Nhà văn Dương Hùng Cường. - Hình: Du Tử Lê cung cấp
Nếu không kể những văn nghệ sĩ được CSVN cho về nhà vài ngày để chờ chết thì, Dương Hùng Cường là một trong những nhà văn bị chết trong tù. Cái chết của ông, cho đến nay, vẫn không ai được biết rõ nguyên nhân.Dương Hùng Cường là một nhà văn miền Nam Việt Nam, nổi tiếng, dù viết không nhiều. Cho đến ngày qua đời, ông chỉ cho xuất bản trước sau ba tác phẩm. Đó là các cuốn “Buồn Vui Phi Trường,” “Lính Thành Phố” ký sự và “Vĩnh Biệt Phượng” tiểu thuyết. Mặt khác, Dương Hùng Cường cũng nổi tiếng với bút hiệu Dê Húc Càn, trên tuần báo trào phúng Con Ong của nhà báo Minh Vồ.
<!>
Bút hiệu Dê Húc Càn của nhà văn Dương Hùng Cường được ký dưới những bài viết châm biếm tệ trạng xã hội, tố cáo những bê bối của các nhân vật tai to mặt lớn ở miền Nam…
Theo tác giả Ngộ Không trong loạt bài sưu tầm những bài viết về nhà văn này thì, nhà văn Dương Hùng Cường sinh ngày 1 Tháng Mười, 1934, tại Hà Nội. Ông mất ngày 21 Tháng Mười Một, 1987, tại nhà tù Phan Đăng Lưu, Gia Định.
Qua hai ký sự “Buồn Vui Phi Trường” và “Lính Thành Phố” độc giả biết, Dương Hùng Cường là một quân nhân, phục vụ trong binh chủng Không Quân. Nhưng người ta sẽ không biết rõ phần đời quân ngũ của ông, nếu không có đoạn hồi ký của nhà văn Nguyễn Thụy Long, tác giả tiểu thuyết “Loan Mắt Nhung.” (1)
Trong hồi ký viết về những ngày đầu khi mới gia nhập binh chủng Không Quân, trước khi trở thành nhà văn, Nguyễn Thụy Long kể rằng, chiều chiều, tan sở, ông lấy xe đạp, đạp ra khỏi trại, hoặc đi học thêm, hoặc gặp bạn bè.
Ông nhắc tới những người bạn văn nghệ thuở đó, có người đã thành danh, bước hẳn vào nghề cầm bút, như nhà thơ Hoài Nam từ Huế trở về Sài Gòn, đổi bút hiệu là Trần Dạ Từ. Nhà thơ, nhà văn Trần Thị Thu Vân có bút hiệu mới là Trần Thy Nhã Ca. Hai người bạn thời niên thiếu của ông đã có thơ, văn đăng nhiều trên các tạp chí uy tín, trong khi ông vẫn còn nao nức với mơ ước nghiệp văn của mình.
Ông viết: “…Tôi yêu thích những bài thơ của Cung Trầm Tưởng, cuốn phóng sự ‘Buồn Vui Phi Trường’ của Dương Hùng Cường và vẫn hy vọng được tiếp xúc với anh, góp phần vào tờ báo Lý Tưởng của đơn vị…” (Trích hồi ký Nguyễn Thụy Long).
Một người bạn cùng phi đoàn trực thăng với Nguyễn Thụy Long, có thơ được đăng tải trong nguyệt san Lý Tưởng của binh chủng Không Quân, được ông nhắc tới một cách thân ái là Hạ Sĩ Lưu Văn Giỏi, người làm thơ ca tụng nghiệp bay, có bài thơ “Nghiêng Đôi Cánh Sắt” được chọn đăng trong báo Lý Tưởng. Lưu Văn Giỏi đã trang trọng cắt bài thơ dán vào tập vở, trình bày hoa lá cành thật đẹp, dĩ nhiên có cả hình chiếc máy bay. Lưu Văn Giỏi hy vọng có ngày sẽ thu góp thành một tập thơ để ấn hành… Trong khi mơ ước trở thành nhà văn của ông Long vẫn mờ mịt!
Chẳng những thế, ngay những ngày mới nhập ngũ, ông đã gặp một “tai nạn nghề nghiệp” khá trầm trọng, nếu không được “đàn anh” Dương Hùng Cường kịp thời can thiệp.
Tác giả thuật rằng, khi ông lái chiếc xe đa dụng “tractuer” ra khỏi cổng phi đoàn, ngang qua một nhóm lính bị kỷ luật, đang làm công tác “cỏ vê” thình linh ông nghe một người tù có vẻ lớn tuổi hơn cả, quăng cái xẻng xuống, giận dữ, hét lớn:
“-Này, cái thằng cai ngục kia, mày dám đánh trung sĩ không thì đến đây. Tao Trung Sĩ Dương Hùng Cường ba gai số một đây, giỏi thì đụng ông.
Anh cai ngục không vừa, xách cây hầm hầm đi đến: Ở tù rồi thì thằng nào cũng như thằng nào, bất kể quan quyền. Ở đây tao là người có quyền, cấp bậc trung sĩ của mày không phải là to đâu, ông đánh hết…
Trung Sĩ Dương Hùng Cường đứng chống nạnh: Giỏi thì cứ việc…
Đám tù đứng xổng người lên, một tay có vẻ ngang bướng: Mày mà đụng vào Trung Sĩ Cường hay bất cứ thằng nào ở đây nữa, chúng tao thịt mày liền.” (Trích hồi ký Nguyễn Thụy Long)
Giữa lúc căng thẳng đó, một nhân vật khác xuất hiện. Theo tác giả thì ông ta là trung sĩ “sếp sòng” ở cổng Phi Long, một người nổi tiếng hắc ám, từng phạt tân binh Nguyễn Thụy Long vài lần vì quân phục không nghiêm chỉnh.
Nắm bắt được vấn đề rất nhanh, ông cảnh cáo anh hạ sĩ coi tù rằng: “Thằng hạ sĩ còi kia, dù sao anh Cường cũng là hạ sĩ quan, mày không nên quá đáng. Thôi được, làm việc đi anh Cường. Tôi với anh là bạn, anh cứ cho nó thi hành nhiệm vụ, riêng với anh hưởng quy chế đặc biệt.”
Không đợi hạ sĩ cai ngục phản ứng, tác giả “Buồn Vui Phi Trường” nói lớn: “Mày coi chừng. Ông tướng tao còn không sợ, ‘mó dái ngựa’ đều đều nên mới phải vô đây, chúng mày chưa là cái giống gì…” (Trích hồi ký Nguyễn Thụy Long).
Vừa mới chứng kiến cảnh “nộ xung thiên” của ông nhà văn họ Dương, người Nguyễn Thụy Long ngưỡng mộ, mong sớm được gặp thì, tác giả “Loan Mắt Nhung” (sau này) đã bị ông “sếp sòng” cổng Phi Long thị uy, ra oai.
Lý do, ông Long được trung úy, sếp lớn, ra khẩu lệnh, mang đồ tiếp liệu về nhà riêng của ông ta, cũng trong vòng rào phi trường; nhưng không cấp giấy xuất kho, cũng không cấp giấy sử dụng công xa… Nếu bị kết tội thì đây là một trọng tội khiến người phạm tội sẽ phải ra tòa án binh; chắc chắn sẽ bị xử nhiều năm tù, và bị ghi vào quân bạ!…
Sau khi thông báo nội vụ cho cấp trên, ông trung sĩ “sếp” cổng Phi Long ra lệnh tống giam Nguyễn Thụy Long, ngay lập tức. Vì sự việc xảy ra vào lúc xế trưa, nên chiều hôm đó, ông Long không được cấp phát phần ăn. Nhà văn Dương Hùng Cường tình nguyện chia phần ăn của mình cho Nguyễn Thụy Long.
Với tư cách đàn anh đi trước, nhà văn Dương Hùng Cường tỏ dấu lo lắng cho Nguyễn Thụy Long. Ông hỏi Nguyễn Thụy Long, có thể có được một chứng cớ nào không? Thì, rất may là ông Long còn giữ trong túi mảnh giấy viết tay của ông trung úy, sếp lớn của tác giả “Kinh Nước Đen.” Bằng vào mảnh giấy có bút tự của viên trung úy kia, tác giả “Vĩnh Biệt Phượng” ngay buổi chiều ấy, đã cứu mạng Nguyễn Thụy Long trong gang tấc.
Trước đó, ông Cường cảnh cáo Nguyễn Thụy Long rằng: “…Mày chẳng là gì cả trong quân đội, một hạt cát, không được bằng một hạt cát, thân phận tối đen, tao đã trải qua rồi, tao nổi khùng, tao chửi toáng lên, sức mạnh của tao là ngòi bút, tao là văn sĩ mày biết không? Tao chống bất công ở bất cứ đâu…” (Trích hồi ký Nguyễn Thụy Long).
Tôi nghĩ khi ghi lại chuyện kể trên, ngoài việc muốn bày tỏ lòng biết ơn tác giả “Buồn Vui Phi Trường,” Nguyễn Thụy Long còn muốn cho độc giả thấy phẩm cách rất đáng kính trọng, đáng ngợi ca của nhà văn Dương Hùng Cường. Một nhân cách khá hiếm hoi, dù ở thành phần hay, giai đoạn nào trong xã hội!
Cũng chính Nguyễn Thụy Long đã ghi nhận rằng, chỉ vì tính cương cường chống lại mọi bất công áp bức của xã hội mà ông Cường dù tốt nghiệp chuyên môn ở trường huấn luyện Không Quân Marrakeck, Pháp, về nước, ông và các bạn đồng khóa được Tổng Thống Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh hưởng chức trung sĩ QLVNCH. Nhưng suốt thời Đệ Nhất Cộng Hòa và một nửa thời gian thuộc nền Đệ Nhị Cộng Hòa, ông vẫn chỉ mang cấp bậc trung sĩ, trong khi các bạn đồng khóa, hầu hết là sĩ quan, kể cả sĩ quan cao cấp…(2)
Du Tử Lê
Chú thích:
(1) Theo trang mạng Dòng Nhạc Xưa thì nhà văn Nguyễn Thụy Long sinh năm 1938, mất ngày 3 Tháng Chín, 2009, tại Sài Gòn, hưởng thọ 71 tuổi. Trong sự nghiệp văn chương của mình, Nguyễn Thụy Long đã viết hơn 30 truyện trong đó có 20 tác phẩm hiện được lưu trữ tại thư viện của Viện Đại học Cornell, New York. Ông vào đời sớm, có thể nói thủa thiếu thời và những ngày mới lớn, Nguyễn Thụy Long thật sự là người của hè phố. Ông lặn hụp kiếm sống với đủ thứ nghề như một kẻ bụi đời chính hiệu, nhưng trái tim ông lại thuộc về một thế giới khác: Thế giới của cảm xúc, biến mọi nhọc nhằn thành chất liệu cho ước mơ văn chương. Từ đó người đọc có thể bắt gặp nhân vật tiểu thuyết của Nguyễn Thụy Long có được sự nhẫn nhục và chịu đựng mọi nghịch cảnh một cách nhân ái, độ lượng. Một số những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Thụy Long, có thể kể: Chim Trên Ngọn Khô, Vác Ngà Voi, Sầu Đời, Vết Thù… đặc biệt “Loan Mắt Nhung,” tiểu thuyết được dàn dựng thành phim, do đạo diễn Lê Dân thực hiện. Qua cuốn phim này, nhà văn Nguyễn Thụy Long lại càng được độc giả, quần chúng yêu thích hơn nữa. (Nguồn Wikipedia)
(2) Trường Không Quân Marrakech ở căn cứ không quân Avord, miền Nam Paris, Pháp. (Wikipedia-Mở)
Nhớ bạn Dương Hùng Cường (Dê Húc Càn). - Chu Tất Tiến
Năm 1971, Dương Hùng Cường và tôi được xếp học chung một khóa 12 Sĩ Quan Căn Bản Chiến Tranh Chính Trị tại Đại Học CTCT, Đà Lạt. Chúng tôi ngủ chung trong một phòng rộng, chứa khoảng 30 học viên, gồm các Sĩ Quan từ các đơn vị được cử đến để được huấn luyện trở thành Sĩ Quan CTCT tại các đơn vị. Ngay từ ngày đầu gặp nhau, chúng tôi đã thấy mến nhau. Tôi mến Cường vì thái độ lịch thiệp lẫn chút tự hào của một nhà văn, nhà báo nổi tiếng, nhưng rất vui tính và hay kể chuyện tiếu lâm cho tôi nghe làm tôi cười muốn sặc. Cường thì khoái tôi vẽ chân dung bằng bút chì rất nhanh. Hai thằng thân nhau hồi nào không hay, mỗi khi tan lớp, nếu không đi uống cà phê ngoài chợ, tôi và Cường lại ngồi nói chuyện tếu. Tôi nhớ nhất chuyện Cường kể: “Cậu có biết phi công và phi cơ khác nhau chỗ nào không?” Tôi nhún vai, lắc đầu: “Tớ có trong không quân đâu mà biết!” Cường cười: “Này nhé, phi cơ thì càng lên càng nhỏ, còn phi công thì càng lên càng to!”
Cường có những ý kiến lạ lắm. Một chiều thứ Sáu, chờ giờ đi ăn cơm, đột nhiên Cường giơ lên cao một chai rượu vang và nói lớn: “Ê! Các cậu! Tớ có ý kiến này, vui vui. Trong nhóm mình ở đây, có nhiều chàng đẹp giai, ngon lành lắm. Tớ muốn tổ chức thi Hoa Hậu Nhà Binh, xem chàng nào đẹp giai nhất sẽ trúng giải Hoa Hậu Nhà Binh, tớ sẽ tặng chai rượu này.” Cả lớp ồn lên vui vẻ, người này chỉ người kia. Cường làm giám khảo. Sau khi đếm phiếu tay, Cường tuyên bố: “Nghe đây, tớ đếm được đa số chỉ vào cậu Tiến đẹp giai nhất. Nhân danh giám khảo, tớ trao giải Hoa Hậu Nhà Binh cho nhà thơ Chu Tất Tiến.” Cả lớp vỗ tay rần rần. Cường trịnh trọng trao chai rượu cho tôi, giữa tiếng cười vang trong căn phòng rộng. Sau khi khui chai rượu, chuyền tay nhau, mỗi người một ngụm, hai thằng khoác vai nhau ra chợ Đà Lạt uống cà phê.
Một hôm, Cường gọi tôi lại giường, nói nhỏ: “Này cậu, Chỉ Huy Trưởng vừa gọi tớ lên, nói tớ phải làm một tập san kỷ niệm. Cậu tiếp tay với tớ nhá!” Dĩ nhiên, tôi gật đầu liền. Cường chia nhiệm vụ: tôi làm chủ bút, kêu gọi cả khóa viết bài, rồi sắp xếp bài vở theo nội dung, đồng thời vẽ bìa cho tờ đặc san, cùng viết vài bài, thơ cũng như truyện ngắn. Cường làm Chủ Nhiệm, lo trình bầy tờ báo, cùng liên lạc với nhà in, lo tiền in (lấy của Trường), và theo dõi việc in, cắt xén, và phổ biến. Chúng tôi làm việc với nhau vui vẻ. Tờ đặc san in ra, nộp cho Trường, được Đại Tá Chỉ Huy Trưởng khen ngợi hết lời.
Môt chuyện bất ngờ với tôi khi vị Thiếu Tá Trưởng phòng Hành Chánh, gọi tôi lên bảo tôi lo tổ chức hai đêm văn nghệ dạ vũ, mời ca sĩ ngoài vào hát cho toàn thế Sinh Viên Sĩ Quan giải trí. Tôi thi hành ngay, tìm ban nhạc, lo âm thanh và trang trí hội trường bằng những chụp đèn giấy tôi vẽ và cắt xén, và nhờ Cường mời ca sĩ ngoài vào hát, vì danh tiếng của Cường thì cả nước biết, nên Cường ngỏ ý với ca sĩ nào là các cô nhận lời ngay. Trong hai lần văn nghệ đó, những ca sĩ do Cường mời đến đã làm cho đêm dạ vũ thật tưng bừng.
Thời gia qua mau. Đến lúc hết khóa học, chúng tôi bịn rịn chia tay, hẹn gặp ở Sàigòn. Sau khi về lại đơn vị, làm việc 24 giờ một ngày, tôi và Cường mấy tháng mới gặp nhau một lần.
Rồi Tháng Tư Đen ập tới như cơn lốc. Chúng tôi cùng bị đi đầy trong các trại tù khổ sai. Môt hôm, nhóm tôi đi lãnh gạo tại kho gạo Trung Đoàn. Đang đứng lớ ngớ bên cạnh những bạn tù khác từ các láng khác tới cũng chờ gạo, bất ngờ tôi nghe thấy tiếng nói nhỏ từ một bạn tù đứng gần: “Tiến! Tiến! Cậu nhớ tớ không?” Tôi quay lại thấy ông già đội nón vải rách, mặc quần xọc kaki ngắn đang nhìn tôi với đôi mắt tinh anh. Chưa nhận ra ai, thì ông già nói tiếp: “Cậu không nhận ra tớ à! Dê húc càn đây!” Trời! Bạn tôi gầy rộc, râu ria lởm chởm, tay chân đen đủi vì lấm than bùn mà tù phải nặn thành cục để đun bếp, nên nếu không xưng tên, thì không thể nào nhận ra nhà văn ngang tàng, lịch thiệp ngày nào. Tôi muốn ôm lấy bạn, nhưng trước chục cặp mắt của cai tù, tôi chỉ khẽ nắm tay Cường, lắc lắc, để nước mắt chầm chậm chẩy xuống, thương bạn quá!
Không biết nói gì lúc này, tôi chỉ móc túi, lấy ra mấy cục đường thẻ đen xì, gói trong miếng giấy, mà tôi mang theo để dành mút khi nào quá mệt, đưa cho bạn. Cường nói nhỏ, giọng xúc động: “Cám ơn cậu!” Chúng tôi trao đổi tâm tình bằng ánh mắt được vài phút thì tới phiên lấy gạo. Đấy là lần chót chúng tôi gặp nhau. Sau đó, chừng vài tháng gì đó, chúng tôi bị trại tù bắt ngồi coi phim “Em Bé Hà Nội” kể chuyện một em bé Hà Nội trong thời gian bị bom Mỹ tấn công. Ngày hôm sau họp cả trại, cai tù bắt chúng tôi nhận xét và phê bình phim. Cường không ở cùng khu với tôi, nhưng cũng cùng hoàn cảnh là bị xem phim rồi phê bình, dĩ nhiên, chắng ai có ý kiến gì. Sau đó, vài hôm, tôi nghe tin rù rì qua mấy người bạn: “Cường bị dẫn đi, bị đục rồi!” Nghe kể lại, thì khi ngồi xệp dưới đất, chờ phê bình, một tên cai tù chỉ vào Cường và nói: “Anh Cường, anh từng đóng phim, viết truyện, thì anh cho ý kiến đi!” Cường hiên ngang đứng lên, nói: “Nếu anh bảo đảm cho tôi nói thì tôi sẽ nói!” Cai tù đồng ý. Cường nói thẳng: “Theo tôi nhận xét, thì phim này là loại tuyên truyền vớ vẩn, đạo diễn dốt nát nên có những cảnh ngớ ngẩn, tài tử chưa học đóng phim…” Cường chê bai hết lời, khiến cho anh đội trưởng, cũng là tù, sợ quá, ngồi gần bên, cố ngắt lời Cường: “Thôi, đủ rồi! Anh Cường ngồi xuống. Hôm nay anh mệt rồi, không nên nói nữa.” Cường ngang ngạnh, cứ nói làm tên quản giáo cai tù xám cả mặt lại. Anh em thì sợ quá, sợ Cường bị chúng mang ra bắn chết.. Tình hình yên tĩnh được vài ngày, một buổi sáng kia, khoảng 5 giờ, hai tên vệ binh vào chỗ Cường nằm, thúc mũi súng vào bụng, quát lớn: “Dậy! Dậy mau! Đi làm việc!” Cường lóp ngóp ngồi dậy, không kịp lấy đồ riêng, thì đã bị trói, đẩy đi..
Từ đó, không ai nghe nói Cường bị đầy ải như thế nào, nhưng rồi có tin Cường được thả sau nhiều trận đòn gần chết, thì chúng thả ra, để rồi lại bị bắt về vụ “Biệt Kích Văn Nghệ” rồi tin Cường mất trong trại giam Phan Đăng Lưu. Có thể là bị chúng giết.
Người hùng trong cả hai phương diện văn chương và quân đội đã vĩnh biệt loài người ác thú để về nơi an nghỉ của những bậc anh hùng, tổ tiên đất Việt.
Một giòng nước mắt nhớ bạn.
Chu Tất Tiến.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét