Buổi sáng, tôi tới bệnh viện sớm, đi một vòng để thăm các bệnh nhân. Bước vào phòng số 13, thấy bà ta đang nằm lơ mơ, tưởng bà còn ngủ, tôi đằng hắng rồi mới lên tiếng: - Chào bà Mei. Sáng nay bà khỏe chứ? Bà ta mở choàng mắt, mệt nhọc đáp: - Tệ hơn hôm qua bác sĩ ạ, vẫn ói muốn lộn cả ruột gan ra ngoài, bây giờ người tôi lại bừng bừng, hình như đang lên cơn sốt. Tôi chau mày, bước lại gần để quan sát, mắt tôi chợt dừng lại nơi cái giường trống ở bên cạnh, chiều hôm qua, người ta đã đem bệnh nhân nằm trên cái giường này vào nhà xác rồi. Bà Mary dược nhập viện từ bốn tháng nay vì bệnh ung thư phổi ở thời kỳ thứ tư, kể cũng lạ, bà ta không hút thuốc cũng không ngửi phải khói thuốc, thế mà bị ung thư phổi mới kỳ, khoa học còn nhiều cái chưa giải thích được.
<!>
Bà Mary đã trải qua một cuộc giải phẫu để cắt bỏ lá phổi bị ung thư, sau đó thì hóa trị, xạ trị, đủ thứ... Thật không hiểu nổi tại sao bị ngần ấy chuyện mà bà ta trông không có vẻ tệ hại tí nào, bà vẫn đi lại, nói năng vui vẻ như người bình thường. Bà là cái phao, để bà Mei bám vào mà hy vọng, sự ra đi bất thình lình của bà gây sửng sốt và thương nhớ cho những người chung quanh, không những chỉ các bác sĩ, y tá mà cả những bệnh nhân khác nữa vì bà ta vốn là một người tử tế, tốt bụng, hay giúp đỡ kẻ khác. Bà lại có tính khôi hài và hay nói đùa, sáng nay, khi mới bước vào phòng, tôi vẫn mường tượng được nghe tiếng chào hỏi đon đả của bà trước khi tôi kịp mở lời thăm bệnh. Bây giờ thì bà đã ra đi vĩnh viễn rồi, cái giường chưa có người thay thế.
Tôi thở dài, gỡ cái bảng thân nhiệt treo ở đầu giường của bà Mei ra quan sát, nhiệt độ chỉ lên xuống ở trong khoảng giữa 38 và 39 độ, không cao lắm, chưa đến mức phải lo ngại. Bà Mei mới nhập viện được có hai ngày vì bệnh ung thư gan, bà là người Trung Hoa, có một đời chồng trước đã chết vì một tai nạn giao thông. Trước đây, hồi còn ở Hồng Kông, bà làm chủ nhiều cơ sở kinh doanh, buôn bán lớn. Mười năm trước khi Hồng Kông được trao trả cho Trung cộng, bà khôn ngoan bán hết nhà cửa, bất động sản và cả các cơ sở thương mại, gom góp vốn liếng được mấy chục triệu, qua Mỹ lập nghiệp. Tại đây, bà gặp ông Woòng là một người đồng hương, hai người hạp nhau và kết thành vợ chồng, mặc dù ông trẻ hơn bà tới mười lăm tuổi. Cuộc hôn nhân xem ra có vẻ êm đềm, không sóng gió nếu không có bệnh tật chen vào.
Tám tháng trước, bà đến phòng mạch của tôi xin khám bệnh với triệu chứng đau nhâm nhẩm nơi bụng, trông bà không có vẻ gì là một người đang bị bệnh nặng, chỉ trừ cặp mắt hơi có vẻ mệt mỏi, người bà vẫn béo tốt, khỏe mạnh. Đi bên cạnh bà là một người đàn ông trẻ tuổi, ăn mặc lịch sự chải chuốt, thoạt nhìn tôi cứ tưởng là em hoặc cháu, nhưng bà giới thiệu đó là chồng bà tên Woòng, bà vui vẻ nói:
- Tuy vậy xin bác sĩ cứ gọi tên tôi là Mei, tôi thích thế hơn. Mei phát âm như là Mây nghĩa là tháng Năm, tượng trưng cho mùa hè, mà mùa hè thì lúc nào cũng rực rỡ. Tôi muốn luôn luôn gặp may mắn.
Tôi thì nghĩ khác, tôi cho rằng bà ta không thích được gọi là bà Woòng vì ông này quá trẻ so với bà, bà sợ người ta có ý so sánh, có lẽ bà hơi ngượng vì sự chênh lệch tuổi tác đó. Ông Woòng trái lại rất tự nhiên, không tỏ ra có chút mặc cảm nào cả. Tôi khám bệnh rất kỹ cho bà, hỏi về căn nguyên của bệnh, những bệnh sử trong gia đình, rồi cho làm một lô thử nghiệm. Năm ngày sau, tôi mời cả hai vợ chồng đến và cho biết kết quả:
- Hơi có vấn đề rồi đây.
Tôi nói và chỉ cho họ thấy một khối hình tròn to bằng quả trứng gà trên tấm hình chụp ultra sound ở vùng bụng rồi tiếp tục:
- Đây là một cái bướu.
Bà Mei hơi giật mình, ngước cặp mắt lo lắng nhìn tôi khẽ hỏi:
- Có phải ung thư không, bác sĩ?
- Không thể biết chắc được, bởi vì việc định bệnh còn tùy thuộc vào nhiều kết quả thử nghiệm khác.
Ông Woòng nhổm hẳn người lên khỏi ghế, nét mặt căng thẳng nhưng không có vẻ sợ hãi, hình như cái tin bất ngờ này đem đến cho ông một sự ngạc nhiên quá sức tưởng tượng, một biến cố lớn lao ông chưa bao giờ dự liệu tới, ông hỏi giọng nóng nảy:
- Nhưng bác sĩ đã nhìn thấy một khối u ở trong bụng vợ tôi rồi mà? bình thường đâu có ai có bướu ở trong bụng?
- Biết vậy rồi, nhưng bướu cũng có thứ lành, thứ độc.
- Nghĩa là cái bướu đó có thể là ung thư, cũng có thể không phải ung thư?
- Đúng vậy, ultrasound chỉ cho thấy một khối u ở vùng có lá gan, còn muốn biết chắc có phải ung thư hay không thì phải làm biopsy mới rõ được.
Và rồi tôi giải thích cho cả hai vợ chồng cùng hiểu rõ:
- Trước hết phải làm CT scan để xác định rõ vị trí và kích thước của khối u, sau đó tôi sẽ dùng kim để hút lấy một ít tế bào ở đó đem đi thử nghiệm.
- Nghĩa là bác sĩ sẽ dùng một kim dài đâm xuyên qua bụng của vợ tôi tới khối u?
Ông ta nói một cách thản nhiên, không để ý gì đến sắc mặt đang trở nên tái xám của vợ. Tôi ái ngại cố trấn an bà ta:
- Đúng vậy, nhưng không sao đâu, bà đừng lo vì chúng tôi sẽ gây mê và bà sẽ không cảm thấy đau đớn gì cả cho tới khi tỉnh dậy.
- Nhà tôi có phải nhập viện không, bác sĩ?
- Có chứ, nhưng chỉ một ngày thôi. Thử nghiệm này phải được làm ở nhà thương và nên làm càng sớm càng tốt. Bây giờ thì ông bà có thể về được rồi, thu xếp việc nhà xong, nhớ gọi cho tôi để lấy hẹn.
Bà Mei chậm rãi đứng lên, cố làm ra vẻ bình tĩnh nhưng nét mặt thất thần và những ngón tay bám trên thành ghế thì run lẩy bẩy. Ông chồng trái lại, vẫn bình tĩnh như không có việc gì xảy ra, một cách lịch sự, ông đưa tay cho bà vịn, và bà phải tựa vào ông mà đi. Đưa vợ ra ngoài xong, ông quay trở vào nói riêng với tôi:
- Có phải bác sĩ nghi rằng vợ tôi đang bị ung thư, phải không?
- Tôi không dám quả quyết gì vội.
- Có trường hợp nào như vậy mà không phải ung thư không?
- Cũng có.
- Tôi thì nghĩ rằng nhà tôi đã bị ung thư rồi.
- Sao ông lại đoan chắc như thế?
- Nhìn thái độ của bác sĩ tôi biết, tuy không nói ra vì sợ nhà tôi buồn, à quên sợ chúng tôi buồn, nhưng trong đầu của bác sĩ cũng đang nghĩ như tôi là bà ấy quả thật là đã bị ung thư rồi.
Tôi bực mình:
- Tôi không thích nghe ông đoán mò. Ông muốn vợ ông bị ung thư lắm à? tại sao ông cứ hỏi tôi mãi câu đó?
- Việc ấy là do trời sắp đặt chứ nào phải là do mình muốn hay không muốn? Tôi chỉ muốn sớm biết sự thật để còn lo liệu công việc và nhất là để chuẩn bị tinh thần.
Ông nói với giọng cố làm ra vẻ buồn rầu, nhưng ánh mắt lại biểu lộ khác hẳn, nó lấp lánh một niềm vui kín đáo, tôi thấy rõ ràng ông đang dấu giếm những toan tính bí mật có liên quan đến vợ ông. Tôi ngồi thẳng người lên:
- Nếu chẳng may như vậy, tôi sẽ làm hết cách để cứu bà ấy.
- Dĩ nhiên! Đó là bổn phận của ông.
Nói xong ông ta đứng dậy chào để ra về sau khi nháy mắt nhìn tôi như chế giễu.
* * *
Khoảng gần hai tháng sau, họ mới trở lại và tôi cho bà Mei một cái hẹn ngay ngày đầu tuần tới. Bà Mei được nhập viện từ chiều hôm trước, hôm đó bà mặc một bộ quần áo thể thao màu vàng nhạt, mái tóc chỉ mới điểm loáng thoáng vài sợi bạc được cột lại bằng một giải lụa màu đen, trông bà mập lùn nhưng khỏe mạnh. Bà nhận bộ quần áo màu xanh của bệnh viện, ngắm nghía một lúc rồi mỉm cười:
- Hy vọng tôi sẽ không phải mặc nó lâu.
Bà ngưng lại một giây, nhìn tôi với ánh mắt vui vẻ rồi mới tiếp tục:
- Mấy hôm nay bụng tôi đã hết đau rồi bác sĩ ạ!
Bà nói với vẻ lạc quan, tôi không biết phải trả lời như thế nào, cứ để cho bà lạc quan vì lạc quan cũng làm tăng thêm sức sống. Nhưng ông chồng bà đã làm tắt ngay nguồn hy vọng mong manh đó, ông Woòng nhìn vợ với vẻ mặt nghiêm nghị:
- Tôi cho rằng mình sẽ phải mặc nó lâu dài đó, vì tôi biết mình sẽ phải nằm lại bệnh viện để trị bệnh. Cái bướu đó mà không phải ung thư thì thật là chuyện khó tin!
Thế là tắt ngấm nguồn vui sống, bà khẽ chớp mắt, nét mặt buồn hẳn lại. Tôi nhìn ông Woòng bằng cặp mắt trách móc, ông ta nhìn lại tôi một cách thách thức:
- Để rồi bác sĩ xem, tôi nói có sai đâu!
Tôi lắc đầu ngao ngán, cứ cái điệu này, ông ta sẽ giết vợ nhanh hơn là căn bệnh sẽ giết bà ta. Tôi ném cho ông ta một cái nhìn cảnh cáo rồi quay đi sau khi dặn cô y tá đưa hai người đến phòng hành chính để làm thủ tục nhập viện. Ở đây mỗi phòng chỉ có hai giường, bà Mei được xếp chung phòng với bà Mary. Một lúc sau khi tôi trở lại phòng để khám bệnh cho bà Mary thì hai bà đã thân nhau lắm. Bà Mary tốt bụng lăng xăng chỉ cho bà Mei cách sử dụng điện thoại, TV và cách bấm chuông gọi y tá, bà ở bệnh viện lâu rồi nên thông thạo mọi thứ. Cô y tá mỉm cười vui vẻ:
- Bà Mary đã làm nhiệm vụ của tôi rồi đó, tôi không có gì phải chỉ dẫn thêm nữa.
Cô đặt khay đồ ăn xuống bàn và nói với bà Mei:
- Sau bữa cơm chiều nay, bà sẽ không được ăn uống gì nữa cho tới sau khi làm xong thử nghiệm vào sáng ngày mai.
- Tôi nhớ rồi và tôi sẽ làm theo lời cô dặn. Cám ơn cô!
Sau đó mọi người đều rời khỏi phòng, ông Woòng về nhà, còn tôi đi thăm các bệnh nhân khác.
Đúng như những lời độc địa của ông Woòng, kết quả biopsy (sinh thiết) cho thấy cái bướu là bướu ung thư, tuy chưa di căn, nhưng vì bướu đã khá lớn, nên cần được chữa trị ngay để đề phòng có thể lan sang những cơ quan khác. Cầm kết quả thử nghiệm ở trong tay, tôi đi đến phòng khám bệnh thì đã thấy ông Woòng chờ sẵn ở đó với vẻ nôn nóng. Vừa nhìn thấy tôi, ông hỏi ngay:
- Thế nào? Bác sĩ đã có kết quả thử nghiệm rồi phải không ạ?
Tôi gật đầu nhưng không nói gì thêm, thái độ đó làm ông ta hiểu ngay, hấp tấp hỏi:
- Vợ tôi bị ung thư phải không?
Tôi thở dài buồn bã:
- Đúng vậy! cái bướu là bướu độc.
Nói xong, tôi im lặng chờ đợi, nghề bác sĩ ngại nhất là lúc phải đối diện với bệnh nhân hoặc thân nhân của người bệnh để báo một kết quả xấu.
Tôi hồi hộp nhìn người chồng của bệnh nhân đang đứng ở trước mặt, chờ đợi những phản ứng thông thường như là khóc lóc, giận dữ, than trời trách đất, thậm chí có khi tới ngất xỉu … Nhưng không, không có gì hết, ông Woòng vẫn bình tĩnh như thường, làm như người mới biết tin bị ung thư không có liên hệ gì với ông cả. Ông đứng đó im lìm, nét mặt lạnh tanh cố che dấu những cảm xúc khó hiểu, nhưng chắc chắn không phải là những cảm xúc bi thương tuyệt vọng hoặc buồn rầu đau đớn. Không, hoàn toàn không có gì cả, không cả một tiếng thở dài buồn bã, ông lơ đãng nhìn ra cửa sổ, nghĩ ngợi một lúc rồi mới hỏi:
- Bác sĩ đã báo tin cho vợ tôi biết chưa?
- Chưa nói gì hết, tôi mới nhận được giấy báo cáo kết quả của phòng thí nghiệm pathology sáng nay.
Ông ta hấp háy cặp mắt:
- Bác sĩ có muốn tự tôi nói ra cho vợ tôi biết không?
Tôi lắc đầu, nghĩ đến những lời nói không khéo léo của ông ta có thể làm cho bệnh nhân sợ hãi nên vội vàng từ chối:
- Không cần, cứ để tôi báo tin cho bà ấy và giải thích về cách trị liệu luôn thể.
- Thôi được, nhờ bác sĩ vậy.
Nói xong, ông ta chào tôi và bước ra cửa, vừa đi vừa huýt sáo một điệu nhạc Trung Hoa.. Tôi nhìn theo dáng dấp trẻ trung của ông ta mà không khỏi thắc mắc, tình vợ chồng của họ có cái gì không được ổn, có bao giờ một người chồng mới biết vợ bị mắc bệnh ung thư mà vẫn thản nhiên không một chút lo lắng sợ hãi, vẫn điềm tĩnh huýt sáo. Hình như ông ta còn có vẻ khoan khoái vì đã đoán đúng, và điều mà ông ta vẫn mong đợi đang xảy đến… Tự nhiên tôi cảm thấy một chút bất bình dùm cho bà Mei.
Khi tôi bước vào phòng của bà ta thì ông Woòng không có ở trong đó, có thể ông ta vừa đi khỏi, có thể ông ta chưa hề vào thăm vợ sáng nay, chỉ ghé tôi hỏi xong kết quả rồi đi luôn. Bà Mei đón nhận hung tin với một thái độ chịu đựng thật can đảm, nhưng tôi biết bà bị xúc động rất mạnh, người bà run lên, môi mím chặt cố ngăn một tiếng nấc, mắt bà mở trừng trừng nhìn lên trần nhà và nét mặt lạnh như đông đá. Tôi nghĩ thầm phải chi lúc này có mặt người chồng, bây giờ là lúc bà cần sự có mặt của ông hơn bao giờ hết, để dựa vào ông mà khóc, để ông quàng vòng tay che chở quanh người bà mà dỗ dành, an ủi… Rõ ràng là ông đã biết, thế mà không hiểu tại sao ông không vào đây để an ủi vợ? Bây giờ bản án tử hình đã tuyên bố xong, tôi chờ cho cơn xúc động của bà qua đi rồi mới tiếp tục:
- Cái bướu là ung thư nhưng chưa lây lan đến các cơ quan khác, tình trạng chưa đến nỗi nguy hiểm, bà đừng lo lắng quá.
- Thế có phải giải phẫu để cắt bỏ nó đi không, bác sĩ?
Bà Mei thều thào hỏi như người sắp tắt hơi, tôi lắc đầu:
- Không mổ được vì cái bướu nằm ở chỗ có nhiều mạch máu, nhưng chúng tôi sẽ có cách để làm cho nó co lại và hết hoạt động.
- Nghĩa là phải dùng thuốc? Tôi muốn nói đến Chemo hay radiation?
- Đúng vậy, tùy theo trường hợp, chúng tôi sẽ liệu định một phương pháp điều trị thích hợp với tình trạng của từng người.
Im lặng một lúc rồi tiếng bà Mei cất lên nhẹ như hơi thở:
- Tôi muốn biết tôi còn sống được bao lâu nữa, bác sĩ?
Tôi nhăn mặt, cuộc đời của người thầy thuốc đã bao nhiêu lần phải nghe những câu hỏi đau lòng tương tự. Tôi quay mặt đi chỗ khác tránh nhìn vào mặt bà rồi mới chậm rãi trả lời:
- Thật khó mà nói đích xác được, bởi vì mỗi trường hợp một khác, cũng còn tùy sự đáp ứng của cơ thể đối với các phương pháp trị liệu và nhất là sự hợp tác của bệnh nhân.
- Tôi sẽ không bỏ cuộc đâu, bác sĩ!
Bà Mei nói một cách quả quyết, hai tay bà nắm lại, ý chí muốn sống bừng lên đôi mắt, bà nhìn tôi một cách tin tưởng rồi mới tiếp tục:
- Tôi muốn được bắt đầu chữa trị ngay từ bây giờ.
- Tốt lắm, phải ngăn chặn trước khi cái bướu phát triển lan qua những cơ quan khác, vì vậy để càng lâu càng khó trị. Bà cần bao lâu thì giờ để thu xếp việc nhà?
- Chúng tôi đã sắp xếp xong xuôi mọi việc trước khi nhập viện. Ngay sau khi đến phòng mạch của bác sĩ lần thứ hai, được bác sĩ cho biết tôi có rủi ro có thể bị ung thư, chúng tôi đã thu xếp, lo toan mọi thứ… Mất nhiều thì giờ lắm, vì thế chắc bác sĩ không lấy làm lạ tại sao mãi tới hai tháng sau chúng tôi mới trở lại?
- Thật thế à?
- Vâng, thật! Biết bao nhiêu là việc cần phải thanh toán cho xong, như là bán hết các cổ phần, trái phiếu, sang nhượng các cơ sở kinh doanh, chuyển tiền trong ngân hàng và… cả chúc thư nữa.
- Cả chúc thư?
- Vâng! Ông nhà tôi tính vốn cẩn thận lại hay lo xa, ông ấy muốn mọi việc phải được thu xếp ổn thỏa trước khi tôi nhập viện, vì biết đâu tôi không còn tỉnh táo nữa…
- Ông ấy nói vậy thật à?
- Nhà tôi nói là để phòng hờ thôi, nhưng vì ông ấy đã tiên đoán đúng nhiều việc nên tôi phải tin.
Tôi nhìn bà Mei với một vẻ thương xót và rủa thầm người chồng vô lương tâm.
Chín giờ sáng hôm sau, bà Mei bắt đầu nhận đợt Chemo đầu tiên. Bà nằm yên trong khi cô y tá đâm kim vào mạch máu đặt đường dây nước biển dùng để pha thuốc, bà ngước cặp mắt u buồn nhìn ông Woòng đang đứng cạnh giường, ông ta cũng nhìn lại bà với một vẻ thương hại. Khi những giọt thuốc đầu tiên được truyền vào cơ thể, tôi thấy bà hơi rùng mình, hai bàn tay nắm chặt lại như để lấy thêm can đảm. Tôi nhìn ông Woòng, ông ta vẫn đứng im thay vì dỗ dành hoặc an ủi vợ. Tôi vội vã đặt tay lên vai bà, vỗ về:
- Bà cứ nhắm mắt lại nghỉ ngơi, đừng lo lắng gì cả, chỉ độ hai tiếng đồng hồ là xong thôi.
Rồi tôi quay qua người chồng, dặn dò:
- Trong khi truyền thuốc, có thể bà ấy sẽ bị chóng mặt hoặc buồn nôn, đó cũng là bình thường thôi, chỉ khi nào thấy khó thở thì mới gọi y tá. Bây giờ thì ông có thể nói chuyện gì vui vui cho bà ấy quên đi.
Ông Woòng gật đầu, bà Mei cố mỉm một nụ cười:
- Bác sĩ đừng lo, tôi sẽ không sao đâu. Tôi sẽ cố gắng chịu đựng miễn sao khỏi bệnh.
- Bà can đảm lắm, rất tốt! Hy vọng bà sẽ mau lành bệnh.
Bà Mei nhìn tôi với một vẻ biết ơn, trong mắt bà, tôi lại thấy loé lên những tia hy vọng. Sáng hôm sau, tôi trở lại thăm bệnh, bà Mei trông có vẻ mệt mỏi và mắt có quầng thâm, chắc đêm qua bà không ngủ được. Hồ sơ ghi bệnh cho biết bà chỉ bị chóng mặt chứ không ói mửa. Tôi vui vẻ:
- Tốt lắm, cơ thể của bà không phản ứng mạnh, chắc là hợp thuốc rồi đó.
Bà Mei nhìn tôi với vẻ tò mò:
- Nếu như không chịu thuốc thì phải làm thế nào, bác sĩ?
Tôi chưa kịp trả lời thì bà Mary ở giường bên cạnh đã xen vào đáp:
- Phải tìm thuốc khác! Chỉ tốn thì giờ, như tôi nè, phải hai, ba lần mới tìm được thuốc thích hợp.
- Nếu vậy thì tôi còn là may mắn đó.
Bà Mei nói đùa, cả tôi và bà Mary cùng cười. Tôi biết bà Mei đã nhiệt tâm cộng tác với các bác sĩ trong cuộc chiến đấu với bệnh tật, đồng tâm hiệp lực đẩy lui những bước tiến của tử thần, bà đặt hết tin tưởng vào khoa học, vào sự trị liệu và vào tôi. Tuy mới chỉ là bước đầu và còn quá sớm để có thể nói lên một kết quả chiến thắng dù nhỏ nhặt, nhưng tôi không nỡ phá tan niềm hy vọng vừa mới nhen nhúm đó. Tôi dơ ngón tay cái lên chúc may mắn và nói:
- Bà phải hoàn tất đợt Chemo đầu là ba ngày, sau đó bà được về nhà nghỉ ngơi ba tuần. Khi bà trở lại tái khám, tôi sẽ cho chụp lại Xray để xem cái bướu có teo đi không.
Bà Mary cũng nói:
- Chúc bà may mắn!
Cô y tá vừa vào phòng sửa soạn cho đợt truyền thuốc ngày thứ hai, hậu quả không có biểu hiện gì đáng kể. Ngày thứ ba cũng không có phản ứng mạnh, bà Mei chỉ bị ói mửa có một lần. Chiều hôm đó, tôi vào thăm lúc bà đang sửa soạn ra về, bà Mei hôm nay trông tươi tỉnh khác thường, bà mặc áo mới màu xanh, trang điểm đẹp đẽ chờ chồng tới đón. Thấy tôi vào, bà chỉ chiếc xe lăn để bên cạnh giường, vui vẻ nói:
- Cô y tá nói lát nữa sẽ đưa tôi ra cửa bằng chiếc xe này. Xin bác sĩ cho dẹp đi dùm, tôi đâu cần tới nó, tôi vẫn đi lại bình thường mà, bác sĩ biết đấy.
- Đó là qui lệ của bệnh viện, nhưng nếu bà không muốn thì không bắt buộc, tôi sẽ bảo y tá đem đi.
- Cám ơn bác sĩ.
Tôi dặn dò:
- Bà về nhà nghỉ ngơi và nhớ trở lại tái khám đúng hẹn.
- Tôi sẽ không quên đâu, bác sĩ!
Tôi chào bà ta và bước ra khỏi phòng. Bên ngoài, trời đã tắt nắng, cảnh vật trở nên nhá nhem, tranh tối tranh sáng, những ngọn đèn đường đã bắt đầu bật lên. Buổi chiều bệnh viện thật là vắng vẻ, những hành lang dài hun hút vắng bóng người qua lại vì đã hết giờ thăm bệnh. Tôi vào phòng thay áo, sửa soạn ra về, tôi vừa khép cửa phòng thì chợt nghe tiếng chân vội vã trên hành lang và ông Woòng xuất hiện, đang đi về phía phòng của bà Mei. Thấy tôi, ông ta dừng lại vui vẻ nói:
- Bác sĩ sắp về đó à? Hôm nay nhà tôi được xuất viện, phải không?
- Phải, bà ấy đang đợi ông ở trong phòng.
Và tôi dặn thêm:
- Ông nhớ ba tuần sau phải đưa bà ấy trở lại tái khám và bắt đầu trị liệu đợt hai.
- Tại sao phải mất thì giờ làm vậy, bác sĩ? Tôi không tin Chemo sẽ giúp cho vợ tôi khỏi bệnh.
Tôi cau mày nhìn ông ta với một vẻ bất bình:
- Tôi mong ông sẽ không nói những lời đó với vợ ông. Thật là tàn nhẫn nếu dập tắt đi nguồn hy vọng cuối cùng của bà ta…
- Tôi chỉ nói lên một sự thật thôi. Bác sĩ cũng biết như tôi là cho tới bây giờ, khoa học vẫn bó tay trước bệnh ung thư.
- Tuy chưa tìm ra thuốc trị dứt hẳn, nhưng khoa học có thể kéo dài đời sống của bệnh nhân thêm ít lâu.
- Thôi được tôi chịu thua! Cứ để cho bác sĩ giúp bà ấy sống thêm ít lâu nữa.
Nói xong, ông ta nheo mắt nhìn tôi cười tủm tỉm làm như vừa rồi chỉ là câu nói đùa:
- Bác sĩ yên tâm, tôi sẽ đưa vợ tôi đến khám đúng hẹn. Bây giờ thì tôi phải vào đưa bà ấy về. Chào bác sĩ, lái xe cẩn thận nhé!
Tôi nhìn theo ông ta vừa đi vừa xoay xoay chùm chìa khóa trong tay tiến về phòng của vợ, nghĩ thầm không biết bà Mei có thể giữ vững tinh thần sau khi trở về nhà phải chung sống với người chồng như ông ta không?
Ba tuần sau, y hẹn họ trở lại, tôi cho chụp Xray và rút máu để thử nghiệm. Kết quả Xray cho thấy cái bướu đã nhỏ đi chỉ còn một nửa, kết quả thử máu cho thấy cũng có tiến triển khả quan : Alpha Feto Protein giảm đi chút ít, những thử nghiệm về chức năng của gan, tuy còn cao nhưng giảm đi khá nhiều so với lần trước. Tôi báo tin cho hai vợ chồng bà Mei biết kết quả, mắt bà Mei sáng lên với vẻ vui mừng, bà hớn hở nhìn chồng như muốn khoe khoang thành quả, muốn ông san sẻ niềm vui, nhưng ông Woòng chỉ nhếch mép cười nhạt nhẽo, hình như ông không vui khi nghe kết quả tốt. Chẳng lẽ ông không muốn cho vợ khỏi bệnh ? ông ta nhìn tôi với cặp mắt hoài nghi và nói như mỉa mai:
- Bác sĩ có nghĩ rằng rồi đây với những đợt trị liệu kế tiếp, cái bướu sẽ hoàn toàn biến mất?
- Biết đâu mà nói trước, nhưng được tới đâu hay tới đó.
- Để từ từ mình ạ.
Bà Mei nói và âu yếm nhìn chồng như thầm cám ơn thái độ lo lắng của ông mà bà tưởng rằng đang sốt ruột muốn bà mau dứt bệnh. Ôi đáng thương cho bà Mei! bà đã lầm rồi mà không biết đấy, cũng như khi xưa bà đã lầm khi quyết định bằng lòng làm vợ ông ta. Nhìn ánh mắt của ông, tôi hiểu ông đang suy tính những gì ở trong đầu. Ông Woòng vòng tay ôm ngang lưng vợ, nhưng mắt thì nhìn đi chỗ khác, ông thì thầm như nói với chính mình:
- Mình nói đúng, chúng ta phải kiên nhẫn.
Lần trị liệu đợt hai và đợt ba cũng có kết quả tốt, cái bướu co nhỏ thêm một chút nữa, nhưng không nhiều như lần đầu. Tuy ít nhưng cũng là dấu hiệu tốt, mọi người đều vui mừng chỉ trừ ông Woòng vẫn giữ thái độ im lặng khó hiểu.
Đợt trị liệu thứ tư không suông sẻ như ba lần đầu, bà Mei có vẻ mệt nhiều vì ói mửa liên miên, bà kêu chóng mặt và đi đứng run rẩy, tuy vậy bà vẫn từ chối ngồi xe lăn. Qua ngày thứ ba, bà phấn chấn hẳn lên khi được chồng đón về nhà.
Lần tái khám thứ năm, tôi vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy bà, mới cách có một tháng mà trông bà như già đi cả chục tuổi, da mặt vàng khè và có nhiều nếp nhăn, tóc bà rụng gần hết chỉ còn lơ thơ có vài mảng, nhiều chỗ để lộ cả da đầu, mắt bà mất hết vẻ tinh anh trông lờ đờ mệt mỏi. Bà không còn nói cười vui vẻ như trước, bà thay đổi nhiều quá và gầy đi trông thấy. Hình chụp quang tuyến cho thấy cái bướu lại trở về nguyên kích thước cũ và lượng Total Bilirubin trong máu lên tới mức báo động, triệu chứng của tắc mật. Bà mệt mỏi ngồi dựa vào thành ghế trong phòng đợi, trong lúc ông Woòng sốt ruột cứ đi qua đi lại nhiều lần. Khi tôi ra báo tin kết quả thử nghiệm, ông nhìn tôi bằng cặp mắt đắc thắng như ngụ ý muốn nói:
- Đấy tôi nói có sai đâu? Bác sĩ là kẻ chiến bại rồi.
Bà Mei nhìn tôi với vẻ cầu cứu và hỏi giọng lo lắng:
- Bây giờ phải làm thế nào bác sĩ? Tôi mệt lắm rồi…
- Tôi sẽ cho đổi thuốc khác và có thể sẽ làm cả radiation nữa.
Qua ngày thứ hai của đợt trị liệu mới thì xảy ra một biến cố đau lòng làm tăng thêm nỗi tuyệt vọng của bà Mei: người bạn vẫn chung phòng với bà là bà Mary đã đột ngột qua đời, bà ta chết thật lặng lẽ, không có dấu hiệu báo trước. Mới hôm kia, bà Mary kêu khó thở và phải dùng bình dưỡng khí. Khó thở là triệu chứng thông thường của những người bị ung thư phổi, bà Mary đã nhiều lần phải thở bằng dưỡng khí, rồi mấy ngày sau hết mệt lại đi đứng như thường, lần này cũng vậy nên chẳng ai chú ý. Tối hôm đó bà than mệt, bỏ không xem TV và đi ngủ sớm, sáng hôm sau lúc cô y tá đi phát thuốc thì thấy bình dưỡng khí không còn nổi bong bóng, bà Mary đã ngưng thở từ hồi nào trong đêm.
Cái chết của bà Mary làm bà Mei xúc động rất nhiều, khi người ta phủ khăn trắng lên người bà Mary và đem bà ra khỏi phòng, bà Mei nhìn theo với cặp mắt lạc thần, không dấu nổi vẻ tuyệt vọng hiện lên nét mặt. Lần Chemo hôm đó, bà vật vã, vừa ói mửa vừa nóng sốt, phải cố gắng lắm, bà mới qua được ngày thứ ba. Lần này khi xuất viện, bà phải dùng xe lăn.
Mấy lần trị liệu tiếp theo cũng không khá hơn, bà Mei bị xuống cân rất nhiều vì không ăn uống gì được cả. Tôi bàn với các bác sĩ chuyên khoa ung thư, nên giữ bà ở lại bệnh viện, để được chăm sóc đúng cách. Cái bướu đã bắt đầu lớn trở lại và lớn rất nhanh, bụng bà chương to lên như người đang có thai, trong khi tay chân bà teo tóp lại. Bà Mei bây giờ trông giống như một bộ xương biết đi, hai mắt lõm sâu và đầu trọc lóc không còn một sợi tóc. Ông Woòng mua tặng vợ một bộ tóc giả, nhưng bà ít khi dùng tới. Bà chỉ đội tóc giả mỗi khi ông vào thăm, mà dạo này ông ít khi vào lắm, ông phó mặc vợ cho các nhân viên của nhà thương. Lâu lâu mới ghé bệnh viện một lần, ông đem cho bà vài thứ cần dùng rồi lại đi ngay. Nghe đâu ông mới có nhân tình, bà Mei hình như cũng biết nhưng chỉ làm thinh, bà còn hơi sức đâu mà ghen nữa, bà nằm liệt trên giường, mọi việc ăn uống, tiêu tiểu đều cần người giúp. Những cơn đau làm bà rên rỉ không ngừng, tôi phải cho chích Morphine để bà đỡ đau đớn, morphine làm bà lơ mơ nửa thức nửa ngủ. Những lúc tỉnh táo, bà hay kể về quê bà có dòng sông Dương Tử nước xanh trong, về ngôi nhà thời thơ ấu, về đứa con gái nhỏ đã chết cùng với cha nó trong một tai nạn xe hơi cách đây hơn hai mươi năm… Bà nói bà sắp được gặp lại hai người mà bà thương yêu nhất, tuyệt nhiên bà không bao giờ đả động gì đến ông Woòng cả.
Càng ngày, sức khỏe của bà Mei càng trở nên tệ hại, thuốc men chỉ có tác dụng rất ít, cả radiation cũng vậy, không đủ để ngăn chặn sự sinh sản rất nhanh của các tế bào ung thư. Hậu quả của thuốc làm bà ngất ngư, sợ bà kiệt sức, chúng tôi phải ngưng trị liệu bằng Chemo, và cố gắng giúp bà dễ chịu và bớt đau đớn được chừng nào hay chừng đó. Cái bướu ung thư không có gì kiềm chế nên tự do tung hoành, lan tràn qua các cơ quan khác không thể kiểm soát được, ruột gan của bà dính với nhau thành một chùm, ấn vào bụng thấy cứng như đá, mọi việc ăn uống, bài tiết đều phải dùng những ống thông. Bà nằm thoi thóp trên giường trông giống như một cái xác chưa chôn.
Hai tháng sau khi nhập viện, bà Mei qua đời trong khi ông Woòng đang đi du hí với tình nhân ở Las Vegas. Lúc đó vào khoảng hơn 11 giờ trưa là giờ giải lao của các bác sĩ, tôi ngồi trong văn phòng riêng vừa ăn, vừa đọc một tờ tạp chí, thình lình đèn đỏ bật lên và tiếng loa báo động “code blue ở phòng số 13”. Tôi là người chạy tới đầu tiên và thấy bà Mei đang vật vã không thở được, mồ hôi toát ra đầm đìa. Tôi biết là không xong rồi, vội vã làm hô hấp nhân tạo và cho chích thuốc hồi sinh. Nhưng mọi cấp cứu đều vô hiệu quả, bà Mei mặt tím bầm, miệng sùi bọt có lẫn máu, bà cố ngáp ngáp vài cái rồi nấc lên một tiếng trút hơi thở cuối cùng. Tôi vuốt cặp mắt vẫn mở trừng của bà, còn cô y tá thì thở dài, cúi xuống nói nhỏ vào tai bà như dỗ dành:
- Thôi ngủ yên đi bà Mei! từ nay bà đã hết đau khổ rồi đó.
Ông Woòng được điện thoại báo tin thì vội vã về ngay, ông nhìn xác vợ mà không nhỏ được một giọt nước mắt. Tôi ngần ngừ rất lâu trước khi cầm bút ký tên vào tờ giấy chứng khai tử “Bà Chu Mei Woòng 59 tuổi, chết ngày… tháng… năm… vì bệnh ung thư gan.”
Sau đám tang bà Mei khoảng chừng một tháng, ông Woòng trở lại bệnh viện để xin một bản sao giấy khai tử của vợ. Gặp ông trên hành lang, tôi nói nửa đùa nửa thật:
- Chúc mừng ông bây giờ sắp là một nhà triệu phú. Chắc ông đang lo giấy tờ để hưởng gia tài của bà ấy?
- Đúng vậy!
Ông Woòng gật đầu ngay, môi nở một nụ cười mãn nguyện. Thế rồi không chần chờ để tôi kịp nói thêm vài câu mai mỉa nữa, ông vội vàng giải thích:
- Bác sĩ đã hiểu phần nào câu chuyện rồi, thôi cũng chẳng cần giấu diếm. Tôi đã hy sinh tuổi trẻ và cuộc đời tươi đẹp của tôi để lấy bà ta, một người đàn bà goá vừa già vừa xấu. Mười lăm năm qua tôi đã quên mình để chỉ nghĩ đến hạnh phúc của bà ấy. Mười lăm năm dài lắm mà cuộc đời đâu có là bao, tôi phải được đền bù xứng đáng chứ? bác sĩ nghĩ xem có đúng không? đó là một cuộc đánh đổi công bằng.
Tôi thở dài, nhìn ra sân nắng ngoài kia, trời mới vào thu, lá cây ngả màu vàng rơi lả tả theo mỗi cơn gió, chim chóc nhảy chuyền trên cành, có hai con chim đang rỉa lông cho nhau rồi đột nhiên cùng bay vút đi. Tôi nhìn theo chúng một lúc rồi mới quay sang ông Woòng:
- Ông nói đã đem hạnh phúc cho bà ấy, nhưng sự thực có đúng như thế không? Ông có nghĩ rằng bà ấy hạnh phúc khi sống với ông không?
- Tôi không cần biết, nhưng mười lăm năm qua tôi vẫn ép mình sống bên bà ấy, cố gắng làm thỏa mãn tất cả mọi ước muốn của bà ấy, tôi chẳng có giây phút nào được sống riêng cho mình cả. Lại nữa tôi đâu có gây ra cái chết của bà ta? đối với pháp luật, tôi không làm điều gì sai trái cả.
- Phải, đối với pháp luật ông hoàn toàn vô tội, nhưng đối với lương tâm… Ông có lương tâm chứ? làm gì mà phải vội vã thế? Đàng nào bà ấy cũng sẽ chết, nếu không buồn phiền, cùng lắm bà ấy cũng chỉ sống thêm được dăm ba tháng, sao không để cho bà ấy chết một cách thanh thản sung sướng vì tưởng rằng vẫn còn tình yêu của ông?
Ông Woòng gãi đầu, hấp háy cặp mắt cận thị sau làn kính trắng một lúc rồi mới chậm rãi nói:
- Bác sĩ không biết đó thôi, cứ phải đóng kịch mãi cũng khổ lắm, mà tôi thì đã hết kiên nhẫn rồi.
* * *
Bẵng đi một thời gian dài không gặp mặt, một hôm tôi nhận được thiệp mời đi dự đám cưới của ông Woòng với lời ghi chú “ Thế nào bác sĩ cũng tới nhé? Tôi mong lắm, tôi muốn bác sĩ cùng chia sẻ niềm hân hoan với tôi và chúc mừng cho hạnh phúc thực sự của đời tôi.”
Đám cưới vĩ đại chưa từng thấy, tiệc cưới được tổ chức tại một khách sạn sang trọng nhất của thành phố New Port Coast với gần hai ngàn thực khách và hơn hai trăm bồi bàn. Khách sạn nằm trên đỉnh một ngọn đồi trông ra biển xanh dạt dào những sóng, và những hàng dừa trồng thành từng hàng thẳng tắp trên bờ. Trong khách sạn, cả một rừng hoa tươi được trang hoàng khắp nơi, nhiều nhất ở trong phòng đãi tiệc, một tấm thảm màu đỏ được trải dài từ cổng cho tới phòng khánh tiết. Một ban nhạc đại hoà tấu với hai mươi nhạc sĩ và đủ các thứ nhạc cụ, đang tấu tên những khúc nhạc vui tươi để chào mừng quan khách.
Chú rể Woòng cặp tay cô dâu tiến vào trong tiếng vỗ tay vang dội, mọi người đứng cả lên để đón mừng. Tôi nhìn sững chú rể, mới chưa đầy bốn năm mà ông đã thay đổi rất nhiều, ông mập gần gấp đôi lúc trước, mái tóc lốm đốm hoa râm, mặt đầy nếp nhăn và cái cầm thì đã có nọng. Thật ra với cái tuổi bốn mươi tám cũng chưa lấy gì làm già lắm, nhưng thân hình phì nộn đã lấy đi của ông cái vẻ trẻ trung năm xưa, và trông ông hình như không được khoẻ. Tôi chú ý đến tướng đi thỉnh thoảng hay bị giật giật, đôi bàn tay hơi run với những móng tay tím tái, tự hỏi không biết ông ta đang mắc bệnh Parkinson hay bệnh đau tim? Ông Woòng thở phì phò có vẻ mệt nhọc, một ngày quá bận rộn chắc làm ông khó thở.
Bây giờ thì hai người đã trao đổi xong nhẫn cưới và chú rể Woòng đang từ từ kéo tấm voan che mặt cô dâu lên. Tôi hơi bất ngờ trước dáng dấp quá trẻ của cô dâu mới, cô ta chỉ trạc hai mươi hai, hai mươi ba tuổi, người mảnh mai, khuôn mặt hình trái xoan đẹp sắc sảo, đôi mắt sâu, lông mi cong, gò má cao như phụ nữ tây phương, mái tóc óng ả cuốn thành những lọn quăn để xõa xuống vai, và đôi môi xinh mọng. Cô dâu đứng cạnh chú rể trông như hai cha con. Tôi nhìn sự chênh lệch đó mà không khỏi thắc mắc tự hỏi vì sao một cô gái trẻ trung xinh đẹp như vậy lại bằng lòng làm vợ một người đàn ông phì nộn, goá vợ, tuổi đáng cha chú, lại đang mang bệnh? Một câu trả lời đến trong đầu thật rõ rệt: chỉ vì ông ta là một triệu phú!
A ha! lại là một cuộc đánh đổi công bằng, nhưng lần này, ông Woòng đã đổi vai. Tôi mỉm cười, cảnh xưa lại tái diễn, đúng là một cái vòng luẩn quẩn. Nhìn nét mặt lanh lợi và đôi mắt sắc như dao cau của cô dâu trẻ, tôi không khỏi lo thầm dùm cho ông Woòng. Cẩn thận đấy ông bạn, không khéo lần này chính ông mới là người bị thua thiệt.
LƯU - PHƯƠNG - LAN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét