Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Sáu, 6 tháng 12, 2024

MỘT LẦN VĨNH BIỆT - Bùi Đức Tính


Trời chưa sáng, gió chắc còn say ngủ đâu đâu, không khí chừng như không di động. Nằm trong mấy tấm vách, che mưa gió tạm bợ bằng tôn lẫn giấy thùng tạp nhạp, hơi nóng hâm hẩm. Vạc cây làm giường chông chênh khập khểnh, oi nồng mùi máu lẫn mùi xác rệp, mùi chăn chiếu cũ của một người đi định cư bỏ lại, quen thuộc như đêm trong trại tù. Mấy ngày nay, lắm lúc tôi cứ ngỡ ngàng khi chợt tỉnh nhớ ra thấy mình đang ở trên đảo Bidong hướng về quê hương Việt Nam của tôi đã xa mịt mờ trong nước mắt.
<!>
"Tự Do hởi Tự Do"
" Vì hai chữ Tự Do, tôi mang đời lưu vong".
Trăn trở mãicũng không ngủ thêm được,tôi ngồi dậy vói tay mò tìm khúc thuốc đã hút một đoạn đêm hôm qua, cất để dành trên khung cửa, rồi thả bộ xuống bãi biển.
Sáng sớm, nhưng cũng có người thức sớm, đã ra đây từ hồi nào rồi. Nhóm hai ba người, vài ba người đơn độc. Quanh tôi là những người đã cao tuổi, không biết vì giấc ngủ đã trở nên khó khăn ngắn đi hay khoắc khoải ưu tư thương nhớ quê nhà; tất cả hầu như lặng yên ngồi hút thuốc nhìn ra khơi.

Trời yên gió, đại dương trông thật yên bình. Cầu Jetty dài thẳng tấp, tôi trải mắt nhìn theo đến khi nhịp cầu chìm vào sương mù. Đêm tàu sắp đến cửa biển, hình ảnh cầu tàu dẫn lên trạm công an biên phòng mù mờ trong mưa, chừng như đã làm 73 trái tim của người vượt biển đồng ngưng đập... Hình ảnh những cầu tàu gợi nhắc lắm luyến nhớ bến nhà lẫn xót đau căm thù loài cộng phỉ. Chiều tối mấy hôm trước đây, những người sống sót của tàu 3392 đã được bước chân lên cầu Jetty để vào Pulau Bidong. Cầu Jetty đã đón dẫn, tiển đưa người tỵ nạn cộng sản đến thế giới Tự Do, gắn liền với chuỗi ngày tạm trú trên Bidong, lưu lại lắm kỹ niệm trong lòng người tỵ nạn.
Tôi nghe nói, mỗi khi có chuyến tiển đưa người ra đi định cư, Phòng Thông Tin sẽ phát thanh bài Biển Nhớ và Nghìn Trùng Xa Cách, với tiếng hát của Lệ Thu. Cũng 5 năm rồi, tôi chưa được nghe lại tiếng hát của Lệ Thu; từ ngày bè lũ giặc cộng bài trừ cấm đoán văn nghệ miền Nam, độc quyền cho các loại văn nghệ ca tụng chủ nghĩa của bọn văn nô. Có người bảo tôi, Lệ Thu cũng đang ở trên đảo. Còn ở đây, chắc tôi sẽ có dịp sẽ gặp lại, nghe chị đàn hát với thân hữu, được nghe lại tiếng hát Lệ Thu từ loa phát thanh trên đảo. Phải công nhận lời nhạc Biển Nhớ và Nghìn Trùng Xa Cách cũng trùng hợp với tâm tình tiển biệt nơi đây lắm. Lắm nước mắt cho người còn phải ở lại đảo và cũng lắm nước mắt cho người ra đi định cư. Có điều, từ ngày các loài hồ cáo và bè lũ đón gió trở cờ đã trân tráo hiện hình lộ diện, nhiều người đã không muốn nhắc nhớ đến cái tên tác giả; xin nhường chờ cho chứng nhân lịch sử phê phán...
Hôm nay, tôi sẽ được trở ra cầu Jetty, theo tàu của Cảnh sát Mã Lai sang Cơ quan Cảnh sát bên Thành phố Terengganu để ghi nhận thêm lời khai, hầu truy tìm hai tàu hải tặc Thái Lan đã dã man tấn công và húc chìm tàu chúng tôi.
Không mấy chốc ngày đã rạng sáng, biển thật đẹp trong ánh bình minh. Biết đến bao giờ tôi sẽ được trở về quê hương trong một ngày yên bình và rực sáng ánh Tự Do.

Tối hôm qua, Thành từ nhà người quen về có ghé bàn bạc, chúng tôi đều ưu tư về chuyến đi sang Thành Phố sáng mai. Thành có đưa mời một điếu thuốc đã để dành cho tôi. Ngồi nói chuyện, đốt hút khơi khơi hơi phí, tôi để dành đến khuya mới tẩn mẩn thưởng thức một phần, xem như thuốc ngon nửa điếu vậy. Không thấy bao hiệu, chắc là thuốc hút loại bình dân làm tại Mã Lai, khói nặng như Bastos Xanh. Khúc thuốc sót lại, sáng nay hút được vài lần đã cháy sát đến phần đầu lọc. Đóm lửa ấm trong lòng bàn tay không mấy chốc đã tàn lụi, khói thuốc loáng thoáng vụt bay theo gió biển. Khi được tàu đánh cá Mã Lai vớt lên, tôi chỉ còn cái quần ngắn trên người, đây là tài sản duy nhất và cũng là kỹ niệm Mẹ đã may cho, khi tôi trốn xuống tàu với thằng Vũ. Tiếc nhớ mấy buổi sáng mới lảnh lương, được ngồi thư thả nhìn khói thuốc Pall Mall cùng giọt cà phê chậm chậm rơi.Trên đảo, bây giờ không biết từ đâu tới, tôi thấy nhiều người bày bán cái gói thuốc hút, cũng có cái gói thuốc màu đỏ sậm mà tôi mê và nhớ mấy năm nay. Biết thân phận mình, tôi đi qua chỉ ngắm nhìn, lờ đi chuyện ghé lại thăm hỏi linh tinh. Nhớ lắm! Mở gói thuốc mới, lướt nhẹ điếu thuốc không đầu lọc thon dài ngang mủi, hương thơm mê mẩn, phê cả người...
Loay hoay với khúc đầu lọc trên tay một lúc, tôi vùi lấp vào trong cát rồi đứng dậy để đi lần xuống biển. Tiếng sóng rì rào đùa vào bãi, cát ướt chen giữa các ngón chân trần. Nước biển mát lạnh, ngập dần đến ngang ngực, nghe lòng bàn chân bắt đầu bước trên san hô, tôi phóng người bơi ra khơi.
Suốt đêm thứ Bảy đến hôm sáng Chủ Nhật vừa qua, không biết bao nhiêu thuyền nhân còn sống sót như Thành và tôi, còn lênh đênh ôm ván bơi giữa đại dương? Tôi hướng về một nơi ven chân trời, không xa nơi đây lắm, lòng biển còn đang ôm ấp thi thể của các thuyền nhân đồng hành hay ngọn sóng đang tiển đưa xác thân người bất hạnh đi vào hư vô. Đã gần một tuần rồi, ngoài 17 người đã được tàu cứu vớt, chưa có tin gì thêm của các thân hữu trên tàu.
Mẹ Việt Nam ơi, biển sâu cùng hoang đảo và rừng sâu đã là nơi những đứa con khao khát Tự Do đã phải bỏ lại xác thân. Vị mặn của biển Đông hôm nay có phải đang hòa cùng những giòng máu của gần triệu thuyền nhân bất hạnh. Tâm trí mênh mang, tôi cứ bơi đến khi thấm mệt, nhìn lại đã ra ngoài biển sâu. Theo sóng, tôi thả người bơi trở vô bờ để còn trở về thay đồ, chờ Văn Phòng gọi đi sang Terengganu.

Khởi đầu, hồ sơ của tàu nhập đảo ghi tôi là người cầm cái cần lái tàu, qua chữ nghĩa tiếng Anh bỗng nhiên tôi là thuyền trưởng để đại diện cho cho tàu về thủ tục hành chánh và cho tôi mang thêm điều tủi nhục là đã không chết theo tàu.
Rất may, các cảnh sát Mã Lai phỏng vấn chúng tôi có gốc hay biết nói tiếng Hoa và Thành sẵn lòng giúp về phần ngôn ngữ. Có người cùng tàu, ôm cùng tấm ván bơi đến khi được vớt lên, đã hiểu rõ chuyện, giúp thông dịch vẫn xác thực hơn là nhờ người khác.
Thành và tôi theo người cảnh sát đi ra cầu Jetty. Bãi biển lài, cầu tàu khá dài. Đếm theo bước chân, tôi ước lượng cầu có chiều dài khoảng 80 mét.
Xa ngoài đầu cầu, một chiếc tàu đang chờ chúng tôi tự hồi nào. Tàu có bề ngang chắc tương đương với PCF Duyên tốc đỉnh, nhưng phần mũi dài hơn gấp đôi và trắng đẹp thanh nhả như tàu dân sự.
Khi tàu đánh cá chở tôi vào bờ, cảnh sát viên lay tỉnh tôi rồi đưa về phỏng vấn ở cơ quan trên đảo Telipok, mặc thường phục. Hôm nay, người đi với chúng tôi cùng thuyền trưởng và hai nhân viên trên tàu cũng mặc thường phục. Như thế này, đi chung với họ tôi thấy dễ chịu hơn. Nghỉ đến cái bộ dạng tỵ nạn với áo quần phai bạc bê bết lại có nhân viên sắc phục cảnh sát đi kèm, trông mình giống như là kẻ tội phạm; nhất là cùng đi sang Kuala Terangganu, thành phố lớn nhất và cũng là thủ đô của tỉnh bang Terengganu, cũng ái ngại lắm. Chẳng rõ tổ chức cảnh sát có ý tế nhị hay không, chúng tôi vẫn thầm cám ơn cảnh sát Mã Lai rất nhiều.
Kuala Terangganu chỉ cách Trại Tỵ Nạn cộng sản của người Việt mình chừng 30km theo đường chỉ thẳng.
Tàu rời bến, tiếng máy thật êm, lướt vùn vụt như đang bay trên đầu sóng. Rất có thể, vì động cơ phối hợp với hệ thống thủy phản lực của các tàu vận chuyển này, cầu được đặt tên là Jetty. Tôi thương nhớ chiếc 3392 của chúng tôi. Chiếc tàu mũi bầu bĩnh chở hàng trong sông, cố giúp đưa chúng tôi vượt biển rộng đi tìm Tự Do. Thương tiếc con tàu đã phải nặng nề hứng chịu sóng gió ngoài biển khơi và tan nát thân xác vì thù hằn của bọn hải tặc bất nhân. Có chiếc tàu như tàu cảnh sát, không cần chi đến súng đạn võ trang, chỉ cần phân nửa tốc độ, bọn hải tặc vô phương theo đuổi hay hãm hại chúng tôi.
Mặt trời đang ở chếch trước mũi. Tàu không xuôi về nam như tôi nghỉ, lại lấy hướng đông, chạy bọc vòng qua hòn đảo nhỏ Pulau Karah.
Đồng bào trên Bidong trông hình đặt tên, Pulau Karah được gọi là đảo Cá Mập và Pulau Bidong của chúng tôi, đang mờ nhỏ lại dần, trông rất giống với tên đảo Con Rùa.
Huyền thoại lịch sử có kể truyền về rùa vàng, rùa thần.
Thần Kim Quy đã linh ứng đáp ứng lời khẩn cầu của An Dương Vương. Thần hiến kế giúp vua xây thành hình trôn ốc và tặng móng vuốt của thần cho vua làm lẫy nỏ. Thành Cổ Loa và Linh Quang Kim Quy Thần Nỏ, đã một thời bảo vệ nước Âu Lạc, chiến thắng quân xâm lược phương Bắc của Triệu Đà. Thần Kim Quy lại xuất hiện trong chuyện tích về cuộc dấy quân khởi nghĩa Lam Sơn, đánh đuổi quân Minh, dành lại độc lập cho Đại Việt của Lê Lợi, qua thanh kiếm Thuận Thiên và Hồ Hoàn Kiếm.
Người làm ăn, mê tín dị đoan, thường kỵ con rùa!
Hôm nay đây, Bidong hiền hòa nằm đấy, trông như Con Rùa giữa đại dương. Con Rùa Bidong đang bao dung che chở và ban cho hàng trăm ngàn thuyền nhân tỵ nạn cộng sản có được thế giới của Tự Do, tạm trú để chờ ngày đi định cư.
Nhân Dân Việt Nam không thể chỉ cầu nguyện cho Thần Kim Quy sẽ nổi giận, trừng trị loài quỷ đỏ bạo tàn trên quê hương, hay mong chờ Lê Lợi được Thuận Thiên Kiếm. Tôi tin rằng mỗi người dân đang có trong tay Thuận Thiên Kiếm, hờn căm sẽ biến thành triệu triệu Linh Quang Kim Quy Thần Nỏ. Đảng cộng sản phải bị tận diệt trước khi đất biển Việt Nam bị dâng hiến hết cho quan thầy của chúng nó. Người Việt chúng ta không thể chui lùi vào thời kỳ làm nô lệ!
Ngoảnh lại, đảo Con Rùa đã xa khuất bên dưới chân trời, bây giờ xung quanh tàu chỉ còn thấy trời và biển. Qua khung kính,đứng bên trong nhìn ra mặt biển,Thành và tôi dò kiếm dấu vết quen thuộc liên hệ với chiếc 3392. Thỉnh thoảng trên bọt sóng trắng có những mảnh rác sậm màu cây gỗ, chúng tôi lại nhìn nhau,lòng tự hỏi có phải chăng đây là mảnh ván vụn từ xác tàu mình?!
- Hello!
Cùng quay lại tìm người gọi, thấy Mohez thân thiện đưa gói thuốc mời. Chúng tôi cám ơn anh chàng cảnh sát tốt bụng rồi mồi điếu thuốc hút và nói chuyện với Moez.
Thuốc có hiệu chữ Mã Lai, khói thơm giống giống như Ruby Queen ngày trước. Từ khi cái lũ cộng phỉ lểnh nghểnh đầy phố phường miền Nam, tôi ráng dằn lòng hoài vẫn chưa được; cứ mỗi lần trông thấy điếu thuốc lại nhớ đến loại thuốc hút có cái tên rất dị hợm là Sài Gòn "giải phóng". Người ta nói rằng cái thứ này có mùi khói như Ruby chi chi đó. Chỉ cần nghe thấy mấy cái chữ "giải phóng" của bè lũ cộng sản bất nhân là máu hận đã sôi sục rồi, tôi ghét cái thứ chữ nghĩa của bọn cốt đột "phỏng dái" ấy lắm!
Tôi hận cái lối ghép chữ này vô cùng, lũ chúng nó đã sĩ nhục tên gọi Sài Gòn kính mến và đồng bào miền Nam!
Đảng cướp cộng sản cưởng đoạt quyền Tự Do, quyền được làm người của đồng bào Sài Gòn, của toàn dân Việt Nam, lại gian xảo rêu rao là... giải phóng.
Đồng bào không cần cái loại giải phóng chết tiệt của đảng cộng sản súc vật!
Tôi căm thù cộng sản, đâm ra ghét cay ghét đắng cái tên thuốc lá có chữ "giãi phóng" của bè lũ chúng nó. Không cần biết cái thứ thuốc hút này là thuốc cũ hiệu mới, ngon hay tồi ra sao... tôi nhất định không thèm hút, thà vấn thuốc rê hút thấy phê hơn hay thàcứ nhịn thèm! Moez ân cần:
- Miss your boat?
Ngôn ngữ còn giới hạn, tôi vắn tắt đáp lời:
- Yes, very much.
Đứng hút thuốc, góp chuyện với nhau một lúc, tôi để Thành và Moez nói trực tiếp với nhau cho dễ, trở lại khung cửa kính và biển nước. Mới hơn 9 giờ sáng. Hôm sáng Chủ Nhật, giờ này Thành và tôi vẫn còn ôm nấp hầm mũi tàu bơi; tâm tư tôi chìm trôi bồng bềnh theo những đợt sóng trắng ngoài khơi.
- Anh Tính...
Nghe gọi, tôi xoay lại, chưa kịp hỏi thì Thành tiếp ngay:
- Moez cho hay, cảnh sát đang tìm nơi mình bị cướp, sắp tới chỗ tàu tụi mình chìm.
Tôi ngạc nhiên nhìn Thành và Moez. Như hiểu chuyện chúng tôi nói với nhau, Moez gật đầu xác nhận và chỉ về phía trước:
- Few minutes.
Một lúc sau, động cơ giảm bớt tốc độ. Bên trong tàu, qua cửa kính tầm nhìn bị che khuất. Không biết là sắp tới hay cảnh sát đang chậm lại chỉ để tìm kiếm, tôi bồn chồn hết ngó Moez cùng các nhân viên trong phòng lái rồi nhìn ra ngoài biển ngóng tìm. Thời gian trôi qua, nhìn mãi ngoài biển cũng chỉ thấy biển với sóng. Chúng tôi bảo nhau, gần cả tuần rồi, chắc sóng lớn làm tróc neo hay bứt dây neo và cuốn tàu mình đi mất rồi.
- Come, come... follow me.
Moez rời phòng lái, vẫy gọi chúng tôi và bước nhanh ra phía sau đuôi tàu.
Động cơ chậm lại, thân tàu hạ xuống nằm trên mặt biển bị sóng đẫy đùa, thân tàu lắc lư lao chao. 4 người cùng bước ra đứng ngoài đuôi, ngó tìm kiếm mãi chỉ thấy trời biển trùng trùng. Moez và người bạn cảnh sát lớn tiếng thăm hỏi với thuyền truởng bên trong. Hiểu ý chúng tôi cũng muốn biết câu chuyện, Moez giãi thích:
- Thuyền trưởng nghỉ rằng dấu hiệu trên radar rất có thể là phần mũi của chiếc tàu. Ông ấy tin là tàu đang chạy đúng hướng, chắc là tụi mình bị sóng cao che khuất tầm nhìn...
- Here, she is!

Có tiếng gọi lớn của thuyền trưởng, báo tin cho chúng tôi. Tàu tăng thêm tốc độ, lướt nhanh lên rồi đảo vòng ngang. Và đây, xa xa ngoài khơi, một khối gỗ đen nhấp nhô ẩn hiện theo sóng. Tàu vòng gần lại hơn, tôi có thể nhận ra phần sơn đỏ của đà mũi và con mắt kình ngư cẩn bên dưới. Không phải thăm hỏi thêm, các nhân viên cảnh sát biết chắc rằng đây là phần xác thân duy nhất còn xót lại của chiếc 3392, họ lặng yên cùng chia xẻ xót đau với chúng tôi. Dây neo căng giữ mũi tàu cất lên trên sóng, trông như con cá già đã kiệt sức, ráng trồi lên hớp những hơi thở sau cùng.
Hình ảnh mũi tàu quen thuộc chợt cay mờ trong mắt tôi. Đại dương quanh tôi bỗng chìm vào màn đêm, đêm hải chiến với lửa hận bập bùng trên chai bom xăng của những thuyền nhân bất khuất. Tôi nghe tiếng máy dầu cặn gào hú sôi sục uất hờn. Tôi nghe thân tàu bị chấn động mạnh, tiếng nổ tan nát linh hồn, đổ vỡ hỗn độn, tiếng người đau đớn kêu gào vang dậy, thân xác chơi vơi trong biển nước. Sóng tràn ngập ngăn nghẹn hơi thở. Tất cả đột ngột tan biến, chỉ còn lại đêm dài, đen tối cùng sóng biển.
Tàu chạy đến gần hơn, nhưng thuyền trưởng vẫn thận trọng giữ khoảng cách khá xa nơi tàu chìm, rồi dừng lại cho Moez chụp một số ảnh. Đợt sóng cao đẩy mũi tàu lên, lộ ra khung cửa vuông thông xuống hầm mũi; nơi ấy tôi đã leo lên tháo lấy nấp hầm, làm phao nương tựa bơi qua đêm. Chiếc 3392 chỉ còn sót lại bấy nhiêu đấy! Ngoài mũi tàu, quanh đây không còn dấu vết gì của nạn nhân trên mặt biển.
Vượt trốn cộng sản là đã chấp nhận chết để đánh đổi lấy Tự Do, dù chỉ là Tự Do cho linh hồn mình. Biết thân phận cô thế thiếu võ trang súng đạn, chống lại bọn hải tặc là trăm phần mất mạng, thuyền nhân 3392 vẫn cam đảm chọn hy sinh bản thân để bảo vệ con tàu và thân quyến. 73 người cùng nhau thoát được gông cùm cộng sản, giờ phút này còn 56 người không rõ tính mạng ra sao,đang nơi đâu. Moez đứng giữa vỗ vai Thành và tôi:
- ... Going to Terengganu... OK... come inside!
Tàu chậm chậm khởi chạy, rồi lướt sóng phóng đi.
Chúng tôi luyến tiếc nhìn vói theo mũi tàu đang khuất nhanh trong sóng. Thương con tàu vô cùng, nó đã cùng tôi san sẻ lắm kỹ niệm trong những tháng ngày nắng mưa trên sông biển quê hương. Quý mến con tàu đã che chở sóng bão và hải tặc bạo tàn, cho chúng tôi thoát thân đến bến bờ Tự Do. Bây giờ phải rời bỏ mũi tàu, lòng xót xa đau như phải bỏ lại một phần thi thể của chiến hữu dũng cảm trên chiến trận.

Mấy ngày nay, 17 người sống sót ráng nhớ về hai chiếc tàu cùng bọn hải tặc. Đêm hôm qua tôi không ngủ được, sáng mai đi mà chẳng gom góp thêm được chứng tích gì rõ ràng hơn.
Trong trận hổn chiến với tàu cướp, mạng sống quá mỏng manh, không ai tâm trí đâu để nghĩ đến chuyện sống sót, để nhận diện bọn chúng sau này. Ngoại trừ chiếc tàu tham chiến sau, sơn màu xám tro dị biệt, nhưng lúc nó tới trời đã tối lại giữ khoảng cách khá xa, ít khi dùng đèn rọi,nên không thấy rõ mặt thủy thủ đoàn. Chiếc kia, như hầu hết tàu đánh cá Thái, tụi nó sơn loè loẹt, xanh cam vàng đỏ, tương tự như nhau. Không ai thấy số tàu, chắc chúng nó gian manh che đậy mất, còn tên tàu là chữ Thái Lan ngoằn nghèo. Tôi chỉ nhớ thằng Thái Lan lấy cuộn dây có cái đầu cạo trọc lóc. Cái bản mặt của mấy thằng hải tặc vận xà-rong, thằng nào cũng đen đủi và trông tương tự như nhau, cùng một loài quỷ quái... rất khó nhớ hay phân biệt được.
Chuyến đi sang Terengganu hôm nay, coi như thủ tục sau cùng của cảnh sát tỉnh bang, hy vọng nhận diện hay truy tìm được hai tàu hải tặc ấy rất mong manh.
Bây giờ đã là cuối tháng Ba, nhắc nhớ Ngày Quốc Hận 30 tháng Tư.
Đất nước không vương vào khổ nạn cộng sản, đồng bào đã không phải chết trong uất hờn. Hàng triệu hồn oan từ thời Cải Cách, Đấu Tố, thảm sát Mậu Thân còn vất vưởng oán than. Vì hai chữ Tự Do hàng triệu đồng bào đã phải xa lìa quê hương. Triệu người đã không sống sót để ghi lại những trang sử đen hãi hùng, khi Nhân Quyền bị đảng cưởng đoạt, Tổ Quốc Việt Nam bị cộng sản dày xéo bán dưng.
Cho đến hơi thở sau cùng, cùng hồn thiêng của thuyền nhân bất hạnh, tôi thề không bao giờ quên tội ác của loài cộng sản và bọn hải tặc Thái Lan!
Xót đau, tôi quay tìm về nơi mũi tàu đã bị bỏ lại:
- Thượng Đế hởi, cái giá cho Tự Do cho đồng bào tôi sao vô cùng khắc nghiệt.
Một lần đi, đã thực sự là một lần vĩnh biệt!
Kính dâng nén hương tưởng niệm Ngày Quốc Hận.

CSVSQ
Bùi Đức Tính

Không có nhận xét nào: