Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Bảy, 3 tháng 2, 2024

Góc Việt Thi : Thơ Xuân của cụ NGUYỄN DU (2) - Đỗ Chiêu Đức


Tượng Thi hào NGUYỄN DU ở Bảo tàng Hà Tĩnh
3. Bài thơ QUỲNH HẢI NGUYÊN TIÊU 瓊海元宵 :

瓊海元宵 QUỲNH HẢI NGUYÊN TIÊU

元夜空庭月滿天, Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,
依依不改舊嬋娟。 Y y bất cải cựu thuyền quyên.
一天春興誰家落, Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc,
萬里瓊州此夜圓。 Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên.
鴻嶺無家兄弟散, Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán,
白頭多恨歲時遷。 Bạch đầu đa hận tuế thời thiên.
窮途憐汝遙相見, Cùng đồ lân nhữ dao tương kiến,
海角天涯三十年。 Hải giác thiên nhai tam thập niên !
阮攸 Nguyễn Du
<!>


* Chú thích :
- Quỳnh Hải 瓊海 : Tức Quỳnh Châu 瓊州, thuộc trấn Sơn Nam xưa, nay là huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình, quê vợ của Nguyễn Du. Năm 1786, sau khi Nguyễn Khản thất lộc, Nguyễn Du lánh nạn về Quỳnh Côi ở nhà anh vợ là Đoàn Nguyên Tuấn ở xã Hải An (lúc này Lê Chiêu Thống chưa chạy sang Trung Quốc).
- Nguyên Tiêu 元宵: là “Nguyên Tiêu Tiết 元宵節", ta gọi là "Tiết Nguyên Tiêu", tức là đêm "Rằm tháng Giêng", NGUYÊN TIÊU là Đêm đầu tiên có trăng trong năm, nên còn gọi là Tiết Thượng Nguyên 上元節. Trong dân gian Trung Hoa, đây là lễ rước đèn, đố chữ, múa lân... Nên cũng được gọi là "Đăng Tiết 燈節".
- Y Y 依依 : Là Lưu luyến, quyến luyến như không nở rời xa nhau.
- Thuyền quyên 嬋娟 : Dáng vẻ đẹp đẽ dễ thương. Thường dùng để chỉ các cô gái đẹp. Ở đây chỉ mặt trăng.
- Hồng Lĩnh 鴻嶺 : Tên một ngọn núi ở Nghệ Tĩnh, gồm có 99 ngọn.
- Tam thập niên 三十年 : Câu này có người cắt nghĩa là: “Ở nơi góc biển chân trời ba chục năm.” Giải nghĩa như thế e không đúng, vì Nguyễn Du lúc đến Quỳnh Châu lánh nạn, tuổi đời mới trên hai mươi (sinh năm 1765, đậu tam trường năm 1784, chạy giặc năm 1786 và lênh đênh nơi quê vợ trên dưới 10 năm). Như vậy, “tam thập niên” hàm nghĩa là ba chục tuổi mới hợp lý.

* Nghĩa bài thơ :
ĐÊM RẰM THÁNG GIÊNG ở QUỲNH HẢI
Đêm rằm tháng giêng trước sân vắng ánh trăng sáng đầy trời. Ánh trăng xưa như quyến luyến không nở rời xa nhau. Đây là một ngày ý xuân hứng khởi nhưng không biết là vầng trăng sẽ rụng xuống nhà ai đây. Ở nơi Quỳnh Châu xa vạn dặm nầy đêm nay trăng cũng tròn như xưa. Ở đất Hồng Lĩnh đã không có nhà nên anh em đều thất tán lưu lạc. Đầu đã bạc hận cũng nhiều theo tháng năm mà thay đổi. Trên bước đường cùng nầy khá thương cho đôi ta (chỉ mặt trăng) vẫn gặp nhau xa xa như thế nầy. Chân trời góc biển thoáng cái mà ta cũng đã hơn ba mươi tuổi rồi !

* Diễn Nôm :
QUỲNH HẢI NGUYÊN TIÊU


Nguyên Tiêu sân vắng nguyệt đầy trời,
Quyến luyến trăng xưa chẳng nở rời.
Rụng xuống nhà ai xuân hứng khởi,
Tròn đầy muôn dặm xứ Quỳnh Côi.
Anh em Hồng Lĩnh buồn ly tán,
Năm tháng bạc đầu hận nổi trôi.
Bóng nguyệt cùng đường thương gặp gỡ,
Chân trời góc biển đã ba mươi !
Lục bát :
Nguyên Tiêu sân vắng trăng đầy,
Thuyền quyên quyến luyến thêm gầy dáng xưa.
Nhà ai trăng rụng xuân đưa,
Quỳnh Châu muôn dặm cũng vừa đoàn viên,
Hồng Lĩnh ly tán anh em,
Tháng ngày đầu bạc hận thêm đổi dời.
Cùng đường lại gặp nhau rồi,
Chân trời góc bể tuổi đời ba mươi !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm.

4. Bài thơ MỘ XUÂN MẠN HỨNG 暮春漫興 :

暮春漫興 MỘ XUÂN MẠN HỨNG
一年春色九十日, Nhất niên xuân sắc cửu thập nhật,
拋擲春光殊可憐。 Phao trịch xuân quang thù khả liên.
浮世功名看鳥過, Phù thế công danh khan điểu quá,
閒庭節序帶鶯遷。 Nhàn đình tiết tự đới oanh thiên.
側身不出有形外, Trắc thân bất xuất hữu hình ngoại,
千歲長懮未死前。 Thiên tuế trường ưu vị tử tiền.
浮利榮名終一散, Phù lợi vinh danh chung nhất tán,
何如及早學神仙。 Hà như cập tảo học thần tiên?
阮攸 Nguyễn Du


* Chú thích :
- Phao Trịch 拋擲 : PHAO là vứt; TRỊCH là Ném. Nên PHAO TRỊCH là Vứt bỏ không thương tiếc; Ở đây chỉ sự Hờ Hững với mùa xuân.
- Phù Thế 浮世 : là Cuộc đời trôi nổi, đẫy đưa. Từ ảnh hưởng bởi giáo lý Phật giáo.
- Tiết Tự 節序 : Cứ lần lừa theo thứ tự của thời tiết; hết xuân hạ tới thu đông, rồi lại sang xuân hạ; cứ lần lừa như thế mãi.
- Trắc Thân 側身 : Bên hông thân mình, chỉ bên cạnh mình.
- Phù Lợi Vinh Danh 浮利榮名 : Vinh Hoa Danh Lợi đều như mây nổi. CHUNG NHẤT TÁN 終一散 là Rốt cục rồi cũng tan mà thôi.
- Hà Như 何如 : Sao mà chẳng ... CẬP TẢO 及早 là Sớm ngày...

* Nghĩa bài thơ :
Cuối Xuân Gợi Cảm Hứng
Xuân sắc trong một năm chỉ vỏn vẹn có chín mươi ngày. Nếu còn hờ hững với quang cảnh tươi đẹp của mùa xuân thì quả thật là đáng tiếc. Công danh trên đời cũng trôi nổi như cánh chim bay qua. Thời tiết lần lửa trước sân đình trống vắng cũng theo tiếng chim oanh mà thay đổi. Tấm thân ta dù xoay nghiêng xoay xéo thế nào cũng vẫn là thân ta mà thôi (chứ không có thêm được tấm thân nào khác cả). Dù cho có sống đến một ngàn tuổi thì cũng phải lo dài dài trước khi chết. Vinh hoa danh lợi thì cũng như đám mây trôi nổi rốt cuộc rồi cũng tan biến mà thôi. Sao lại không tranh thủ sớm ngày học phép thần tiên đi cho xong ?
Cuối xuân cảm hứng nhưng có lẽ vì bệnh tật kinh niên nên đâm ra ưu thời mẫn thế. Cụ Nguyễn Du đã đâm ra chán nản với lợi danh ở đời, với công danh đang theo đuổi và thấy vinh hoa phú qúy như đám mây trôi nổi rốt cục rồi cũng tan biến hết mà thôi; nên muốn buông bỏ tất cả để... tu tiên !

* Diễn Nôm :
MỘ XUÂN MẠN HỨNG


Thiều quang chín chục ánh xuân phai,
Hờ hững xuân qua có tiếc hoài ?
Phù thế công danh như én vút,
Đình không thời tiết tựa oanh thay.
Một mình một bóng nguyên thân xác,
Ngàn tuổi ngàn lo trước xuôi tay.
Phú qúy vinh hoa rồi cũng mất,
Sao không sớm học đến thiên thai ?
Lục bát :
Thiều quang chín chục xuân hồng,
Hững hờ xuân sắc thật lòng tiếc thay.
Công danh mây nổi chim bay,
Trước sân oanh hót đổi thay mấy mùa.
Tấm thân vẫn cũng như xưa,
Sống dai ngàn tuổi lo chưa hết ngày.
Vinh hoa phú qúy mây bay,
Sao không tu học sớm ngày lên tiên ?
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

Hẹn bài dịch tới !

杜紹德
Đỗ Chiêu Đức


Không có nhận xét nào: