khán giả ở đây gồm nhiều thành phần. Ða số, không ít thì nhiều, dính dáng đến Việt Nam hay cuộc chiến Việt Nam. Có những cựu chiến binh Việt Nam, trông đã lớn tuổi lắm, và cũng có những người trẻ tò mò đi xem vì “có bạn là người Việt Nam.” Trong số khán giả gốc Việt, có những gia đình cả ba thế hệ cùng dẫn nhau đi xem.

“Có phải hồi đó bố mẹ đi từ chỗ này không?” 

Khi cảnh một số người tìm cách đưa nhau lên những chiếc tàu của Hải Quân Việt Nam bên bến Bạch Ðằng trong một đêm tối trời vừa hiện lên màn ảnh, một cậu bé trẻ tuổi thì thầm hỏi người đàn bà ngồi cạnh.

Người đàn bà lặng yên, xiết tay cậu bé, gật đầu xác nhận, mắt không rời màn hình.

Trước đó, hình ảnh của những cuộc pháo kích dữ dội nhắm vào phi trường Tân Sơn Nhất sáng sớm 29 Tháng Tư, 1975, khiến bà và nhiều người khác âm thầm nhỏ lệ. Cùng lúc, một cuốn phim khác, lồng lộng ký ức tưởng đã ngủ yên, cũng đang kéo họ vượt thời gian trở về với những ngày cuối cùng ấy. 
Quang cảnh trên màn ảnh lúc rõ mồn một, lúc nhạt nhòa cũ kỹ, như biến cố xảy ra đã 40 năm. 

Màn hình lại có cảnh nhiều người với những đôi mắt thất thần, đang chen chúc nhau cố gắng trèo lên, vượt qua hàng rào kẽm gai để lọt vào khuôn viên tòa Ðại Sứ Mỹ, mọi hy vọng đặt vào con đường duy nhất có thể giúp họ rời khỏi Việt Nam. 

Khi ống kính phóng to vào khuôn mặt một thanh niên, trong rạp có tiếng kêu nhỏ: “Trời ơi trời, đó là tôi, là tôi...” 

Và tiếp theo câu nói ngắn ngủi đó là tiếng khóc vừa bật lên đã nghe âm u như bị bàn tay ai vội vàng bịt lại.

Ở một đoạn phim khác, phóng viên Bruce Dunning của đài CBS kể lại cảnh những chiến sĩ và người dân Việt Nam tìm cách trèo lên các chiến hạm đang chạy đi, trong đoạn tường trình nổi tiếng: “Ở đây có cả biển người, chúng ta đang kéo đi, bỏ họ ở lại, họ đang rơi xuống các bậc thang giữa lưng trời.”

Không khí trong rạp chùng xuống theo từng tiếng thở dài, và đọng lại trên những nét mặt căng thẳng của khán giả khi màn hình điểm từng giờ, từng giờ, của ngày 30 Tháng Tư, 1975, với những tiếng súng nổ xa xa và những đoàn xe tăng của quân đội Bắc Việt ngày càng kéo gần vào thành phố. 



alt

Ðại  Stuart Herrington trong buổi phỏng vấn cho phim “Last Days in Vietnam.” (Hình: Moxie Firecracker Films)



Giữa người và người

Sài Gòn cuối Tháng Tư, 1975 ở tình trạng bi đát lắm. Những đợt pháo kích và xe tăng CSVN ồ ạt kéo vào, sự thất thủ của miền Nam là điều không thể tránh khỏi. 

Nhưng ông Graham Martin, vị Ðại Sứ Mỹ có toàn quyền quyết định về việc di tản, nhất định không chấp nhận viễn ảnh đen tối này, tiếp tục bám giữ một hy vọng mong manh là sẽ có một giải pháp nhiệm màu nào đó cho phần đất mà con trai ông đã hy sinh tính mạng để bảo vệ.

Trước hoàn cảnh đó, những viên chức và chiến binh Hoa Kỳ các cấp đối diện với một lựa chọn khó khăn: Hoặc tuân lệnh Tòa Bạch Ốc, chỉ di tản người Mỹ, hoặc bất tuân lệnh trên, cố gắng cứu tối đa mạng sống của hàng trăm ngàn người Việt làm việc mật thiết với chính phủ Hoa Kỳ, những người mà nếu kẹt lại tính mạng sẽ bị đe dọa.


Và họ đã chọn con đường thứ hai, bất chấp nguy hiểm và nguy cơ có thể bị buộc tội phản quốc, để làm điều mà họ cho là đúng. 

Giải thích sự chọn lựa đó, Ðại Tá Stuart Herrington, bày tỏ, “Cũng có lúc vấn đề không phải là hợp pháp hay bất hợp pháp, mà là đúng hay sai.”

Nếu Ðại Tá Stuart Herrington và một số đồng đội của ông giúp người di tản bằng cách phát động một chiến dịch lén đưa từng nhóm người Việt rời đất nước bằng những chuyến bay chở hàng đến Philippines, thì Ðại Sứ Graham Martin, sau khi đã nhận lệnh phải di tản trong vòng 24 giờ đồng hồ, đã cố tình ở lại Việt Nam cho đến giờ phút chót. Chiến thuật của ông là chỉ cho 1, 2 người Mỹ lên mỗi chuyến trực thăng chứa được 40 người đến đón người Mỹ ra khỏi tòa đại sứ, đưa thẳng ra đệ thất hạm đội. Trong khi đó, ông Richard Armitage (sau này trở thành thứ trưởng Ngoại Giao, dưới quyền Ngoại Trưởng Colin Powell), thuộc tình báo Hải Quân Hoa Kỳ, “bắt tay” với Ðại Tá Hải Quân Việt Nam Đỗ Kiểm để đón hơn 30,000 người Việt lên những chiến hạm Mỹ mà không cho bộ quốc phòng biết. 

Nén giọt nước mắt khi tả lại cảnh làm lễ hạ cờ Việt Nam trên chiến hạm USS Kirk để được vào Philippines, Ðại Tá Ðỗ Kiểm kể lại,“Chúng tôi đứng nghiêm hát quốc ca và cử hành lễ hạ cờ. Ai cũng khóc. Tôi 42 tuổi đời, lúc ấy cũng là một con cáo già trên biển rồi, đã từng dự biết bao nhiêu lần lễ hạ cờ, nhưng không bao giờ buồn bằng hôm ấy, thấm thía nỗi mất mát, mất nước, mất tất cả.”



Ông Miki Nguyễn, con trai một phi công lái chiếc Chinook, lúc ấy mới 6 tuổi rưỡi, nhớ lại cảnh gia đình mình nhảy ra khỏi chiếc máy bay Chinook sắp hết xăng, nhưng vì lớn quá không thể đáp xuống boong tàu USS Kirk:

“Từng người một, chúng tôi nhảy ra ngoài. Tôi nhảy ra, anh trai tôi nhảy ra. Mẹ tôi đang ôm đứa em gái nhỏ. Vâng, hiển nhiên là chúng tôi rất sợ. Và mẹ tôi chỉ biết phó thác, với một tay - với bàn tay phải, còn tay trái để giữ cho mình khỏi sợ, thả em gái tôi xuống.”

Một lính thủy quân lục chiến kể, sau hơn 40 giờ đồng hồ không ăn không ngủ, đánh điện đi xin trợ giúp vì “đã quá mệt mỏi,” nhận được câu trả lời, “Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ không bao giờ mệt.”

Còn ông Phó Bình, lúc ấy là một sinh viên trẻ thuộc nhóm 420 người bị kẹt lại tại Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ sau khi chuyến trực thăng cuối cùng của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ rời Việt Nam, kể lại, “Sáng hôm sau tôi thức dậy thì vẫn thấy người ta từ bên ngoài cố gắng trèo vào bên trong, nhưng điều đầu tiên tôi chú ý là không thấy những người lính Mỹ đâu cả? Một lúc thì tôi đoán họ đã bỏ đi hết rồi.”



Trước đó, sinh viên Phó Bình đã được Ðại Tá Herrington hứa là sẽ không bao giờ bỏ rơi họ.


Và tâm trạng của Ðại Tá Herrington khi nhận lệnh phải lập tức cùng 10 người lính thủy quân lục chiến cuối cùng rời Việt Nam trong chuyến bay cuối cùng: “Một chiếc trực thăng CH-46 đáp lên nóc, hạ thang xuống và chúng tôi leo lên. Khi trực thăng cất cánh, cửa còn mở. Nhìn xuống bãi đậu xe, tôi có thể nhìn thấy nhóm 420 người bị bỏ lại bên đám cỏ. Tôi cảm thấy hết sức bất nhẫn trước sự phản bội này.”


Trung Úy Phạm Hữu Ðàm nhớ lại “giây phút lịch sử” vào trưa ngày 30 Tháng Tư, sau khi lời tuyên bố đầu hàng của ông Dương Văn Minh vang trên đài phát thanh, ông và nhiều người lính đủ binh chủng cởi bỏ quân phục đang mặc ngay trên đường phố, trong khi màn hình chiếu cảnh nhiều thanh niên trẻ tuổi, ngơ ngác, cởi trần hay mặc áo lót, đi lang thang trên phố và những đôi ủng nhà binh nằm la liệt giữa lòng đường: “Tôi tự hỏi các bạn tôi đã hy sinh nằm xuống để làm gì, có phải để được ngày hôm nay? Tôi tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra cho họ, và cho bản thân tôi nữa. Tôi không có câu trả lời.”


alt

Tổng Thống Gerald R. Ford và Ngoại Trưởng Henry A. Kissinger bàn luận về cuộc di tản khỏi Sài Gòn hôm 29 Tháng Tư, 1975.(Hình: Gerald R. Ford Presidential Library)


Dù không chủ tâm phê phán chính sách, hay bào chữa cho ai, nhưng biến hóa tài tình, và cái nhìn đầy ắp tình người của Rory nằm ở chỗ, qua hình ảnh và lời kể trong phim, bà cho khán giả thấy được một hình ảnh tận tụy hy sinh của Ðại Sứ Graham Martin, bên cạnh ấn tượng trước đó của khán giả về ông - một con người bướng bỉnh đến mù lòa trước thực tại.

Còn Tổng Thống Gerald Ford, qua lời kể của các nhân chứng, cũng được thấy đã vì lo lắng cho người dân miền Việt Nam mà hết lòng “xin tiền” Quốc Hội để cứu họ, bất chấp hậu quả chính trị với bản thân.

Một cuốn phim cần xem

Phim hết, mọi người ra khỏi rạp, nhiều khán giả Việt còn nấn ná với nhau để bàn tán.

Họa sĩ Ann Phong, đôi mắt đỏ hoe, cho biết bà khóc vì “lại một lần phải sống lại cảnh Tháng Tư, đến khi thấy cảnh trong phim lá cờ Việt Nam hạ xuống để treo cờ Hoa Kỳ vào Phi Luật Tân, tôi khóc òa, vì cảm xúc mất nước tôi đã trải qua nay lại phải đối diện một lần nữa!”

Nhưng bà cũng nói: "Cám ơn Last Days in Vietnam cho tôi nhìn lại những phút đau lòng trong lịch sử bằng những đoạn phim nói về tình người. Từ những người có quyền lực tại Hoa Kỳ đến những người lính Mỹ đứng gác tòa đại sứ. Một số họ ray rứt vì không giữ được lời hứa.”

Một khuôn mặt quen thuộc trong sinh hoạt cộng đồng ở quân Cam, muốn được gọi là “Facebooker” Lạc Việt, cho rằng đây là cuốn phim rất đáng xem, “không chỉ cho những thế hệ sau này để tìm hiểu về Việt Nam, mà còn cho cả người lớn đã từng sống qua những ngày đen tối nhất của giai đoạn lịch sử này.”

Bà nói, “Tôi đã biết những chính sách của Hoa Kỳ để giúp người Việt di tản, nay tôi biết thêm được những cố gắng riêng lẻ của những quân nhân Hoa Kỳ. Họ, bằng mọi cách, ở lại để cứu giúp người Việt Nam, đưa đi được người nào hay người đó. Tình người trong lúc lâm nguy thật cảm động.”

Em Uyên Thao Trần, 21 tuổi, theo gia đình đi xem phim, tâm sự, “Cả bố mẹ của em đều thực sự trải qua 'những ngày cuối ở Việt Nam,' vì thế em được biết nhiều về sự kiện lịch sử trong cuốn phim này qua chuyện bố mẹ kể, và những bài học lịch sử khác. Vì thế phần đầu của phim với em hơi chán. Nhưng khi xem đến cảnh người dân miền Nam Việt Nam phải đối diện với bao khó khăn để tìm cách rời đất nước, những khó khăn mà chính bố mẹ em đã phải đương đầu, em thấy người mình như dính trên ghế, hồi hộp theo dõi. Nửa phần sau của cuộn phim với em rất cảm động và gây tác động mạnh.”

Bà Phạm Kim Duyên, một người di tản từ Tòa Ðại Sứ sáng 30 Tháng Tư, nói, “Phim hay quá, thoạt tiên tôi do dự không muốn đi xem vì không muốn nhắc lại những kỷ niệm buồn, nhưng phim buồn mà không làm mình thấy tuyệt vọng."

Mới được trình chiếu sang tuần thứ tư, “Last Days in Vietnam” đã nhận được không biết bao nhiều điểm phim, đa số đều là những lời khen ngợi.

Ðược hỏi về thông điệp chính của mình trong phim, đạo diễn Rory Kennedy trả lời, “Bất kể chính sách có tốt hay xấu, trong hoàn cảnh đau thương nhất, tình người vẫn chiến thắng, đó là khía cạnh mà tôi nhận thấy và muốn ghi lại trong những ngày cuối của cuộc chiến này. Còn thông điệp, nếu có thì có lẽ trước khi mình dấn thân vào một cuộc chiến, phải nghĩ cách làm sao để chấm dứt chiến tranh đó.”

Bà Rory Kennedy là ái nữ của cố Nghị Sĩ Robert F. Kennedy. Bà gọi cố Tổng Thống John F. Kennedy bằng bác ruột.
Hà Giang/Người Việt 

Không có nhận xét nào: