Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Bảy, 25 tháng 1, 2025

Mùa Xuân của bà - Trần C. Trí


Hạnh Nguyên gọi bà là “Bà,” nên lắm khi cô phải mất công giải thích với bạn bè hay người quen rằng bà là bà nội chứ không phải là bà ngoại của cô. Lũ bạn của cô ở thành phố Sài Gòn này, tất nhiên đa số là người Nam, rất lấy làm ngạc nhiên về cách xưng hô kín đáo như thế. Thảo Mi, cô bạn thân nhất của cô, có lần bảo: Mùa Xuân đang về, Hạnh Nguyên nhớ bà. (Hình minh họa: Kao Nguyen/AFP via Getty Images) -Người Bắc với người Nam khác nhau về nhiều thứ quá, nhất là về mặt ngôn ngữ. Người Bắc lấy phần đầu của tiếng xưng hô, nên chỉ biết đó là ông hay bà, mà không biết ngay là bên nội hay bên ngoại. 
<!>
Còn trong nhà Mi, tụi Mi cứ “nội, nội, ngoại, ngoại” theo kiểu người Nam thường lấy phần sau của tiếng xưng hô. Thành thử nghe qua thì biết bên nào, mà lại chẳng biết đó là ông hay bà!

Hạnh Nguyên tủm tỉm cười, thầm nghĩ hãy còn nhiều điểm khác nhau nữa. Ví dụ như “Bà” của cô và “Nội” của Thảo Mi đúng là một trời một vực, cả về lời lẽ, cách ăn nói, cách phục sức, cách suy nghĩ… và mỗi người đều có những nét hay riêng của mình, không thể nói người Bắc hay người Nam, người nào hay hơn người nào. Nhưng bà là bà của Hạnh Nguyên, nên cô thấy mình có phần thiên vị. Hạnh Nguyên rất đỗi tự hào về giọng Bắc của bà và của cả gia đình mình. Sống ở Sài Gòn, vây quanh là người quen và bạn bè phần lớn nói giọng đậm chất miền Nam, Hạnh Nguyên chưa bao giờ cố tình giấu đi giọng Bắc của mình, trong khi vài đứa bạn người Bắc của cô lại cố tình giả giọng Nam lơ lớ, cô nghe mà buồn cười quá.

Hạnh Nguyên mê giọng Bắc của bà quá đỗi. Bố vẫn thường bảo giọng Bắc của bà như một bảo vật, một nét văn hóa của một thời quá khứ không sao tìm lại được nữa. Giọng của bà là giọng Hà Nội chính gốc, nghe sang cả, nhẹ nhàng, ấm áp. Mỗi lần nghe bà nói, Hạnh Nguyên cứ hình dung ra được ngã mình êm ái trên một tấm lụa mát rười rượi giữa trưa Hè nóng bức. Bà là cả một kho tàng ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam. Nhờ bà, Hạnh Nguyên mới hiểu rõ ý nghĩa sâu xa của những chữ thường dùng hằng ngày. Cô nhớ lúc còn học lớp 6, lớp 7 gì đó, có lần cô nũng nịu hỏi bà:
-Bà ơi, sao mình hay bảo là “buồn cười?” “Buồn” mà sao lại “cười” được, hở bà?

Bà mỉm cười, thong thả đọc một câu thơ trước khi trả lời cô:
-À, chẳng phải như câu thơ của ông Nguyễn Công Trứ “Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười” đâu, cháu ạ. “Buồn” ở đây có nghĩa là “có cảm giác muốn,” như lúc mình bảo “buồn ngủ,” “buồn nôn” vậy.

Trong khi Hạnh Nguyên đang thần người ra ngẫm nghĩ về lời giải thích đó, bà nói thêm:
-Chữ nghĩa trong tiếng Bắc cũng đa đoan lắm. Chữ “buồn” lại còn có một nghĩa khác nữa. Đó là cảm giác lúc ai cù nách mình.

Hạnh Nguyên cười khúc khích:
-Thế cơ ạ. Trong khi lũ bạn người Nam của cháu lại thấy “nhột” khi bị “thọc lét!”

Khoe với bà là mình cũng thành thạo tiếng Nam cho vui thôi, chứ Hạnh Nguyên cũng biết bà của cô là một kho kiến thức mà những người thuộc thế hệ của bà không phải là nhiều. Xuất thân từ một gia đình có học thức ở Hà Nội, với cụ nội của Hạnh Nguyên và giáo viên trường Bưởi thời Pháp thuộc, bà là cô con gái duy nhất, thời đó được học hết bằng Thành Chung, rồi sau đó là bằng tú tài tại trường Albert Sarraut, vào thời điểm đất nước sắp bị chia cắt. Bà kể với Hạnh Nguyên là trong giai đoạn cuối cùng đó, ngôi trường trung học của bà chuyển về địa điểm của trước kia là của trường Nữ Trung Học Pháp (Collège des Jeunes Filles Françaises).

Bà thông thạo tiếng Việt và tiếng Pháp đã đành, ở nhà bà còn được bố dạy thêm chữ Nho. Hạnh Nguyên đã được học với bà không biết bao nhiêu là chữ nghĩa và văn hóa Đông Tây. Dường như lúc nào bà cũng có sẵn những câu ca dao tục ngữ, không tiếng Việt hay tiếng Hán thì cũng là tiếng Tây. Chẳng hạn như lúc Hạnh Nguyên phân vân không biết nên chọn sinh ngữ nào, tiếng Anh hay tiếng Pháp, khi vào trung học, bà nhẹ nhàng xoa đầu cô bảo:
-“La nuit porte conseil,” cháu ạ. Ban đêm, lúc mọi thứ đều im ắng, là lúc thần trí mình tỉnh táo, sáng suốt lắm. Đêm tối sẽ mang lại cho cháu lời khuyên thích đáng nhất.

Bà luôn nhắc Hạnh Nguyên trau dồi nữ công gia chánh, dạy cô thêu thùa, làm bánh trái. Mẹ Hạnh Nguyên chẳng phải lo gì về chuyện này. Những lúc bà tỉ mỉ chỉ vẽ Hạnh Nguyên thêu từng đường chỉ màu trên cái khung vải căng tròn có phác sẵn hình hai con chim hạc, bà lại thủ thỉ:
-“Gái trong kim chỉ, trai ngoài bút nghiên.” Câu này thật ra cũng không công bằng lắm về chuyện nam nữ bình quyền, nhưng dù sao bà cũng thấy nó hay ở chỗ là đã làm nổi bật lên vai trò của người phụ nữ Việt Nam. Cháu may vá khéo, nấu nướng giỏi thì tự dưng làm cho mình có một sức hấp dẫn vừa kín đáo, vừa mạnh mẽ của người thiếu nữ.

Ngày Tết, Hạnh Nguyên nũng nịu vòi bà lì xì, bà mỉm cười nói:
-Bà chỉ muốn mừng tuổi cháu thôi, không lì xì, lì xiếc gì cả!

Hạnh Nguyên tròn xoe mắt nhìn bà:
-Sao vậy hở bà?

Bà từ tốn giảng giải:
-“Lì xì” là tiếng Tàu Quảng Đông, phiên âm qua tiếng Hán-Việt là “lợi thị,” có nghĩa là “được lợi lộc.” Ý nghĩa này nghe chẳng hay ho gì cả. Người Việt mình cho con cháu những cái phong bao đỏ, trong có đựng những tờ giấy bạc mới tinh tươm, thơm tho, là để mừng một cách tượng trưng khi con cháu được thêm một tuổi mới vào ngày Tết, chứ không phải là để cầu mong lợi lộc gì đâu.

Bà nói những điều đó khi Hạnh Nguyên còn ở bậc trung học đệ nhất cấp, nên cô cũng không thật thấu hiểu. Tuy vậy, cô vẫn cảm được một cái gì đó mỗi lần bà nhắc đến những gì thuộc về mùa Xuân, về Tết nhất. Đó là một sự pha trộn lạ lùng giữa vui và buồn trong ánh mắt, trong giọng nói của bà. Khi bà nói về những cái Tết năm xưa ở ngoài Bắc, lúc bà đang độ thanh xuân, mắt bà ngời sáng, long lanh, nhưng Hạnh Nguyên cũng cảm thấy đâu đó pha lẫn một nỗi buồn, một niềm tiếc nuối nào đó trong giọng kể của bà.

Bà thường khoe với Hạnh Nguyên một cái trâm làm bằng đồi mồi thật mà bà quý hơn bất cứ thứ gì trên đời. Bà cất nó trong một cái tráp bạc, cùng với nhiều món trang sức khác. Bà kể cho Hạnh Nguyên nghe:

-Đa số các nữ sinh có Tây học như bà ngày xưa thường bắt chước những cô đầm trẻ tổ chức sinh nhật hằng năm cho ra vẻ thời thượng. Nhưng bà vẫn giữ truyền thống trong gia đình là mừng tuổi mới của mình vào ngày Mùng Một Tết. Cái trâm này đánh dấu mùa Xuân bà bước vào tuổi mười lăm, đang học năm đầu của bậc trung học. Thời đó, tuổi mười lăm của người con gái còn được gọi là tuổi cài trâm. Bên Tàu thì họ gọi là tuổi cập kê đó cháu.

Rồi bà cầm cái trâm lên, giữ nó trong lòng bàn tay, hết sức nhẹ nhàng, tựa hồ như sợ làm nó gãy, như thể nếu nó bị gãy thì một điều gì quý giá của bà cũng theo nó mà tan biến đi mất. Những lúc ấy, bà như quên Hạnh Nguyên vẫn đang ngồi bên cạnh, mà chìm vào một thế giới xa vời nào, thế giới của một thời tuổi trẻ xa xưa, lúc bà còn là một thiếu nữ xinh tươi, hồn nhiên của một Hà Nội thuở vàng son ngày trước.


Bà mừng tuổi cháu. (Hình minh họa: Linh Pham/Getty Images)

Bà ít khi nhắc đến ông. Khi Hạnh Nguyên ra đời, ông đã mất trước đó vài năm. Cô chỉ biết ông là người Sài Gòn. Bà và ông gặp nhau một thời gian sau khi bà cùng gia đình di cư vào Nam, lúc hiệp định Genève làm chia đôi đất nước. Bố kể cho Hạnh Nguyên nghe là ông làm công chức trong Tòa Đô Chánh Sài Gòn. Gia đình nhỏ của bố, với ông bà và người con trai duy nhất là bố, sống một cuộc đời phẳng lặng, êm ả giữa lòng thủ đô hoa lệ của miền Nam, khi đó chiến tranh chưa trở nên sôi động. Hình ảnh của ông và những gì thuộc về ông thật mờ nhạt trong trí Hạnh Nguyên, vì bà, tuy là một người hay kể chuyện, lại ít có những mẩu chuyện về ông để kể cho cô nghe.

Bà mất năm Hạnh Nguyên sắp lên mười tám tuổi. Lúc ấy, chỉ còn vài tháng nữa là Tết lại về. Trong nỗi buồn rưng rức thương nhớ bà, Hạnh Nguyên còn có thêm một niềm tiếc nuối vô bờ là sẽ không bao giờ được cùng bà đón Tết nữa. Sẽ không bao giờ cô còn được nép vào lòng bà, hít hà mùi thơm dịu ngọt từ bộ quần áo lụa lúc nào cũng thẳng thớm bà thường mặc, cả mùi thơm da thịt quen thuộc của bà, để nghe những mẩu chuyện ngày Xuân bà thường kể. Cô sẽ không được học thêm chữ nghĩa nào do bà chỉ dạy, dù là tiếng Tây, tiếng Tàu hay tiếng Việt. Cô sẽ không còn nghe câu ca dao tục ngữ mới mẻ nào do bà ngâm nga cho cô nghe nữa. Một cánh cửa to lớn, vô hình nào đó vừa khép lại. Vĩnh viễn.

Tết năm ấy, Hạnh Nguyên đón tuổi mười tám trong những cảm xúc vừa mới lạ, vừa ngậm ngùi. Ngày trước, mỗi lần Tết đến, năm nào cũng như năm nào, bà vẫn không quên nheo mắt, trêu cháu:
-Ối dà, năm nay cháu của bà lại lên một tuổi nữa rồi nhé! Cháu bà xinh và ngoan lắm!

Và Hạnh Nguyên lại xấu hổ lẫn sung sướng, ôm lấy bà, thơm lên má bà như những ngày cô còn thơ bé. Rồi bà ân cần trao cho cô phong bao mừng tuổi đỏ thắm, bâng khuâng ôm cô vào lòng, mắt mơ màng nhìn vào một cõi nào xa xăm. Quanh hai bà cháu, mùa Xuân thấm đẫm những màu sắc rực rỡ của hoa quả, bánh trái, mùi pháo thơm nồng trong không gian, cùng tiếng nhạc Xuân loáng thoáng đâu đó từ nhà hàng xóm nào vẳng lại. Hạnh Nguyên ôm lấy vai bà, âu yếm hỏi:
-Bà ơi, sao cháu thấy mỗi lần Tết về bà cũng có vẻ đăm chiêu thế ạ? Bà nhớ những ngày Tết ngày xưa hay sao hở bà?

Bà chỉ cười nhẹ, trả lời một cách mơ hồ:
-Ừ, có lẽ thế. Thế nào rồi cũng có lúc bà kể cho cháu nghe mọi chuyện, chịu không nào?

Những lời bà nói, Hạnh Nguyên còn nghe vang vang trong ký ức, tựa hồ như bà vẫn quanh đây, vẫn còn ngồi cạnh cô, rủ rỉ những lời lẽ thân quen không bao giờ cô quên được. Hạnh Nguyên ngước nhìn bức ảnh gia đình treo trên tường, có ông bà, có bố mẹ và cô, bức ảnh của một thời tất cả còn có nhau, của một thời thơ ấu hạnh phúc của cô.

Mùa Xuân đang len lỏi vào không gian êm ả của buổi sáng đầu năm. Hạnh Nguyên đứng dậy, tiến đến bàn thờ tổ tiên với bộ lư đồng và cặp chân đèn sáng choang mà bố đã cẩn thận đánh bóng vào những ngày cuối năm, với bình hoa lay ơn đỏ thắm và những món mứt Tết, bánh chưng, dưa đỏ… Cô thắp mấy nén hương, kính cẩn cắm vào cái lư đồng, thầm thì xin ông bà tổ tiên phù hộ cho gia đình trong năm mới.

Xong xuôi, cô trở lại chiếc sofa, ngã người xuống, nghe lòng bất chợt bình yên, thanh thản. Mẹ cô đang lúi lúi dưới bếp, trông nồi thịt kho măng đang sôi sùng sục trên lò. Lúc Hạnh Nguyên đang dõi mắt theo mấy con chim nhỏ nhảy nhót trong ánh nắng đầu năm và nghe tiếng pháo từ xa xa, bố từ gian phòng trong bước ra, tiến đến gần cô, dịu dàng hỏi:
-Đầu năm mà con gái bố trông đầy suy tư thế con?

Hạnh Nguyên hơi giật mình, ngoảnh lại cười với bố:
-Vâng, con đang nhớ đến bà và hưởng không khí yên ả của ngày đầu năm, bố ạ.

Bố đang cầm một cái gì đó trong tay, ngồi xuống bên Hạnh Nguyên:
-Bố có cái này cho con. Quà mừng tuổi của bà cho con này!

Hạnh Nguyên sững người, đỡ lấy cái phong bì màu trắng ngà, cồm cộm một vật gì bên trong, từ tay bố:
-Bố… nhưng mà bà đã… Con không hiểu!

Bố nói, giọng đầy cảm xúc:
-Ừ, bà không còn nữa con ạ, nhưng đây là món quà bà trao cho bố lúc bà đã thấy yếu trong người, dặn dò bố trao lại cho con đúng vào ngày Tết, lúc con tròn mười tám tuổi.

Hạnh Nguyên run run mở phong bì ra, thấy cái trâm cài tóc quen thuộc của bà và một mẩu giấy nhỏ, có hàng chữ rắn rỏi, tuy nét mực đã khá phai mờ, ghi những dòng như sau: “Trao về Hải Thụy, với tất cả lòng quý mến. Mừng tuổi cài trâm của cô bạn nhỏ và một mùa Xuân tròn ước vọng!” Phía dòng chữ “Xuân Tân Mão, 1951” là tên “Tuấn Khải,” cùng một chữ ký thật bay bướm.

Tự nãy giờ, bố vẫn ngồi im, quan sát phản ứng của con gái. Hạnh Nguyên nghe cay cay trong mắt, quay qua nhìn bố:
-Bà muốn cho con cái trâm này lúc con mười tám tuổi hở bố?

Bố khẽ gật đầu, giọng ông đầy xúc động:
-Phải, con ạ. Bà muốn bố thay bà kể cho con nghe lai lịch của cái trâm. Bà nhận món quà này đúng vào cái Tết bà tròn mười lăm tuổi, tuổi cài trâm. Tuấn Khải, người tặng cái trâm này là bạn học cùng lớp với bà ở trường Albert Sarraut.

Hạnh Nguyên à lên một tiếng:
-Thảo nào con thấy mỗi lần Tết đến, bà như sống trong một thế giới riêng nào đó, bố ạ.

Bố nói tiếp, giọng nghe như từ một chốn xa xôi nào vọng lại:
-Đúng thế. Tết, đối với bà, là một thời điểm đầy cảm xúc, lẫn lộn giữa vui và buồn. Bà kể với bố rằng ông Tuấn Khải là người mà bà có những tình cảm đẹp đẽ đầu tiên của một người thiếu nữ dành cho người bạn khác phái. Cái trâm này đánh dấu một trong những kỷ niệm đẹp của bà về người bạn đó…

Hạnh Nguyên nôn nao, hỏi chen vào:
-Nhưng, có chuyện gì không vui cho bà vậy bố?

Bố chậc lưỡi:
-Người bạn trai này là con nhà giàu, ở cùng vùng Từ Liêm như gia đình ông bà nội của bố, gần cửa Tây thời ấy, con ạ. Không lâu sau đó, gia đình gửi ông ta sang Pháp du học. Mới đầu, ông ta còn thư từ về cho bà, rồi về sau thưa thớt dần, đến khi không còn tin tức gì nữa cả… cho đến tận ngày bà học xong bậc trung học, cùng gia đình vào Nam, lúc ấy chẳng còn tăm hơi gì của ông ta nữa.
-Bà còn giữ những lá thư đó không hở bố?

Bố gật, rồi lại lắc đầu:
-Có, con ạ. Nhưng về sau bà đốt cả rồi, chỉ để lại duy nhất mẩu thư nhỏ kèm theo cái trâm này như con thấy.

Bố đứng lên, đi về phía bàn thờ, thắp thêm vài cây hương. Mùi trầm bay lững lờ trong gian nhà rộng. Hạnh Nguyên áp cái trâm vào ngực, bồi hồi hình dung ra bà là một thiếu nữ xinh đẹp thời ấy, cùng một người con trai hẳn là cũng hào hoa, phong nhã, nhưng lại là một người đã chóng quên đi cô bạn gái lúc qua trời Tây, gặp bao nhiêu điều mới lạ. Cô bùi ngùi tự hỏi vì sao bà lại muốn bố kể cho mình nghe câu chuyện này lúc bà đã khuất, thay vì chính bà kể cho cô nghe trong những lúc hai bà cháu chuyện trò tương đắc. Hay vì có những thứ trong cuộc sống này người ta không đủ can đảm tự mình nhắc đến?

Mặt trời bên ngoài đã lên cao. Nắng Xuân như đậm đặc lại hơn một chút, nhưng vẫn giữ nguyên màu vàng óng ả trong ngày đầu năm. Hạnh Nguyên nghe như có bà đâu đây, cúi xuống mỉm cười với cô cháu nhỏ, hài lòng, thanh thỏa vì cuối cùng đã giữ được lời hứa kể lại nỗi niềm của mình mỗi độ Xuân về. Bây giờ, hẳn bà đã không còn khắc khoải mong một cánh thư nào, hay chờ nhận một mẩu tin từ phương xa nào nữa. Hạnh Nguyên liếc nhìn dòng chữ của người con trai năm nào, thầm nghĩ, giờ đây bà đã có một mùa Xuân với tất cả tâm tình lắng đọng, một mùa Xuân cho riêng mình, không vì một ai khác trên đời nữa. [qd]

Không có nhận xét nào: