Tôi là người bình thường và tầm thường về mọi mặt trong xã hội. Tôi lớn lên trong chiến tranh. Vì vậy tôi phải thay đổi chỗ ở liên tục khi mới lên năm tuổi từ quê nội ở An Phú về quê ngoại ở Bình Chuẩn (tỉnh Bình Dương), rồi từ Bình Chuẩn ra Lái Thiêu và Sài Gòn v.v..Thuở ấu thời tôi thường không có mặt ở nhà suốt ngày. Tôi ngao du đó đây một mình. Tôi không mang tiếng phá phách ai, không đánh lộn với trẻ nít đồng lứa và cũng không chọc phá thú dữ để gây náo động trong thành phố. Tôi thích đọc báo và thường giao tiếp với vị sư trụ trì ở chùa Giác Nguyên ở Phú Long (ông Thầy Chùa Lùn) và một tu sĩ tại gia có liên hệ thân thuộc với gia đình tôi: Ông Phạm Văn Cơ ở Tân Thới, Lái Thiêu. Tôi có đức tin Phật Giáo nhưng tôi không phải là Phật tử. Tôi không qui y, không ăn chay và không đi chùa.
<!>
Cha tôi mất sớm. Việc học hành của tôi không bị gián đoạn. Các anh và chị dâu của tôi đều tốt với tôi mặc dầu tôi không giúp ích gì cho các anh chị tôi. Khác với thời thơ ấu, tôi trở thành một học sinh giỏi toàn diện mặc dầu tôi không có dấu hiệu gì của người siêng học, cũng không có những cố gắng vượt bực nào. Nói theo ngôn từ của người xưa, tôi là người không biết lo. Thực sự mà nói, tôi không đến nỗi là người vô trách nhiệm hay lười biếng mà là người không lo lắng bẩm sinh mặc dầu trên thực tế, cuộc đời của tôi có lắm chuyện phải lo. Nói cách khác, tôi là người phó thác mọi việc cho Ơn Trên. Từ một đứa trẻ học kém thuở ấu thời, tôi bỗng chốc trở thành một học sinh giỏi, thành công nhiều, thất bại ít. Là một người tầm thường và bình thường, sự thành công cũng không có gì to lớn mà thất bại cũng không đến nỗi kinh hoàng. Tất cả đều không do tôi hay bất cứ ai trong gia đình tôi định đoạt mà do Thiên cơ vô hình an bài sắp đặt sau một thời gian thử thách ngay từ lúc mới lên năm tuổi.
Gia đình tôi không theo đạo Christ. Nhưng cha tôi luôn luôn tổ chức ăn “Réveillon” vào đêm 24 rạng 25 tháng 12 mỗi năm lúc người còn sống. Việc làm của cha tôi có vẻ khác thường đối với những người chung quanh chịu ảnh hưởng Tam Giáo như gia đình tôi. Ɖiều đáng nói là quê nội của tôi là một vùng đất hầu như vô sinh ở Nam Bộ, một vùng đất không sông, không suối, không núi, không đồng ruộng! Dân trong làng không làm nghề nông. Về tín ngưỡng làng không có chùa, không nhà thờ mà chỉ có một cái đình thờ đại phu Phạm Văn Trực, người có công dìu dắt một số dân từ miền Nam Trung Bộ đến lập làng dưới triều vua Tự Ɖức. Quê ngoại tôi có một nhà thờ Thiên Chúa Giáo nhưng không có tín đồ nên không thấy có hoạt động. Có thể giáo đường nầy được xây ở nơi thôn dã trong thời kỳ triều Nguyễn thi hành chánh sách bài đạo Thiên Chúa gắt gao vào thế kỷ XIX. Làng quê ngoại tôi có một ngôi chùa nằm trên ranh hai xã Bình Chuẩn - Thuận Giao. Làng không có đình mà có một cái miếu.
Bối cảnh sống như trên cho thấy quê nội và quê ngoại tôi cũng như gia đình tôi không có liên hệ gì với đức Chúa Jesus. Trong bài viết này tôi xin lược thuật lại những giấc chiêm bao mà Chúa Jesus cho tôi được diện kiến NGƯỜI để báo trước vài điều quan trọng tuần tự theo thời gian từ năm 1965 đến 1985.
***
Tôi chịu ảnh hưởng của triết lý Phật Giáo và hệ thống luân lý, đạo đức cùng trật tự gia đình, xã hội và quốc gia của Khổng Phu Tử. Trên thực tế tôi không thuộc tôn giáo nào rõ rệt cả. Từ năm 1965 đến 1985 tôi được Chúa Jesus cho tôi gặp ba lần trong giấc ngủ và một lần trong lúc thiền trong một buổi trưa nóng bức. Bốn lần Chúa Jesus cho gặp được phân chia như sau:
Số Lần Gặp Chúa
Thời GianThời Gian
Nơi Gặp
Lần thứ nhất
1965
Sài Gòn
Lần thứ hai
1978
Thị Nghè
Lần thứ ba
1982
Lái Thiêu
Lần thứ tư
1985
Palawan (Phi Luật Tân)
Lần thứ nhất:
Lần đầu tiên tôi nằm chiêm bao thấy Chúa Jesus là ngày 27-01-1965. Lúc ấy tôi sống chung với anh tôi ở số 38-42 Nguyễn Huệ Sài Gòn. Tôi gặp Chúa Jesus, người cao lớn như các tượng thường thấy, đã hơi sạm nắng. Chúa mặc áo đỏ. Tôi như người bị mất điện. Tự nhiên nổi da gà và tim đập nhanh vì sợ trong khi Chúa không có vẻ gì dữ dằn cả. Chúa đưa ngón tay trỏ áp vào ngực và nói: “Ɖại chiến”. Tôi sợ quá, quỳ xuống và cầu xin một cách vụng dại: “Xin Chúa đừng để đại chiến xảy ra trên đất nước tôi. Dân tôi quá khổ vì chinh chiến. Xin Chúa đừng để đại chiến xảy ra”. Lời cầu xin của tôi thật sự vụng dại và thô kệch nhưng rất thành thật. Vụng dại vì tôi mất điện khi gặp Chúa khiến lời nói của tôi không được mạch lạc, trau chuốt và lịch sự trước Chúa. Nhưng đó là những lời cầu xin thành thật từ đáy lòng. Chúa Jesus không nói gì thêm. Người lặng lẽ bước đi lúc nào tôi không hay biết.
Tôi không sao nối lại giấc ngủ. Tim vẫn còn đập mạnh. Tôi gõ cửa gọi anh Phạm Ɖình Hưng dậy và tường thuật cho anh tôi về giấc chiêm bao đặc biệt vừa qua. Anh tôi còn thèm ngủ nên không để ý đến sự lo lắng và sợ sệt có vẻ phi lý của tôi. Anh nằm xuống giường ngủ tiếp. Tôi ngồi thẫn thờ cho đến sáng.
Hoa Kỳ gia tăng oanh tạc miền Bắc. Tướng Nguyễn Khánh lo ngại phi cơ Mig của Cộng Sản miền Bắc có thể oanh tạc miền Nam để trả đũa việc phi cơ Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa oanh tạc phía bắc vĩ tuyến 17. Lúc ấy anh tôi mới để ý đến giấc chiêm bao của tôi. Tháng 6 năm 1965 200.000 quân sĩ Hoa Kỳ được phái sang miền Nam Việt Nam để ngăn chận làn sóng Cộng Sản tràn xuống Ɖông Nam Á. Hoa Kỳ oanh tạc miền Bắc. Ɖại chiến có thể bùng nổ nếu Trung Quốc và Liên Sô nhảy vào vòng chiến trợ sức cho miền Bắc để đánh nhau với quân Hoa Kỳ. Cuộc chiến trở nên đẫm máu mặc dù Liên Sô và Trung Quốc không trực tiếp đưa quân vào miền Bắc để tạo thăng bằng quân sự với Hoa Kỳ.
Cuộc chiến kết thúc đối với Hoa Kỳ sau khi hiệp định Paris được ký kết ngày 27-01-1973, nghĩa là tám năm sau ngày tôi nằm chiêm bao thấy đức Chúa Jesus lần đầu tiên. Hoa Kỳ rời khỏi miền Nam Việt Nam. Ɖại chiến được tránh khỏi. Tôi xem đó là sự hồi âm ngấm ngầm của Chúa Jesus trước sự khẩn cầu của tôi. Nhớ lại lúc tôi cầu xin, Chúa không nói “thuận” hay “không” mà im lặng bước đi. Dù sao hiệp định Paris cũng làm giảm sự đổ máu, mồ hôi và nước mắt của dân chúng hai miền Nam-Bắc. Hòa bình lơ lửng đỡ hơn đại chiến. Hai năm sau miền Nam thất thủ. Ɖổ nhiều mồ hôi và nước mắt sau năm 1975 vẫn nhẹ hơn đổ máu triền miên vì chinh chiến. Ɖó là cách cho cái XẤU để tránh cái TỆ có sẵn trong bộ máy Trời.
Lần thứ hai:
Mười ba năm sau đúng vào ngày tôi nằm chiêm bao thấy Chúa Jesus lần thứ nhất, tôi được gặp lại Chúa trong nhà anh NKL. Khoảng xế chiều ngày 27-01-1978 tôi ghé thăm anh ở Thị Nghè. Ɖiều không may cho tôi là bạn tôi bị bắt và bị đưa vào nhà lao ngày hôm ấy nên tôi bị công an giữ lại để điều tra. Trời sụp tối. Tôi buồn ngủ vô hạn sau khi ăn một ổ bánh mì do một người công an bắt giữ tôi mua giùm. Tôi ngủ một giấc ngủ say trên ghế sa-lông trong nhà bạn tôi cơ hồ như không có chuyện gì xảy ra với tôi mặc dù tay tôi bị còng trên ghế.
Trước cảnh đen tối vì mất tự do trong những ngày sắp tới, tôi lại có một giấc ngủ an lành vì quá mệt mỏi. Giữa đêm tôi thấy Chúa Jesus mặc quần áo trắng đặt tay NGƯỜI lên tay tôi và thăng lên TRỜI. Lần nầy tôi không bị mất nhân điện, không bị nổi da gà. Nhưng tôi sợ điếng hồn khi thấy ba tảng mây đen cuồn cuộn kéo đến tựa hồ như những đợt sóng biển nước đen ngòm tràn đến bên tôi. Tôi giật mình mở mắt ra thì thấy đèn trong phòng khách nhà anh L. vẫn sáng choang. Mọi người đều ngủ say kể cả hai người công an canh giữ tôi. Tôi vui mừng vì biết tôi sẽ được cứu. Tôi nối lại giấc ngủ một cách bình thản. Sáng sớm hai người công an canh giữ tôi nhận lịnh của Sở Công An thành phố cho tôi được tự do nhưng phải giữ tất cả giấy tờ của tôi và tôi phải trình diện ở Sở Công An thành phố Hồ Chí Minh trên đường Trần Hưng Ɖạo mỗi tuần một lần vào ngày thứ tư.
Lần gặp Chúa Jesus nầy tôi giữ kín hoàn toàn. Anh tôi học tập cải tạo ở miền Bắc. Nếu anh ở nhà, tôi cũng không nói chuyện nầy. Mẹ tôi và vợ tôi hoàn toàn không hay biết gì về chuyện nầy. Lúc vượt biên và được tàu Jean Charcot gởi trong trại tỵ nạn Palawan, tôi mới cho anh tôi biết về việc tôi bị công an TP Hồ Chí Minh điều tra ngót năm năm vì một chuyện không đâu.
Các năm 1978, 1979, 1980 là ba năm khủng khiếp trong đời tôi. Tôi không tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống ngoại trừ trách nhiệm đối với gia đình. Tự nhiên hai tay tôi bị ghẻ nhức nhối và sưng vù đến cầm chén cơm ăn cũng không vững. Tôi cương quyết không chữa mặc dù nhức nhối khó chịu và không sao ngủ được. Ȏng bà giáo sư C.L. đến thăm và mang cho tôi thuốc xức lẫn thuốc uống. Tôi cảm ơn lòng tốt của người Thầy khả kính nhưng cương quyết không chữa trị. Trong thâm tâm tôi đó là cách tự hủy bằng “phương tiện” sẵn có (ghẻ nhức nhối). Hình như Ơn Trên thấy tinh thần và thể xác của tôi sa sút quá nên cho chứng ghẻ nhức nhối nầy chóng lành dù không chữa trị chi cả.
Mấy cây mận quanh nhà đầy trái đến nỗi ai đi ngang qua cũng phải ngước nhìn và trầm trồ khen ngợi. Chim sẻ qui tụ trên mấy cây mận quanh nhà. Sáng chiều đều có tiếng chim sẻ dễ thương để có chút an ủi giữa lúc thể xác bị tàn phá. Vì biết chim sẻ tụ về trên các cây mận quanh nhà tôi, các cán bộ Cộng Sản địa phương dùng súng carbine để bắn chúng lấy thịt bồi dưỡng. Ɖàn chim sẻ không xem các cây mận quanh nhà tôi là vùng đất lành nên bỏ đi. Có những đêm tôi cảm thấy sung sướng kỳ lạ. Tôi có cảm giác như các huyệt mạch trong người khai thông. Nhưng huyệt lực khai thông ảnh hưởng gì đến sự vui sướng mà người cảm nhận không biết tại sao? Dường như có một lúc nào đó làm cho tôi lạc quan để quên đi ý nghĩ ngông cuồng vì sự khổ sở mọi mặt trong kiếp sống trần gian. Khả năng có; tinh thần hăng say công việc còn, siêng năng trong công việc còn; trách nhiệm đối với gia đình, xã hội và đất nước còn đủ. Nhưng tất cả trở thành tội và bị xử phạt trong cảnh sống dở, chết dở và chịu nhục với đời.
Một điều lạ lùng là trong sự khốn khổ tột cùng và trước sự đe dọa căng thẳng về tù tội, tôi không một thoáng sợ hãi vì tôi có hai sự chọn lựa rõ ràng: cái chết và đức tin. Nếu không can đảm sống trong bối cảnh hiện hữu thì chết đi. Nếu sống, phải vững niềm tin rằng Thượng Ɖế không bỏ rơi mình một cách đau đớn và nhục nhã như vậy.
Ɖiều lạ là từ năm 1978 đến 1983 tôi sống cơ cực tột cùng, không có giấy tờ tùy thân nào trong người. Lạ thay! Tôi vẫn được tự do và an toàn. Không ai hỏi chứng minh nhân dân của tôi, cũng không có chuyện gì phải cần đến chứng minh nhân dân suốt năm năm đó.
Thiên Cơ sắp đặt cho tôi tự cứu bằng châm cứu, một phương pháp trị liệu mà trước đó tôi xem thường, bằng cách xui khiến vợ chồng một thầy giáo quen biết nhưng không thân thiện gây gổ nhau. Anh thầy giáo mang một bao đồ đến gởi ở nhà tôi. Trong thời buổi khó khăn mà nhận đồ gởi không cần biết là đồ gì thật là nguy hiểm. Tôi là người dè dặt nhưng không biết tại sao tôi hoàn toàn không để ý đến chuyện nầy. Anh giáo đặt một quyển sách Châm Cứu của Thượng Trúc trên bàn phòng khách của tôi như một món quà tinh thần ngầm cám ơn chuyện gởi đồ. Cứ mỗi tuần anh ghé nhà tôi để thăm bao đồ anh đã gởi. Thấy cuốn sách Châm Cứu vẫn nằm trên bàn chứng tỏ tôi không quan tâm đến nó, anh khuyến khích tôi đọc:
– Anh nên đọc cuốn sách này. Anh giáo nói.
– Tôi đang phế bỏ võ công thì đọc cuốn sách này để làm gì? Cái tôi đã có tôi phải bỏ. Vậy học cái mới để làm gì? Người học có thầy còn không làm gì được, tôi làm được gì sau khi đọc nó? Tôi nói.
– Tôi biết anh thừa sức tự học và hành. Anh mà nhúng tay vào, tôi chắc anh hơn chúng tôi nhiều. Anh giáo nói.
Tôi im lặng không nói gì thêm. Anh giáo đến nhà và thuyết phục tôi đọc quyển sách Châm Cứu đến lần thứ năm. Một ánh sáng lóe trong đầu tôi. Tôi tự hỏi, anh ấy có lợi gì khi thuyết phục tôi đọc quyển sách Châm Cứu? Dù tôi đọc quyển sách trên bàn hay không, anh vẫn để bao đồ trong nhà tôi. Một lần nữa tôi nghi rằng Ơn Trên muốn tôi quan tâm đến phương pháp chữa trị mà trước đó tôi không tin và không bao giờ để tâm đến. Ɖó là nhược điểm của người chịu ảnh hưởng sâu đậm văn hóa Tây Phương và khuynh hướng Duy Vật Vô Thần.
Tôi bắt đầu đọc cuốn sách. Tâm trí trở nên u tối, tôi không hiểu gì cả. Tôi không ngã lòng. Tôi tự tìm cách thấu triệt nội dung quyển Châm Cứu bằng phương pháp riêng của mình qua liên hệ của lục phủ, ngũ tạng, nguồn gốc các loại bịnh, cách tìm huyệt, ý nghĩa của các huyệt bằng những hình vẽ thô sơ. Sau hai tuần anh giáo đến nhà và nghe tôi nói chuyện châm cứu lưu loát như người đã học và hành nghề khá lâu. Anh giáo không ngần ngại xin lại quyển sách. Tôi không phiền trách gì cả vì tôi không hề nghĩ đến việc tìm hiểu phương pháp trị liệu này khi tự nhận mình là người tự phế võ công.
Anh giáo rời khỏi nhà tôi với bao đồ và quyển sách Châm Cứu không bao lâu thì anh cả tôi từ Sài Gòn lên ghé nhà tôi trước khi về An Phú trông coi việc trồng trọt khoai củ và các loại đậu. Ɖược biết chuyện anh giáo vừa “mượn” lại quyển sách Châm Cứu, anh tôi nói:
– Tuần tới anh về Sài Gòn và đem về cho chú nhiều sách châm cứu cùng cả đồ hình nữa.
Tôi quên anh tôi có học châm cứu với Diệp Cẩm Huê ở An Ɖông. Vì tôi nói anh không có tay phục dược và không có số giữ tiền nên anh tôi thôi học châm cứu.
Chiều hôm ấy Khưu Quang cho tôi nhiều sách về Ɖông Y mà em mua trên vỉa hè với giá rẻ như bèo. Thế là tôi mất một quyển sách. Vài tiếng đồng hồ sau tôi có nhiều quyển sách khác thay vào.
Sáng ngày hôm sau, anh Cảnh, chủ nhà thuốc Tây tại địa phương, tặng tôi sách châm cứu và gõ kim hoa mai. Ɖiều đáng nói là anh Cảnh và tôi chưa quen nhau, cũng chưa tiếp xúc lần nào. Sự trùng hợp ngẫu nhiên là anh Cảnh và Khưu Quang đều không biết gì về cuốn sách châm cứu mà ông thầy giáo đặt trên bàn trong phòng khách của tôi. Những cuốn sách mà anh Cảnh và em Khưu Quang biếu tôi đều là sách Ɖông Y có vài chục trang nói về châm cứu. Phải đợi đến một tuần sau tôi mới có đủ sách châm cứu do anh cả tôi đem về từ Sài Gòn.
Tôi nằm trên đống sách Ɖông Y Châm Cứu và miệt mài tìm hiểu về Ɖông Y, Châm Cứu và Nam Dược trong hoàn cảnh sống thiếu thốn lúc bấy giờ. Tôi quên rằng gia đình tôi đang trong cảnh túng thiếu ngặt nghèo giữa lúc tôi miệt mài với Âm Dương Ngũ Hành, Ngũ Hành Tương Sinh Tương Khắc với những khẩu hiệu nam bất thiểu trần bì, nữ bất ly hương phụ, tương quan giữa các kinh mạch v.v..
Nhờ châm cứu mà tôi có dịp biết nhiều chuyện ngoài xã hội mặc dù không đọc báo. Nhờ nó tôi tự bảo vệ sức khỏe cho bản thân, cho gia đình và có cơ hội giúp ích cho một số người cần đến sự chữa trị của tôi. Nó làm cho người công an điều tra tôi tại địa phương bớt hung hãn với tôi, trái lại trở nên thân thiện hơn. Nhiều người khuyên tôi nên thận trọng vì chánh quyền có thể gây khó dễ cho tôi về chuyên môn lẫn chánh trị. Tôi có nghĩ đến chuyện nầy nhưng vẫn làm theo con đường đã vạch ra. Sự lo âu của tôi được giải tỏa khi Năm Tường, chủ tịch Hội Chữ Thập Ɖỏ huyện Thuận An (tên mới của Lái Thiêu, hiện nay là thành phố) đến nhờ tôi chữa trị chứng nhức đầu của ông ấy. Tôi trình bày sự lo ngại của tôi và được Năm Tường trấn an:
– Anh đừng lo nghĩ gì cả. Cứ chữa trị giúp cho đồng bào. Anh thiếu cái gì cho tôi biết, xem có thể giúp được gì cho anh.
Lời nói của Năm Tường như là giấy phép hành nghề châm cứu miễn phí hợp pháp của tôi vậy.
Những năm đen tối 1978, 1979, 1980 sắp qua. Ɖể đảm bảo sự sống và trang bị ngoại ngữ cho con cái, Thượng Ɖế xui khiến một cô giáo biết tôi (nhưng tôi không biết cô ấy) chận xe đạp tôi lại trên hương lộ nối liền Lái Thiêu và Thủ Ɖức khi tôi từ quê nội về nhà vào một buổi chiều. Cô giáo nói:
– Thầy không làm rẫy được đâu. Thầy mở lớp dạy sinh ngữ đi. Tôi gởi con và giới thiệu người đến học.
– Cám ơn mỹ ý của cô. Tôi không dám làm đâu. Chánh phủ cấm dạy sinh ngữ vì cho rằng dạy sinh ngữ là khuyến khích người ta vượt biên. Tôi không dám làm ngược lại đâu. Tôi đáp một cách yếu ớt và bi quan.
– Có gì mà sợ. Thầy nghe tôi đi.
Cô giáo nói như một lịnh chuyển cho tôi. Tôi cám ơn cô giáo. Trong hoàn cảnh đen tối ít ra có một người kém hơn mình nhưng hiểu mình và có quyết tâm hơn mình. Tôi phải vận dụng trí thông minh của mình tối đa để xem người cô giáo không hề nói chuyện một lần nầy như là “sứ giả” chuyển lời từ một LỰC siêu nhiên nào đó. Tôi hơi hổ thẹn vì kém dũng cảm hơn cô giáo. Tôi làm theo lời cô. Thế là tôi có hai công việc thường xuyên một ngày: châm cứu và dạy sinh ngữ tại nhà.
Chánh quyền nơi tôi cư ngụ làm ngơ cho tôi mở lớp sinh ngữ dạy kiếm sống. Nhưng người công an Bảo Vệ Chánh Trị tỉnh Sông Bé (người mới) có hạch hỏi tôi về chuyện nầy:
– Anh dạy sinh ngữ cho người vượt biên? Người công an hỏi.
– Tôi dạy sinh ngữ như người mở cửa tiệm bán hàng. Người bán hàng không hỏi người mua hàng để làm gì thì tôi cũng không hỏi người học sinh ngữ để làm gì? Nếu người bán hàng tò mò quá, ai dám tới mua hàng của anh ta. Tôi cũng vậy. Tôi đáp.
– Anh dạy như vậy có khai báo với chánh quyền và đóng thuế không?
– Không. Nhưng cả xã ai cũng biết. Tôi kiếm sống không đủ, có đâu mà đóng thuế. Tôi đáp.
Người công an nhìn thân hình gầy đét của tôi như mặc nhiên xác nhận lời nói thành thật của tôi.
Lớp sinh ngữ của tôi cực kỳ hỗn tạp vì tuổi tác và trình độ học vấn của người học khác nhau nên sự tiếp thu không đồng đều. 95% các em học lớp sinh ngữ tại gia nầy đều sống ở Hoa Kỳ, Canada, Úc, Pháp và Tây Ɖức sau nầy. Có vài em chỉ học cho vui nhưng cuối cùng cũng được sang Hoa Kỳ vì có chồng “Việt kiều”. Ɖặc biệt lớp nầy có ba bác sĩ (một ở Việt Nam, hai ở Hoa Kỳ), một Pharm D, một giáo sư tiến sĩ Pharmacology (Hoa Kỳ), một Scientist (Chemistry). Ɖó là niềm vui tinh thần của tôi sau ba áng mây đen.
Lần thứ ba:
Ba áng mây đen lần lượt trôi qua. Cảnh túng thiếu vẫn bao vây tôi. Bù lại tôi vẫn được tự do. Tôi tìm hạnh phúc trong việc chữa bịnh bằng châm cứu với những kết quả khích lệ được báo chí địa phương ghi nhận.
Trong thời gian sống dưới tân chế độ và từ năm 1980 về sau tôi được thấy nhiều điềm chiêm bao lạ báo trước việc tôi sắp rời khỏi quê hương. Những giấc chiêm bao gồm tên người, địa danh đa số xoay quanh chữ Long.
Tôi thấy bạn Lâm Vĩnh Thế và cầu Phú Hòa Ɖông (cầu nầy không có trên thực tế). Tôi thấy giáo sư Châu Long, hai bạn Nguyễn Thái Long và Nguyễn Thanh Long, sông Phước Long đầy nước và rộng mênh mông (sông nầy không có trên thực tế), một đàn dê (Dê: Dương – Hán Việt. Dương cũng có nghĩa là biển, đại dương – Thái Bình Dương – ứng với hướng đông của Phú Hòa Ɖông), thành Long Thành v.v… Khi thuật lại các giấc mơ, vợ tôi cho rằng tôi mơ tưởng vượt biên nên mới thấy như vậy. Thú thật tôi không bao giờ mơ tưởng vượt biên vì đâu còn một chỉ vàng nào trong nhà để nghĩ đến chuyện mơ hồ vượt khỏi tầm tay.
Năm 1982 tôi có vài thành quả trong châm cứu trị liệu sau khi chữa khỏi:
– một người bị stroke nằm liệt và không nói năng được.
– một lão niên lãng tai phục hồi thính giác.
– một người đau nhức xương sống, khi đi mặt hướng về mặt đất,
– một lão niên bị huyết tiện.
– một thanh niên bị bịnh tim trầm trọng v.v..
Tôi được mời nói chuyện về Châm Cứu, Thuốc Nam và khai thông về nơi sinh của nhà thơ Nguyễn Ɖình Chiểu tức Ɖồ Chiểu, tác giả Lục Vân Tiên.
Lần thứ ba tôi gặp Chúa trong lúc ngồi thiền tại nhà vào một buổi trưa hè nóng nực năm 1982. Tôi thấy Chúa Jesus ở Phú Hòa Ɖông. Chúa mặc áo đỏ có phần trắng, da sạm nắng và trán rịn mồ hôi. Trông NGƯỜI có vẻ mỏi mệt lắm. NGƯỜI cầm cây đuốc đưa cho tôi. Tôi lễ độ chối từ vì thấy không có đủ tư cách để nhận công việc thiêng liêng cao cả ấy nên thưa rằng:
– Thưa Chúa, con không dám nhận cây đuốc do Chúa trao.
Cuộc giao tiếp đến đây thì mất. Bên ngoài có tiếng ca èo uột của một nữ ca sĩ tài tử người miền Nam diễn tả bài Dáng Ɖứng Bến Tre. Tôi có thuật chuyện nầy cho Nam, Hải (đã mất) và Tâm (hiện ở Michigan) nghe khi các em từ Hóc Môn sang Lái Thiêu thăm tôi.
Cũng trong năm ấy, một đêm tôi chiêm bao thấy một xác chết nằm trên Quốc Lộ 13 xã Vĩnh Phú vào một ngày trời mưa lất phất. Xác chết được quấn chặt bằng vải trắng từ đầu đến chân nên tôi không nhận dạng được người chết. Tôi tự nhủ có thể cứu sống xác chết nầy. Tôi tiến gần xác chết và dùng kim châm vào huyệt Tam Âm Giao. Tức thì xác chết ngẩng đầu lên. Tôi la lên “Ɖức Mẹ” thì xác chết biến mất. Ɖó là lần duy nhất tôi thấy Ɖức Mẹ trong chiêm bao dưới dạng một xác chết ở xã Vĩnh Phú.
Tôi gặp một trường hợp tương tự ngoài đời khi ở trong trại tỵ nạn Bataan, Phi Luật Tân, năm 1985. Một buổi xế chiều tôi và em tôi đi xuống suối tắm. Chung quanh suối có rừng chồi và nhiều mỏm đá tạo thành một vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Bỗng có tiếng la thét giữa rừng. Một người đàn ông Phi Luật Tân té xuống đất vừa dãy dụa vừa la thét chát chúa rồi nằm bất động trên một đường mòn cách nơi chúng tôi đi vài trăm thước. Tôi than nhỏ với em tôi:
– Không xong rồi. Mình đứng trước một hoàn cảnh khó xử. Thấy người như vậy mà không ra tay cứu giúp thì lương tâm bất ổn. Mà ra tay không có kết quả, trái lại anh ta chết thì tự rước họa vào thân. Anh nầy có thể là thành viên của Huks (Cộng Sản Phi) vì quanh đây đâu có dân sinh sống.
Tuy nói vậy tôi vẫn tiến đến nơi người Phi nằm. Tôi chỉ em tôi bấm huyệt Tam Âm Giao, còn tôi bấm huyệt Túc Tam Lý. Không đầy năm phút, người Phi tỉnh lại. Anh đứng dậy. Hai anh em tôi dìu anh qua dòng suối hướng về phía dãy núi nhìn ra quân cảng Subic Bay. Anh cám ơn chúng tôi bằng một tràng tiếng Tagalog. Tôi chỉ nghe và hiểu trọn vẹn một tiếng Salamat mà thôi.
Lần thứ tư:
Những tiếng cầu kinh trên tàu Jean Charcot
Ngày 27-05-1985 anh, em, con trai trưởng của tôi và tôi vượt biên từ làng Long Hòa, Vĩnh Bình (Trà Vinh), lúc bấy giờ thuộc tỉnh Cửu Long tức Vĩnh Long cũ. Khi xuống thuyền ra biển, tự nhiên tôi bị ngất. Con tôi đặt tay lên ngực tôi với hy vọng tim tôi vẫn còn hoạt động. Sáng ngày 29-05 tôi vẫn còn trong cơn mê. Anh tôi than khi được biết thuyền đã hết nước ngọt và gần cạn xăng dầu, làm thế nào để đến Mã Lai được. Trong cơn mê tôi nói với anh tôi:
– Mười một giờ có tàu vớt.
– Bây giờ là bảy giờ sáng. Anh tôi nói.
Các thuyền nhân phất cờ trắng ra hiệu cấp cứu. Một chiếc tàu tiến lại gần thuyền vượt biên. Ɖó là tàu Tiền Giang. Tất cả các thuyền nhân hoảng hốt hụp đầu xuống như một phản ứng tự nhiên của người chạy trốn sợ bị bắt gặp. May thay, tàu Tiền Giang cho thuyền vượt biên tiếp tục cuộc hải trình xa xôi và vô vọng. Lúc mười một giờ thuyền được tàu Jean Charcot của Pháp cứu vớt. Tự nhiên tôi tỉnh lại. Trên tàu tôi bận rộn tiếp xúc với bác sĩ Dominique, phó chủ tịch Médecins du Monde, Ɖinh Xuân Cao Tuấn, ký giả Philippe Theard, các thủy thủ trên tàu v.v… Người thủy thủ gây ấn tượng đặc biệt cho tôi là Marcel, người Dunkerque. Tôi càng mệt nhiều hơn nên có một giấc ngủ thật say trên tàu ngoài khơi Thái Bình Dương. Giữa đêm tôi nghe tiếng cầu kinh rộn ràng bên tai. “Je vous salue Marie pleine de grâce le Seigneur avec nous…” Tôi nghe tiếng chuông chùa rồi chuông nhà thờ rền bên tai. Tôi đinh ninh rằng các thủy thủ trên tàu cầu kinh trước khi đi ngủ. Tôi mở mắt và ngồi dậy. Ɖèn trên tàu sáng choang. Sóng biển đập vào thân tàu sau những cơn gió lạnh. Mọi người trên tàu đều say ngủ. Tôi nằm xuống ngủ lại nhưng tiếng cầu kinh vẫn văng vẳng bên tai thêm vài phút nữa mới dứt hẳn. Sáng dậy tôi thuật lại cho anh tôi nghe. Anh tôi có vẻ không để ý đến nhiều.
Sau gần một tuần lễ trên tàu Jean Charcot chúng tôi được chở đến Puerto Princesa. Thời gian chúng tôi sống trong trại tỵ nạn này rất ngắn ngủi. Bác sĩ Dominique, bắt tay anh tôi và tôi khi xe chở chúng tôi từ cảng Puerto Princesa vào trại tỵ nạn Palawan với lời chúc: “14 Juillet à Paris”. Chính ông và vị tổng lãnh sự Pháp ở Manila, ông Nguyễn Hữu, một người Việt Nam gốc ở Trà Vinh và là chú của tướng Nguyễn Khánh, đã tận tình vận động với Quai d’Orsay (Bộ Ngoại Giao) cho chúng tôi sớm định cư ở Paris. Từ đó chúng tôi được đưa về trại tỵ nạn Palawan cách đó lối 2 km.
Sau khi làm xong thủ tục nhập trại, các người tỵ nạn mới đổ xô đi kiếm nhà. Có người được người quen đến rước về nhà. Có người dùng vàng để mua chỗ ở trong trại từ những người sắp xuất trại. Bốn người trong gia đình chúng tôi đi lang thang trên con đường đất đỏ trong trại, không biết đi đâu? Tìm cái gì? Và sẽ ở đâu? Bỗng nhiên có các thanh niên để tóc dài ân cần tiếp đón chúng tôi và đưa chúng tôi về nhà của họ trong trại. Họ là những người sống rất lâu trong trại nên có vẻ có nhiều ưu tiên trên phần đất gần nơi tranh chấp quốc tế về chủ quyền trên các bãi cạn và hải đảo giữa Phi Luật Tân, Taiwan (Ɖài Loan), Việt Nam và Trung Quốc. Nơi chúng tôi được các thanh niên tóc dài đưa về có điện thường xuyên. Phía trước là một ngôi chùa. Gần ngôi chùa là một nhà thờ Tin Lành. Bên trái của căn nhà chúng tôi sắp ở là nhà thờ Thiên Chúa Giáo. Bên phải là một chùa Cao Ɖài. Ngày nào cũng có tiếng chuông chùa, chuông nhà thờ, tiếng tụng kinh từ chùa Cao Ɖài và tiếng đọc kinh của các tín đồ Thiên Chúa Giáo và Tin Lành Giáo đúng như những gì tôi nghe vào đêm đầu tiên ngủ trên tàu Jean Charcot.
Nhiều người trong trại không ưa những thanh niên tóc dài đã rước chúng tôi về nhà. Họ nấu cơm, xách nước, lãnh lương thực hàng ngày cho chúng tôi. Người thì gọi chúng tôi bằng Chú, người thì gọi bằng Bố. Người trong trại hơi ngạc nhiên, “sao mấy ông nầy coi đạo mạo đàng hoàng lại có cháu ba trợn như vậy!” Nhờ họ mà tôi đỡ vất vả trong thời gian sống trong trại tỵ nạn Palawan. Con tôi không bị các thanh niên khác bắt nạt vì lúc nào họ cũng tự hào về “chú tao và em tao” của họ.
Trong khi chờ đợi lên đường đi Paris, tôi nằm chiêm bao thấy Chúa Jesus mặc quần áo trắng thăng về hướng đông bắc. Tôi thấy một chiếc xe đò Phi Luật Tân sơn đủ màu xanh, đỏ, vàng có chữ Express. Người tỵ nạn ồ ạt chạy ra phía chiếc xe đó. Riêng bốn người chúng tôi lững thững đi và ngồi ở phía sau cùng của chiếc xe.
Tôi nói với anh tôi, chúng tôi sẽ đi Hoa Kỳ. Anh tôi hoàn toàn không tin tưởng vì giấy tờ đi Pháp đã có. Chúng tôi sẽ ra phi trường Puerto Princesa để đi Manila và từ đó đi Paris vào ngày 11-07-1985.
Ngày 10-07 vài anh em trong trại, kể cả các thanh niên tóc dài làm tiệc tiễn đưa chúng tôi xuất trại. Trong buổi tiệc tôi cám ơn các anh em làm tiệc khoản đãi chúng tôi nhưng chúng tôi không đi Pháp mà đi Hoa Kỳ. Tất cả anh em có mặt đều cười rộ, tưởng tôi nói đùa. Ăn tiệc xong, anh tôi ra chợ Puerto Princesa mua đôi giày mới để đi Pháp. Tôi không mua sắm gì cả vì tin tưởng rằng tôi sẽ đi hướng khác nên không vội mua sắm.
Khoảng ba giờ trưa ngày 10-07 loa phóng thanh của UNHCR gọi chúng tôi lên gặp ông Greg, đại diện của UNHCR (Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ) trong trại. Thấy vắng mặt anh tôi, ông Greg hỏi: “Còn một người nữa đâu?” Tôi cho biết anh tôi đi mua giày để đi Pháp. Ȏng Greg nói: “Ȏng ấy đi lòng vòng ở đây chớ không đi Pháp.” Ȏng cho biết ông vừa nhận một điện thoại từ tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Manila yêu cầu đình chuyến đi Pháp của bốn người chúng tôi để gặp đại diện của họ.
Sau khi gặp đại diện tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Manila, chuyến đi Paris bị hủy bỏ. Chúng tôi được chuyển trại từ Palawan đến Bataan để học ESL (English as a Second Language) và CO (Cultural Orientation – hướng dẫn văn hóa) trước khi đến Hoa Kỳ. Xét về vị trí địa lý, trại Bataan trên đảo Luzon nằm về hướng đông bắc của Palawan như giấc chiêm bao (Chúa Jesus thăng về hướng đông bắc).
Thế là chúng tôi không đi Paris mà lên trại tỵ nạn Bataan để chuẩn bị đi Hoa Kỳ. Chuyến chuyển trại lên Bataan lúc ấy có 250 người. Bốn người chúng tôi nằm ở cuối danh sách, nâng tổng số lên 254 người (ứng với việc bốn người ngồi ở phần sau cùng của chiếc xe đò có chữ Express trong giấc chiêm bao). Ngồi tàu từ Palawan lên Manila, các người tỵ nạn tập trung tại bến tàu và được xe bus đưa lên trại Bataan cách đó lối 180 km. Mỗi xe chở 50 người. Năm xe chở 250 người. Bốn người chúng tôi đứng chơi vơi ngoài bến tàu. Một chiếc xe bus màu vàng cam có chữ Express đến chở chúng tôi. Lạ thay! Chiếc xe nầy đến sau nhưng về đến trại Bataan trước năm chiếc kia.
Ɖến trại Bataan anh tôi và tôi được hướng dẫn thủ tục xin chỗ ở trong trại. Con tôi ngồi trong phòng chờ đợi. Một người Việt gốc Hoa hỏi con tôi:
– Mày ở trại nào đến vậy?
– Trại Palawan. Con tôi đáp.
– Tao có một người quen ở trại Palawan. Người Việt gốc Hoa nói.
– Ai vậy? Con tôi hỏi.
– Giáo sư Phạm Ɖình Lân. Người Việt gốc Hoa đáp.
– Tôi là con của giáo sư Lân. Con tôi nói.
– Thiệt không mày? Bây giờ ông ấy ở đâu? Người Việt gốc Hoa hỏi.
– Bác và ba tôi đi làm thủ tục tìm nhà trong trại. Con tôi đáp.
– Không cần tìm đâu xa. Ɖể tao tìm cho. Người Việt gốc Hoa nói.
Ɖó là Âu Di, rể của ông chủ lò đường ở Phú Long. Anh được gia đình bên vợ bảo lãnh nhưng phải sang trại Bataan để học ESL và CO. Nhờ Âu Di chúng tôi được sắp xếp ở vùng V đồng khoảng cách với vùng I và vùng X trong trại Bataan. Âu Di và gia đình hiện sống ở San Francisco, California.
Ngày 23-12-1985 trong lúc chờ đợi danh sách thuyền nhân định cư ở Hoa Kỳ, tôi nói với anh tôi:
– Ngày 27-01-1986 mình sẽ rời trại đi Hoa Kỳ.
– Sau chú biết? Anh tôi hỏi.
Tôi im lặng không đáp lại. Thình lình con tôi từ văn phòng ICM về. Cháu vui mừng thông báo:
– Mình có danh sách rồi.
– Chừng nào? Tôi hỏi.
– 27-01-1986. Con tôi đáp.
Tôi nhìn anh tôi và mỉm cười. Lúc ấy anh tôi cũng không biết tại sao tôi nói đến ngày 27-01 nhưng bạn đọc có lẽ đoán được sau khi đọc qua những dòng lược thuật về những gì tôi nghe, thấy trong giấc chiêm bao đầy ấn tượng.
Chúng tôi rời khỏi phi trường Manila ngày 27-01 và đến Hoa Kỳ cùng ngày 27-01-1986. Chúng tôi định cư ở Toledo, Ohio theo tiếng gọi “Kim điền Toledo!” mà tôi được nghe trong giấc mơ trước khi có quyết định vượt biên.
***
Tôi viết lại bốn lần được gặp Chúa Jesus vào dịp Giáng Sinh như để kỷ niệm ngày tôi gặp Chúa lần đầu tiên vào ngày 27-01-1965. Những điều tôi ghi lại đây có thể sót nhưng không sai. Vì có quá nhiều chuyện dồn dập đến với tôi trong nửa thế kỷ qua nên có thể còn sót một vài chi tiết quan trọng mà tôi không nhớ trọn vẹn. Ɖặc biệt trong hai mươi năm từ 1965 đến 1985 tôi được Chúa Jesus cho thấy bốn lần như báo trước cho tôi biết về chuyện chuyển cảnh từ Việt Nam sang Hoa Kỳ qua trung gian Pháp (tàu Jean Charcot) và Phi Luật Tân (hai trại tỵ nạn Palawan và Bataan). Từ khi đến Hoa Kỳ năm 1986 đến nay, tôi không có những giấc chiêm bao nào đặc biệt như đã ghi trên.
Trong bốn lần được gặp Chúa Jesus, Chúa chỉ nói hai chữ “Ɖại chiến” một lần duy nhất mà thôi. Trong thời gian 1975 - 1985 tôi có nhiều giấc chiêm bao dồn dập báo trước tôi sẽ rời khỏi quê hương mặc dù tôi ở trong tình thế tuyệt vọng đến không dám nghĩ và không muốn nghe chuyện ngoài tầm tay này. Ơn trên thử thách tôi bằng cách đưa tôi vào đường tuyệt vọng cơ hồ như không có một tia sáng lạc quan và hy vọng nào. Huyền diệu! Ánh sáng hy vọng ấy Chúa Jesus đã chuẩn bị suốt hai mươi năm dài. Từ khi đến Hoa Kỳ, tôi không được gặp Chúa Jesus lần nào nữa.
Năm 2005 tôi rửa máy xay thịt ngoài vườn vào khoảng sáu, bảy giờ chiều. Khi rửa xong, tôi ráp máy xay thịt thì thấy thiếu lưỡi dao. Tôi tìm mãi vẫn không thấy. Sáng ngày hôm sau tôi trở lại chỗ rửa máy xay thịt, cố tìm lại lưỡi dao. Tìm mãi vẫn không thấy gì. Tôi nảy ra một ý tưởng có vẻ vô lý là đào sâu xuống đất. Ý nghĩ này có vẻ vô lý vì các bộ phận khác của máy xay đều nằm trên mặt đất. Có lý nào lưỡi dao trong máy xay chìm sâu dưới đất? Tôi thi hành ý nghĩ vô lý của mình bằng cách đào sâu dưới đất nơi tôi rửa máy xay khoảng 20cm. Lạ thay! Tôi tìm thấy lưỡi dao và tượng Chúa Jesus bằng kim khí. Hiện tôi vẫn còn giữ tượng này trong nhà nhưng cho đến nay, tôi vẫn chưa tìm được nơi nào để tân trang bức tượng nhỏ bằng kim khí không rỉ sét này. Tôi có đề cập chuyện này với Bùi Thị Quý ở California nhưng Quý cũng chưa tìm ra nơi nào đáp ứng nhu cầu tầm thường và bình thường của tôi. Tôi đành giữ bức tượng phong sương với thời gian như một kỷ niệm siêu nhiên trong kiếp nhân sinh của mình.
Một điều đáng lưu ý khác là từ ngày tôi gặp Chúa Jesus lần đầu tiên ngày 27-01-1965 về sau, tất cả những sự kiện quan trọng trong đời tôi và gia đình tôi đều xảy ra ngày 27:
– Gặp Chúa lần thứ nhất và thứ nhì đều cùng ngày 27-01 (2 ngày 27)
– Hiệp định Paris ký ngày 27-01-1973.
– Vượt biên ngày 27-05.
– Sang Hoa Kỳ ngày 27-01-1986
– Hai số đầu của số SS của tôi là 27.
– Các con tôi từ Alabama lên Ohio ngày 26-01-1991 nhưng khi đến Dayton tự nhiên xe không nổ máy sau khi ghé qua Rest Area. Tôi nhờ một người Mỹ giúp nhưng máy vẫn không nổ. Tôi nhờ người Mỹ thứ hai giúp. Anh nầy vui vẻ giúp nhưng nói rằng anh không có kinh nghiệm gì về xe Nhật. Anh cũng không làm gì hơn anh thứ nhất nhưng lần nầy xe nổ máy. Khi về đến thành phố chúng tôi đã đến năm 1986 thì đồng hồ chỉ 1giờ 30 sáng ngày 27-01-1991. Nếu xe không chết máy chúng tôi về đến nhà lúc 9 giờ đêm 26-01.
– Ngày con trưởng của tôi dọn về nhà mới, tôi xem ngày Âm Lịch tốt để dọn về nhà mới. Ngày ấy lại tương ứng với ngày 27-01-1996 Dương Lịch v.v…
Vạn sự như có sự an bài trước vậy.
Tất cả những giấc chiêm bao mà tôi trải qua trong thời gian 1975 - 1985 về những tên người và tên thành phố mang chữ LONG ứng với cuộc vượt biên của chúng tôi từ xã Long Hòa trên sông Cửu Long, tỉnh Vĩnh Bình (Trà Vinh) và Vĩnh Long (tên người bạn Lâm VĨNH Thế) năm 1985.
Long: Rồng, biểu tượng của tàu bè trên sông nước, biển cả. Tôi thấy bạn Lâm Vĩnh Thế và cầu Phú Hòa Ɖông (cầu nầy không có trên thực tế). Tôi thấy giáo sư Châu Long, hai bạn Nguyễn Thái Long và Nguyễn Thanh Long, sông Phước Long đầy nước và rộng mênh mông (sông nầy không có trên thực tế), thành Long Thành. Tôi thấy một đàn dê. Dê: Dương – Hán Việt, Dương cũng có nghĩa là biển, đại dương (Thái Bình Dương – ứng với hướng đông của Phú Hòa Ɖông) hay cái gì liên quan đến nước ngoài như người Tây Dương chẳng hạn. Lần thứ ba Chúa Jesus cho tôi gặp Người ở Phú Hòa Ɖông. Theo sự diễn giải của tôi, Phú Hòa Ɖông là xứ Phi Luật Tân, nơi tàu Jean Charcot chở chúng tôi đến vào đầu tháng 06-1985 thay vì chở đến Mã Lai vì Phi Luật Tân là một quốc gia có 90% dân số theo đạo Thiên Chúa. Mã Lai là một quốc gia Hồi Giáo. Những tiếng gọi “Kim điền Toledo! Kim điền Toledo!” như sự gợi căn về tiền kiếp Do Thái của người được gọi. Ɖiều này được minh định trong bài Thánh Thi mà Ɖức Quan Thế Âm chỉ dạy tôi năm 1980:
Tu kiếp đầu khai sinh đất Thánh
Chọn Salem (1) học ánh Chúa Trời
Cha ban quyền phúc vơi vơi
Con theo chân Chúa lập đời Trung Nguơn
(1) Salem: Jerusalem
Toledo là thủ đô cũ của Tây Ban Nha. Năm 1492 người Do Thái bị trục xuất ra khỏi thành phố này.
Những biến cố quan trọng trong đời tôi thường xảy ra vào các năm NHÂM và ẤT.
1962 (Nhâm Dần): Mua quyển Thánh Kinh ở nhà sách Hòa Bình gần Nhà Thờ Ɖức Bà Sài Gòn. Sự gợi căn bắt đầu từ quyển Thánh Kinh bìa đỏ này.
1965 (Ất Tỵ): Gặp Chúa Jesus lần đầu tiên.
1975 (Ất Mão): Sự đau khổ bắt đầu.
1982: (Nhâm Tuất): 1. Ɖạt nhiều thành quả nổi bật trong châm cứu trị liệu. 2. Gặp Chúa Jesus lần thứ ba. 3. Gặp Ɖức Mẹ trong chớp nhoáng dưới dạng một xác chết bó vải trắng từ đầu đến chân ở xã Vĩnh Phú dưới một cơn mưa lất phất.
1985 (Ất Sửu): 1. Vượt biên. 2. Tiếng cầu kinh “Je vous salue Marie…” trên tàu Jean Charcot. 3. Gặp Chúa Jesus lần thứ tư.
2005 (Ât Dậu): Tìm thấy tượng Chúa Jesus khi đào sâu dưới đất 20cm để tìm lưỡi dao của máy xay thịt.
Ai không tin vào phép lạ là thiếu thực tế (Celui qui ne croit pas aux miracles est irréaliste).
Tôi viết bài nầy như một bài viết Giáng Sinh cho bạn đọc người Việt sống rải rác khắp nơi trên thế giới và đặc biệt riêng tặng em Phạm Thị Phương, người hiểu trọn vẹn nội dung bài viết nầy.
Giáng Sinh vui vẻ.
Vạn sự lành trong một thế giới an lành.
Phạm Ɖình Lân,
F.A.B.I.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét