Ngoại trưởng Hoa Kỳ Colin Powell thắp hương tưởng nhớ các quân nhân thuộc phái bộ MIA/POW ở Hà Nội thiệt mạng trong tai nạn trực thăng ở Việt Nam, ngày 26/7/2001.Tướng Colin Powell ra đi để lại nhiều di sản quý báu, hào hùng cho quân đội, đất nước và người dân Mỹ. Riêng đối với Việt Nam, ông vừa là một chiến binh can trường, một người bạn và là một nhà ngoại giao bản lĩnh.Bà Jane Đỗ Bùi, một người gốc Việt ở bang California, viết cho VOA khi nhận định về cống hiến của tướng Powell: “Tất cả chúng tôi đều kính trọng ông và gọi ông là nhà lãnh đạo hào hùng.”
<!>
“Ông ấy là người anh hùng của tôi, người đặt quốc gia lên trên cả đảng phái, và cống hiến vì điều đó.”
Dân biểu Bobby L. Rush ở Illinois, cựu chiến binh phục vụ trong Chiến tranh Việt Nam, khen ngợi tài lãnh đạo quân sự của ông Powell. “Nói một cách đơn giản, Colin Powell là một vị tướng vĩ đại, một người lính chiến xuất sắc, một chính khách xuất chúng và một nhà lãnh đạo truyền cảm hứng, người có sự hiện diện siêu việt đóng vai trò như một ngọn hải đăng và một tượng đài cho các thế hệ hiện tại và tương lai.”
Ông Colin Powell, từ trần hôm 18/10 ở tuổi 84 do các biến chứng liên quan đến COVID-19, là một nhà lãnh đạo quân sự, một cố vấn an ninh quốc gia tiên phong, và là ngoại trưởng da màu đầu tiên của Hoa Kỳ.
Người lính ở chiến trường Việt Nam
Sau khi tốt nghiệp trung học năm 1958, ông Powell được phong hàm thiếu úy trong Quân đội Hoa Kỳ và đã trải qua khóa đào tạo cơ bản ở bang Georgia.
Năm 1962, ông là một trong hàng ngàn cố vấn Mỹ được Tổng thống John F. Kennedy cử đến miền Nam Việt Nam để hỗ trợ quân đội địa phương chống lại mối đe dọa từ cộng sản miền Bắc.
Tại chiến trường Việt Nam, ông Powell bị thương do đạp phải chông khi đi tuần tra. Khi ấy ông là đại đội trưởng bộ binh, mang quân hàm đại úy, đóng ở khu căn cứ quân sự và sân bay dã chiến A Sao (huyện A Lưới, Thừa Thiên - Huế).
Đến năm 1968, ông được cử trở lại Việt Nam lần hai và được trao tặng huy chương dũng cảm sau khi may mắn thoát chết trong tai nạn trực thăng và ra tay cứu ba đồng đội thoát khỏi đống đổ nát đang cháy.
Thiếu tá Powell được chỉ định tiến hành điều tra nội dung lá thư do một quân nhân gửi ra, trong đó tái khẳng định các cáo buộc về vụ thảm sát Mỹ Lai (Quảng Ngãi) vào tháng 3/1968, khi ấy lính Mỹ giết chết hàng trăm dân thường, trong đó có nhiều trẻ em.
Ông Powell phủ nhận lá thư này. Ông viết trong báo cáo: “Sự thật là quan hệ giữa binh sĩ Mỹ và người dân Việt Nam là rất tuyệt vời.”
Chính thất bại quân sự của Mỹ ở Việt Nam đã định hình thiếu tá Powell và từ đây ông học được những bài học giúp ông thăng tiến trong quân ngũ sau này, trang NPR viết hôm 18/10/2021.
“Vào thời điểm tôi quay về nước vào năm 1969, sau khi nhận nhiệm vụ lần hai, rõ ràng là chúng tôi đã lao vào một cuộc chiến mà chúng tôi không hiểu hết”, ông nói với ký giả Chuck Springston nhiều thập kỷ sau đó.
Ông Powell nói về Chiến tranh Việt Nam: “Đó không phải là cuộc chiến của chủ nghĩa cộng sản với chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa toàn trị với nền dân chủ. Đó là cuộc chiến của chủ nghĩa dân tộc.”
Ông nói Bắc Việt sẵn sàng mạo hiểm tất cả. Và miền Nam Việt Nam đã mất đi một số tính chính danh của họ. “Và chúng ta có thể làm gì? Chiếm đất nước với một triệu lính Mỹ và giữ họ ở đó?” ông Powell nói.
Ông Michael O'Hanlon thuộc Viện Brookings nói: “Anh ấy bị ám ảnh bởi Việt Nam, và thực sự tìm cách tránh những bi kịch và sai lầm như vậy”.
Rời chiến trường Việt Nam, ông có được bài học quan trọng: “Hãy chắc chắn rằng bạn hiểu những gì bạn đang làm.”
Tất cả kinh nghiệm chiến trường được ông đúc kết thành Học thuyết Powell, mà Đại tá quân đội nghỉ hưu Pete Mansoor, một giáo sư tại Đại học Bang Ohio gọi là một trong những “di sản mạnh mẽ hơn” của ông Powell.
Là một cựu binh tham gia Chiến tranh Việt Nam, với thành tích cống hiến trong 35 năm quân Mỹ, ông Powell được thăng lên cấp tướng bốn sao trước khi trở thành Chủ tịch Da đen đầu tiên của Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ. Ông lãnh đạo quân đội Mỹ trong chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 tại Iraq dưới thời cố Tổng thống George H. W. Bush.
Dưới chính quyền của Tổng thống George W. Bush vào năm 2001, ông giữ chức Ngoại trưởng, trở thành người da đen đầu tiên đại diện cho chính phủ Hoa Kỳ trên trường thế giới.
Nhà ngoại giao và quan hệ Mỹ - Việt
Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden nhận định: “Colin là hiện thân của những lý tưởng cao nhất của cả chiến binh và nhà ngoại giao. Ông ấy đã cam kết với sức mạnh và an ninh của quốc gia chúng ta trên tất cả. Từng chiến đấu trong các cuộc chiến tranh, ông hiểu rõ hơn ai hết rằng sức mạnh quân sự không thôi là không đủ để duy trì hòa bình và thịnh vượng của chúng ta. Từ quan điểm hàng đầu của mình về lịch sử, cố vấn cho các tổng thống và định hình các chính sách của quốc gia chúng ta, Colin đã dẫn đầu với cam kết cá nhân của mình đối với các giá trị dân chủ giúp đất nước chúng ta vững mạnh.”
Ngoại trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken phát biểu: “Cựu Ngoại trưởng Mỹ Colin Powell đã dành cả cuộc đời phi thường của mình cống hiến cho nhân dân và đất nước Mỹ với lòng yêu nước sâu sắc. Chúng tôi tin vào nước Mỹ với một niềm tin mãnh liệt, vì nước Mỹ đã sinh ra một người như Colin Powell.”
Tổng thống George W. Bush viết: “Nhiều Tổng thống đã tin tưởng vào lời khuyên và kinh nghiệm của Tướng Powell. Ông ấy là Cố vấn An ninh Quốc gia dưới thời Tổng thống Reagan, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân dưới thời cha tôi và Tổng thống Clinton, và Ngoại trưởng dưới thời chính quyền của tôi. Ông ấy là một người được các tổng thống yêu quý cho nên ông đã giành được Huy chương Tự do của Tổng thống”.
Khi nhậm chức Ngoại trưởng vào năm 2001, ông Powell kể về ký ức Việt Nam: “Khi tôi qua đó và đến Sài Gòn vào ngày Giáng sinh năm 1962, tôi tin rằng chúng tôi đang làm đúng. Nhưng rõ ràng là chúng tôi sẽ không thắng thế và có lẽ các phán quyết chính trị và quân sự khác nhau nên được đưa ra vào thời điểm đó.”
Ngoại trưởng Powell khi ấy cho biết ông mất đi một số người bạn tốt nhất của mình từ thời đại học, các thành viên của hội huynh đệ và “rất nhiều người mà tôi thân thiết” trong các lĩnh vực đã ra đi ở Việt Nam.
Ông Powell có dịp kể về một người bạn chiến là Đại úy Võ Công Hiệu, người phụ trách 400 chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa ở thung lũng A Shau gần biên giới Lào năm 1963, mà sau vào ông Hiệu có gọi từ Bangkok nhờ ông Powell giúp đỡ để định cư sang Mỹ. Ông Powell đến thăm người bạn lính chiến Việt Nam và gia đình tại Minneapolis năm 1991 cùng với niềm vui và cả nước mắt trong ngày hội ngộ, theo New York Times.
Tháng 7/2001, Ngoại trưởng Colin Powell thăm Hà Nội và hội đàm với Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Dy Niên, hội kiến Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch nước Trần Đức Lương nhân dịp ông dự Diễn đàn khu vực ASEAN. Đây là chuyến trở lại Việt Nam lần đầu tiên của ông Powell kể từ khi ông tham gia cuộc chiến vào năm 1969. Ông cũng tuyên bố ông ủng hộ hiệp định thương mại (BTA) đã ký với kẻ cựu thù hồi tháng 7/2000.
Cựu Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Ted Osius viết trên Facebook: “Đại tướng Powell tiếp tục gắn bó với ASEAN, tham gia vào buổi gala tiệc tối của Hội đồng để tiếp đón trọng thể Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang khi ông thăm Hoa Kỳ năm 2013.”
“Khi tôi còn là nhà ngoại giao chuyên nghiệp, tôi rất ấn tượng với quyết tâm của Ngoại trưởng Powell để trao quyền cho đội ngũ của ông tại Bộ Ngoại giao”, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ - ASEAN Ted Osius cho biết.
“Ông thích trao đổi với một nhân viên chuyên trách cấp thấp hơn là một người nắm những chức danh cao sang. Ông dành phần lớn thời gian để chắc chắn tất cả nhà ngoại giao trải qua tập huấn cần thiết để trở thành những lãnh đạo hiệu quả. Vì những điều này và nhiều lý do khác, các nhà ngoại giao tại Bộ Ngoại giao thật sự kính trọng ông”, ông Osius chia sẻ.
(Tổng hợp từ Reuters, AP, US News, BBC, NPR, Twitter và Facebook)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét