Trên thế gian, không có hình ảnh nào thiêng liêng, cao quý, thể hiện tinh thần hy sinh lớn lao cả cuộc đời, có tấm lòng thương yêu quảng đại... bằng hình ảnh người đàn bà trong tình mẫu tử. Trong kho tàng văn học của nhân loại, có muôn vàn tác phẩm đã đề cập đến hình ảnh trong sáng và cao đẹp đó tự nghìn xưa, đông tây cho đến nay ở cõi đời ô trọc nầy. Đơn cử vài hình ảnh tiêu biểu đã ảnh hưởng trên văn đàn thế giới như chân dung bà Pélagie Vlassova trong tác phẩm Matb - Bà Mẹ (1906) của văn hào Nga M. Gorki, tác phẩm Lucrèce Borgia - Tình Mẫu Tử (1833) của văn hào Pháp Victor Hugo.
<!>
Ở đó, V. Hugo đã ngợi ca tình yêu thương của người mẹ, không ai có thể quên “Oh! l’amour d’une mère, l’amour que nul n’oublie”. Vở kịch Matka - Người Mẹ (1938) của nhà văn Tiệp Khắc Karel Capek cho thấy sự hy sinh cao cả, niềm đau thương cùng cực của người Mẹ trong đất nước chiến tranh. Khi người chồng dấn thân vào binh nghiệp đã hy sinh, người mẹ không muốn 5 đứa con bước vào con đường của cha nhưng đất nước chiến tranh, làm sao tránh khỏi, bốn người con trai của bà lần lượt vĩnh biệt mẹ trên rừng sâu và nơi chiến trường. Đất nước lâm nguy, người mẹ ngậm ngùi dứt tình mẫu tử bên nhau, khuyên con tham chiến và vĩnh biệt đứa con út duy nhất của mẹ.
Hình ảnh người mẹ đau thương đó được diễn tả qua hình tượng và ngôn ngữ văn chương cũng là muôn nghìn hình ảnh người mẹ Việt Nam trong chiến cuộc, trong khói lửa chiến tranh. Quên bản thân mình mà lo cho con cái, đem hạnh phúc của con cái để an ủi cuộc đời mình trong cơn giông bảo... nói lên sự hy sinh vô bờ bến trong tình mẫu tử.
Vài tác phẩm tiêu biểu trong văn học Việt Nam như Tôi Làm Mẹ của Lê Văn Trương, Lòng Mẹ của Trọng Lang, Mẹ Tôi của Nguyễn Khắc Mẫn, thi phẩm Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cường của Trần Trung Đạo... cùng nhiều ca khúc, bài thơ ngợi ca hình bóng người mẹ, biểu tượng cao quý nhất qua bao thế kỷ. Tôn vinh hình ảnh người mẹ được phổ biến rộng rãi nhất đã in sâu trong tâm khảm mọi người với thơ và nhạc. Ở hải ngoại, vào Ngày Hiền Mẫu (Mother’s Day) mỗi năm phổ biến những bài viết, thơ, nhạc… nhưng với người Việt của chúng ta thì hình ảnh đó trải dài theo năm tháng.
Trong đời sống riêng tư của chúng ta, mỗi người đều cảm nhận thấy hình tượng mầu nhiệm kính yêu ấy đã ngự trị trái tim với bậc sinh thành trong gia đình, dòng tộc. Bởi vậy, khi thấy có hình ảnh trái ngược nào xảy ra trong sinh hoạt xã hội, khi đặt bút phê phán tự nhiên cảm thấy điều gì xót xa, đau nhói, có lúc đau lòng bởi nghiệp dĩ nên đã xúc phạm đến hình ảnh chung đã được tôn thờ.
Sở dĩ, tại hạ có vài nét dông dài khi nói về “môn phái” kỳ bí, đầy giai thoại mà người xưa cho rằng “thiên cổ chi mê”, thiên hình vạn trạng. Bóng dáng đó được chiếu rọi qua nhiều lăng kính mà mỗi một hình ảnh là thế giới riêng biệt lúc tỉnh, lúc động, khi vô cùng mềm mỏng, khi cực kỳ sắt đá.
Bên cạnh hình ảnh thiết tha, dịu dàng, nhu mì, khả ái, đoan trang, mẫu mực, thanh tao, uyển chuyển... cùng những đức tính tuyệt vời của đấng nữ lưu mà bao nhiêu danh họa, văn thi sĩ tài hoa đã đổ không biết bao nhiêu bút mực đã làm say đắm, ngất ngây tâm hồn người thưởng ngoạn từ xa xưa đến nay thì cũng có bao nhiêu hình ảnh trái ngược được đề cập qua văn chương, sách vở khi giai nhân nổi cơn thịnh nộ.
Vào thế kỷ thứ IV, triết gia Sénèque xây dựng nhân vật qua tác phẩm Phèdre làm đề tài lưu truyền cho bi kịch đầy đau thương. Phèdre thích trai tơ nên quyến rũ con riêng của chồng, bất thành Phèdre vu oan giá họa cho Hippolyte tội lọan luân. Hippolyte phải chịu oan, kết liễu cuộc đời. Phèdre ăn năn, chọn cái chết để giải quyết sự thâm độc của mình.
Hình ảnh tiêu biểu cho nhân vật nữ lưu nổi máu đã lưu truyền trong lịch sử nhân loại như Võ Tắc Thiên vào cuối thế kỷ thứ VII, Từ Hy Thái Hậu thế kỷ XIX ở Trung Hoa. Nhân vật nầy cũng được đề cập nhiều nhất qua nhiều ngoài bút của sử gia và văn nhân... Trong thời kỳ phong kiến, phận nữ lưu bị xem nhẹ thế mà từ cung phi dám nổi máu thay đổi triều đại để “thay trời làm vương”. Phế bỏ triều đại nhà Đường từ thời Cao Tổ đến Duệ Tông (618-684); sau khi Đường Cao Tông mất, Vũ Hậu ra tay phế bỏ Trung Thông, Lý Thông, Lý Đản, lên ngôi hoàng đế, đổi quốc hiệu nhà Chu (690-705) thống trị Trung Hoa. Võ Tắc Thiên nổi tiếng người đàn bà dâm đảng, thủ đoạn tàn nhẫn đến nổi giết con để vu oan giá họa... lung lạc cả vương triều phong kiến đầy uy quyền trở thành lá bài phải nằm trong bàn tay.
Từ Hy Thái Hậu trong cuốn tự truyện “Thái Hậu & Tôi” của Edmund (người Anh), tiết lộ rằng, mối quan hệ đặc biệt giữa ông và Từ Hy bắt đầu vào năm 1902, khi đó ông mới chỉ 29 tuổi, còn Từ Hy Thái Hậu đã bước vào tuổi 67... Edmund còn tiết lộ, mặc dù tuổi đã cao nhưng chuyện chăn gối của Từ Hy thái hậu vẫn sung mãn vô cùng. Khi cao hứng, thậm chí bà còn bắt người tình thực hiện vô vàn những tư thế khó khiến người tình trẻ cũng bơ phờ. Lão bà với thú hoang dâm và đốt tiền để xây cất cung điện hưởng lạc thú đã dẫn đến sự sụp đỗ nhà Thanh.
Trong văn chương Việt Nam, với nữ lưu, không có tác động nào gây cơn thịnh nộ nào bằng ghen, xin khái quát qua vài hình ảnh được lưu truyền.
Trong thi phẩm Kim Vân Kiều (Truyện Kiều, Đoạn Trường Tân Thanh, áng thơ bất hủ của thi hào Nguyễn Du (1765-1820) hình ảnh Hoạn Thư, danh từ riêng đã trở thành ngôn ngữ chung khi đầ cập đến máu ghen của nữ lưu. Hoạn Thư nổi lôi đình một cách “dịu dàng” bên cạnh Thúc Sinh “Vợ chồng chén tạc chén thù” và hành hạ Thúy Kiều:
“Bắt nàng đứng chực, trì hồ hai nơi
Bắt khoan, bắt nhặt đến lời
Bắt quỳ tận mặt, bắt mời tận tay”
Giang hồ như Thúc Sinh nhưng trước cảnh tượng ấy đành “như dại như ngây, giọt dài giọt ngắn, chén đầy chén vơi”.
Chưa thỏa mãn thú tính, Hoạn Thư “chơi” Thúy Kiều tận mạng:
“Làm cho, cho mệt cho mê
Làm cho đau đớn, ê chề cho coi”.
Thế rồi, cuộc đời đẫy đưa, Thúy Kiều dựa thế Từ Hải lúc binh hùng tướng mạnh. Ân đền oán trả, gặp lại Hoạn Thư, Thúy Kiều muốn “Xem cho rõ mặt, biết tôi báo thù”, thế rồi nàng nổi cơn thịnh nộ cũng “chơi” lại đối phương:
“Làm cho sống đọa thác đầy
Đoạn trường cho hết kiếp nầy mới thôi”.
Vài dòng thơ của Nguyễn Du tiên sinh đủ làm rợn gáy... chớ nên léng phéng!.
Thị xã Hà Đông nằm về hướng nam Hà Hội, nối tiếp nhau bởi con đường Nguyễn Trãi. Ở Trung Hoa cũng có địa danh Hà Đông, địa danh nầy nữ lưu đã đi vào văn chương, thế rồi người đẹp thị xã Hà Đông lại mang tiếng oan về máu ghen hung dữ, nó lại trở thành ngôn ngữ chung “Sư tử Hà Đông” ám chỉ hình ảnh nổi máu “tam bành lục tặc”, thật oan cho người đẹp bên cạnh kinh thành nghìn năm văn vật.! gọi là sư tử vì sư tử là chúa tể sơn lâm, mỗi khi rống lên chấn động, khiếp đởm cả rừng xanh, Nhà thơ Đỗ Phủ đời Đường ở Trung Hoa có câu “Hà Đông nữ nhi thân tính Liễu” ám chỉ Liễu Thị ở Hà Đông. Bạn thân của Tô Đông Pha là Trần Tạo, có người vợ cũng Liễu Thị, máu ghen dữ dằn, vang lừng “năm châu bốn bể”. Nhà thơ Tô Thức đã làm bài thơ giễu trong đó có 2 câu:
“Hốt văn Hà Đông sư tử hống
Trụ trượng lạc thủ tâm mang nhiên”
(Bỗng nghe sư tử Hà Đông rống,
Kinh hoàng bỏ gậy rớt nơi đâu).
Từ đó, sau nầy chàng trai Hà Nội xuôi Nam, mò mẫn tán tỉnh người đẹp Hà Đông, bị phản pháo rồi đem hình ảnh Hà Đông thời xa xưa gán ghép vào rồi dệt thành nhiều giai thoại con gái Hà Đông. Nhà văn Hoàng Hải Thủy tự xưng Công Tử Hà Đông với nhiều bài viết về nữ lưu rất thú vị.
Thế thì, mấy ai nhờ đọc được tích xưa nên bắt chước Tú Xương “Nhặt khoan còn ỏi tiếng Hà Đông” bèn thử thời vận, trong nhờ đục chạy. May quá, phước lành!.
Xin đơn cử vài hình ảnh đã nghe quen quen thời xa xưa còn lưu lại sách vở.
Vào năm 200 trước công nguyên, đời Tây Hán, vợ của Hán Cao tổ Lưu Bang là Lữ Trĩ. Vợ chồng bên nhau lúc thuở hàn vi, nàng thuộc người mẫu mực. Khi chàng trở thành Hoàng đế và nàng trở nên Hoàng hậu, chàng có người hậu phi là Thích Cơ trẻ đẹp, dễ thương. Rồi một hôm, chàng say, nằm ngủ trên đùi Thích Cơ, có kẻ mách báo và nàng bắt gặp, để tâm, chờ ngày trả thù. Khi Hán Cao Tổ chết, Thích cơ bơ vơ, Lữ Hậu manh tâm trả thù. Lữ Hậu truyền bắt Thích Cơ và cung nhân hầu cạnh để đem ra hành hình rất dã man: bắt uống thuốc câm, bị chặt tay chân, khoét mắt, cắt tai rồi giam vào ngục tối đầy phân. Nạn nhân đau đớn, không thốt lên tiếng, chỉ ú ớ cho đến khi kiệt lực, tắt thở.
Đời Tam quốc vào thế kỷ thứ III, chúa chư hầu Hà Bắc là Viên Thiệu có người vợ là Lưu phu nhân nổi máu cũng “rợn người”. Viên Thiệu có 5 nàng hầu rất khả ái nên tỏ lòng trìu mến. Khi Viên Thiệu chết, Lưu phu nhân bắt 5 nàng hầu ra giết. Nàng sợ vong hồn người chết về báo oán nên sai người cạo tóc, lột mặt, khoét mắt rồi bằm nát 5 thây chết thành đống bầy nhầy. Chưa hết, con trai của nàng là Viên Thượng sợ thân nhân họ trả thù nên sai bắt thân nhân gia thuộc của 5 nàng đem ra giết để trừ hậu hoạn!.
Vào thế kỷ thứ X, đời Tống, ở về phía Đông Bắc Trung Hoa, Hoàng đế nước Kim có hai nàng cung phi, Lệ Cẩm & Ngọc Sương tuyệt trần nên được sủng ái. Hoàng hậu ứa gan nhưng đành câm lặng. Trước khi nhà vua chết, có dặn quần thần đem chôn sống hai nàng ái phi theo vua.
Hoàng hậu thực hiện đúng theo di ngôn Hoàng đế nhưng lại nghĩ nếu để hai nàng trẻ đẹp nguyên vẹn theo vua nơi “âm cảnh” thì cả 3 cứ quấn quít bên nhau tha hồ tình tự, ái ân... gai con mắt. Nàng truyền thị vệ khoét mắt, vạch mặt, cắt mũi Lệ Cẩm & Ngọc Sương thành quỷ, ngâm dấm rồi đem chôn.
Câu chuyện được đề cập rất nhiều: Tây Thi, Đời Đông Châu, Việt Vương Câu Tiễn thua Ngô nên bị Ngô Phù Sai cầm tù ở nhà đá mang tên “Thạch thất”, cả hai vợ chồng phải chăn ngựa cho nhà vua. Câu Tiễn giả khùng, giả ngu nếm phân và tìm cách hối lộ với gian thần của Ngô là Bá Hy nên được cho về. Giai nhân tuyệt sắc nước Việt ở thôn Tây Bích La, gọi là Tây Thi, được người đời liệt kê “Tứ đại mỹ nhân” được dùng mỹ nhân kế, đem dâng cho Ngô Phù Sai. Ngô vương mê mệt, ngày đêm cùng bên Tây Thi muốn tận hưởng giây phút lạc thú, quên cả giang sơn, đất nước. Câu Tiễn ngày đêm thao lược. Nước Ngô suy yếu. Cuộc chiến bùng nổ, Ngô bại trận, Phù Sai tự tử.
Tây Thi làm tròn sứ mệnh của người con nước Việt, sau tháng ngày thăng trầm nơi cung cấm, ngán ngẫm cảnh đời, mong trở lại yên sống nơi cố hương. Người hùng Phạm Lãi trong tháng ngày sóng gió có mối tình sâu đậm với Tây Thi. Câu Tiễn vừa ái mộ tinh thần hy sinh của người đẹp, vừa xúc động trước sắc nước hương trời dù trải qua bàn tay thô bạo. Vương phi Câu Tiễn cảm nhận được điều đó, Phạm Lãi không muốn kẻ đầy quyền phổng tay trên nên tìm cách tựu kế với vương phi. Trên cuộc hành trình, vương phi mật sai kẻ thân tín bắt Tây Thi cột vào đá rồi ném xuống dòng Tam giang. Sát hại cho chết và cũng không muốn Câu Tiễn được nhìn xác chết.
Chấn động xưa nay là hình ảnh Võ Hậu, vợ vua Đường Lý Trị vào lúc suy vong. Võ Tắc Thiên độc ác, dâm đãng và khuynh đảo cả một giang sơn rộng lớn, trị vì cả một dân tộc đông nhất trên thế giới ở thời kỳ phong kiến.
Than ôi! đơn cử vài hình ảnh ngày xưa, nữ lưu nổi máu với người cùng phái, dù có gan hay nhát, cũng phải rợn người. Xin mượn hai câu của Tố Như tiên sinh để tỏ bầy:
“Máu rơi thịt nát tan tành
Ai ơi trông thấy hồn kinh phách rời”.
Trong Thiên Long Bát Bộ của Kim Dung, Nam Vương Đoàn Chính Thuần nổi tiếng là tay phong tình, vương phi Thư Bạch Phụng nổi máu “ghen” chuyện chàng “ăn chả” nàng bèn nổi giận, ra chốn sơn lâm gặp chàng ăn mày, thương tích dơ dáy “ăn nem” trao tấm thân ngà ngọc, mỹ miều để mang giọt máu: Đoàn Dự. Rồi đến Vương phu nhân, thân mẫu của Vương Ngọc Yến, thấy tình lang Đoàn Chính Thuần đâm bang cù thị, hết tù tị người nầy đến người khác, nàng nổi máu anh hùng, thành lập “đội thám kích” truy lùng những tay đại đạo hái hoa đem về đảo Cô Tô cho nếm mùi giang khổ.
Ngày nay, giữa thiên đường hạ giới nầy, không biết bút mực nào kể cho hết. Chuyện nữ lưu nổi máu với nhau như vậy. Còn khác phái? Điển hình như nàng Lorena Bob Bitt ở Virginia vào tháng 6, 1993 đã làm thành đề tài cho giới truyền thông và báo chí. Nàng Lorena nổi máu, lấy con dao dài 12 inches cắt đứt của quý của chồng John Bob Bitt, nguyên gốc Thủy Quân Lục Chiến, còn đem ra xe rồi vất vào bụi cây ven đường. Của quý tìm được, bác sĩ đã gắn lại cho chàng. Sau nầy chàng còn đóng phim Sex chứng tỏ của quý còn tác dụng. Sau Lorena, thỉnh thoảng xảy ra tình trạng trừng phạt trên vì “con chim sổ lồng” nên “vặt lông cắt bỏ”. Ở trong nước cũng xảy ra tình trạng như vậy, trước kia với hình ảnh nữ lưu cầm kéo trong tranh Đông Hồ.
Tại hạ trộm nghĩ, “tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách” tránh xa chẳng xấu mặt nào, nhỡ cầm cái kéo cắt chỉ bụp mạnh, đâu còn thuở làm thái giám, bắt chước ông hoàng thi ca, làm thơ bất đắc chí bấm bụng thở than: “Than ôi! đứt mất con lợn nọc. Đời mất mi rồi, bao khổ đau”.
Ngày xưa, người xưa ở trong khuê phòng, lúc nổi máu còn vậy. Ngày nay, đã từng xông pha nơi đầu tên mũi đạn, thế nào cũng “nhật tân, nhật tân, hựu nhật tân”.
Đông, Tây, kim, cổ... lưu lại không biết bao nhiêu hình ảnh, câu chuyện kinh hoàng, tình huống không thể ngờ khi nữ lưu nổi giận. Bản chất của nữ lưu hầu như nhu mì nhưng khi thấy sự phản bội, lọc lừa, đụng chạm sự phủ phàng, đôi khi phải đương đầu với nghịch cảnh... tình cảm đột biến, bất chấp tất cả để ra tay cho thỏa cơn cuồng nộ. Nếu gặp phải trường hợp thuộc bản chất thì âm mưu, thủ đoạn đem ra xuất thủ, không thể nào đỡ được... chỉ còn chết đến bị thương triền miên.
Luật lệ trên xứ Cờ Hoa, đẫy đưa cái nháy mắt, khen khéo “good looking”, nếu không được lòng, nổi giận, chụp cho cái mũ “sexual harassment” đấng mày râu cũng xấc bấc, xác xơ, đi đoong cuộc đời, than thở rằng đời sao đen như mõm chó. Ngày trước cụ Phan Chu Trinh với bài thơ Càng Cao Danh Vọng Càng Nhiều Gian Nan, nay xảy ra ở xứ Cờ Huê, ông “tông tông” bị chụp cho cái mũ “sexual harassment” nên xất bất xang bang phải đáo tụng đình năm nầy qua năm nọ nhưng cũng may “tai qua nạn khỏi”! Nếu ông tỷ phú không nhảy vào chính trường thì không bị chụp cho cái mũ nầy mà có khi đồng tình để được như bài thơ Chỗ Đặt của Mai Thảo: “Đặt tay vào chỗ không thể đặt. Vậy mà đặt được chẳng làm sao… Cười tủm còn thương chỗ đặt nào”.
Đấng mày râu trong nước còn dở thói vũ phu với nữ lưu khi ghen nhưng ở xứ Cờ Hoa thì chớ dại mà chỉ năn nỉ như bài thơ Ghen của nhà thơ Nguyễn Bính:
“Cô nhân tình bé của tôi ơi!
Tôi muốn môi cô chỉ mỉm cười
Những lúc có tôi, và mắt chỉ
Nhìn tôi những lúc tôi xa xôi…
Tôi muốn cô đừng nghĩ đến ai,
Đừng hôn dù thấy bó hoa tươi.
Đừng ôm gối chiếc đêm nay ngủ,
Đừng tắm chiều nay biển lắm người”
Nhà báo Chu Tử đã lấy trong ca dao “Sự đời như cái lá đa, đen như mõm chó, chém cha sự đời”! làm đề tài cho ngòi bút châm chọc thế thái nhân tình.
Lá tre, lá mít, lá đa... lá nào cũng là lá, khi nổi máu, nổi cơn thịnh nộ... thì từ chết đến bị thương, không gì hơn đừng léng phéng mà “tẩu vi thượng sách”.
Little Saigon, 11/2024
Vương Trùng Dương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét