Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Ba, 5 tháng 3, 2024

NGÀY TA BỎ NÚI -- Vương Mộng Long


Lời giới thiệu: Hồi ký “Ngày Ta Bỏ Núi” đã được viết cách đây 16 năm. Nhưng khi phổ biến, nó đã bị cắt xén và che giấu nhiều điều. Tác giả Thiếu tá Vương Mộng Long đã bỏ công nhuận sắc lại toàn bộ bài viết này. “Ngày Ta Bỏ Núi” với đầy đủ chi tiết từng ngày, từng sự kiện diễn ra trong suốt cuộc lui binh, kể cả những bí mật mà trước đây bị che đậy và giấu nhẹm. 
Tôi lái xe ngược chiều về xưởng cưa thăm vị trí của ông Hoàn. Bỗng tai tôi nghe có tiếng động cơ từ hướng Kiến-Ðức vọng về. Sợ xe tank của địch sẽ tiến tới tấn công, tôi quyết định cho cánh quân của Ðại úy Tiểu đoàn phó rút qua mặt Bộ chỉ huy tiểu đoàn rồi ngủ đêm bên bờ con sông hướng Bắc trục lộ, cách tôi độ nửa cây số, hướng Gia-Nghĩa.
<!>
Tôi xuống xe đi bộ cùng với ông Hoàn.

Khi đi ngang xóm nhà của Khu Dinh Ðiền Nhơn-Cơ, nơi Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân và địch đã giao chiến suốt đêm 18 và sáng 19 tháng Ba, chúng tôi nghe mấy người lính đi bên trái báo có một thương binh bạn nằm bên lề đường.

Một Biệt Ðộng Quân mang phù hiệu Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân nằm trên bờ cỏ sát suối. Ruột gan anh đổ trên mặt cát. Ðầu mặt, tay chân anh máu đã khô. Kiến lửa và ruồi nhặng lúc nhúc bu trên người anh.

Người chiến sĩ Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân chỉ còn thoi thóp nhẹ.

Tôi lần tay vào cò khẩu súng Colt 45. Tôi nghĩ tới viên đạn giải thoát cho bạn mình.

Tay tôi run run. Tôi không đủ can đảm làm việc này!

Tôi chợt nghĩ, anh chiến sĩ đã hôn mê; chắc anh ta không còn biết đau đớn là gì nữa cả. Chắc anh không cần đến viên đạn giải thoát của tôi.

Tôi và Ðại úy Hoàn lấy một cái poncho phủ lên người anh. Hai chúng tôi đứng nghiêm chào vĩnh biệt người bạn trẻ cùng binh chủng.

Cách chỗ anh Biệt Ðộng Quân nằm chừng năm chục mét trên dốc là hai cái xác Việt-Cộng đã sình. Hai cái xác trương to như hai con bò, áo quần căng cứng.

Nắng hầm hập. Một vùng ngập chìm trong tử khí.

Trưa 25 tháng Ba năm 1975, đứng trên đồi cao, tôi nhìn thấy khói đen bốc lên hướng thị xã Gia-Nghĩa. Trung tá Liên đoàn trưởng báo cho tôi biết tin Tiểu Khu Quảng- Ðức đang bắt đầu rút về Blao.

Trung tá Thanh còn cho tôi hay, người chỉ huy cuộc hành quân triệt thoái khỏi Quảng-Ðức không phải là Ðại tá Phạm Văn Nghìn, Tỉnh trưởng Quảng-Ðức, mà là ông Trung tá Phạm Ðức Dư, Tham mưu trưởng Tiểu khu.

Trung tá Dư xuất thân là một sĩ quan tài chánh, từng làm Tham mưu trưởng Tiểu Khu Lâm Ðồng từ khi còn là đại úy cho đến khi chuyển qua làm Tham mưu trưởng Tiểu khu Quảng Ðức mới được gần một tháng. Ông Trung tá Phạm Ðức Dư chưa từng có dịp ra trận, chưa cầm súng bắn một viên đạn thật lần nào, nên đành phải giao cho Thiếu tá Trần Văn Bường, Tham mưu phó hành quân Tiểu khu Quảng-Ðức đảm đương nhiệm vụ điều quân.

Vì thế, Trung tá Hoàng Kim Thanh ra lệnh cho Bộ chỉ huy Liên Ðoàn 24 và hai Tiểu Ðoàn 63 & 81 Biệt Ðộng Quân án binh tại chỗ, chờ tôi về rồi mới tính sau.

Tôi lên xe chạy về Gia-Nghĩa. Trên đường, tôi phải ngừng xe nhiều lần để dẹp những khúc gỗ súc lớn mà các bạn Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân Quảng-Ðức đã trải đầy mặt lộ. Ðó là những chướng ngại vật chống tank cấp thời của các đơn vị bạn còn để lại.

Nơi đầu tỉnh, gặp mặt Trung tá Thanh, tôi cùng ông duyệt lại tình hình Quảng-Ðức.

Chúng tôi thấy những ngày trước đó, quân ta chưa có gì sứt mẻ. Tinh thần còn vững vàng. Tiếp liệu còn đầy kho. Chỉ có Kiến-Ðức, Nhơn-Cơ là nóng bỏng. Hai Tiểu Ðoàn 81& 82 Biệt Ðộng Quân và Ðịa Phương Quân của quận Nhơn-Cơ còn đứng vững, chưa cần tới tiếp viện.

Tôi không hiểu vì sao ông tỉnh trưởng bắt chúng tôi lui binh từ từ, bỏ hết điểm này tới điểm nọ.

Bây giờ ông ta lại bỏ cả tỉnh lỵ khi địch chưa tỏ ý định đánh chiếm nó.

Kho tàng đã bị đốt hết. Chúng tôi có tử thủ cũng chỉ vài ngày là hết đạn, hết cơm. Chúng tôi không rút cũng không được.

Tôi vội kêu Trung úy Ðăng giao Ðại Ðội 2/82 lại cho Chuẩn úy Gấm rồi dùng chiếc xe GMC của tiểu đoàn chạy về liên đoàn gặp tôi.

Tôi giao cho Trung úy Ðăng hai trăm ngàn tiền ăn và dặn dò anh dùng xe GMC đi theo đoàn xe của Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Quảng-Ðức. Tới Blao, anh chuẩn bị lương thực tiếp tế sẵn cho đơn vị.

Ra khỏi liên đoàn, tôi ghé chợ Gia-Nghĩa. Chợ quán thưa vắng.

Tôi vào khu bán chạp phô. Tôi mua hai ký tép khô. Giá ba trăm đồng một ký. Tôi đưa cho chị bán hàng tờ giấy một nghìn, không nhận tiền thối lại. Tôi hỏi những người bán hàng,

– Sao bà con còn nấn ná ở đây? Người ta đi hết rồi!

Chị bán tép sụt sịt,

– Biết đi đâu bây giờ Thiếu tá ơi! Con thì nhỏ, đường thì xa. Em sợ tên bay đạn lạc. Thôi ở lại đây có chết cũng đành!

Tôi buồn bã nói với bà con đôi lời từ giã.

Lúc đó có tiếng ồn ào nơi khu phố đối diện, cạnh Phòng Ngủ Gia-Nghĩa, nơi có hai tiệm vàng. Cửa hàng bên phải có tiếng khóc than. Cửa hàng bên trái có bóng đi ra, đi vô của một bộ quần áo rằn ri.

Tôi hỏi chị bán tép chuyện gì huyên náo, chị nói,

– Cướp, có hai anh lính Biệt Ðộng Quân ăn cướp! Họ ném lựu đạn vào tiệm bên phải, cướp vàng. Họ đang khảo tra chủ tiệm bên trái.

Tôi ra xe phất tay cho Trung sĩ Nguyễn Chi và Hạ sĩ Mom Sol sẵn sàng. Hai người này và anh tài xế đã rõ câu chuyện ăn cướp. Họ thủ thế chờ lệnh.

Tôi đứng trước đầu xe hét to:

“Ê! Hai anh kia đi ra không tôi bắn!”

Một tên tóc tai dài lượt thượt ló đầu ra cửa. Hắn giơ tay lên nhứ nhứ quả M 26.

Tôi ra lệnh:

“Bắn!”

Hai viên M16 trúng đầu thằng ăn cướp.

Nó nằm giãy tê tê trước bục cửa ra vào của tiệm kim hoàn. Quả lựu đạn chưa mở chốt văng trước thềm. Thằng thứ nhì cũng mặc quân phục Biệt Ðộng Quân từ trong nhà chạy ra, trên tay cũng có hai trái M 26.

Tôi hét lớn,

– Ném hai quả lựu đạn ra vườn!

Tên cướp ném hai trái M26 ra sân cỏ sau nhà. Chỉ một trái đã bị rút chốt an toàn.

Một tiếng “Ùm!” làm bay tấm tôle trên mái.

Tôi ra lệnh tiếp,

– Nằm úp mặt xuống đất, hai tay dang ra!

Hắn riu ríu làm theo lệnh. Tôi lại la lớn,

– Còn ai trong nhà nữa không? Ra hết đi!

Một cặp vợ chồng già run lập cập nắm áo nhau chạy ra sân chợ.

Ba thầy trò tôi tiến lên chỗ tên cướp đang run như cầy sấy.

– Mày ở đơn vị nào?

– Dạ em là Lao Công Ðào Binh của Sư Ðoàn 23 Bộ Binh chạy lạc về đây!

Tôi hỏi vặn,

– Quần áo Biệt Ðộng Quân tụi mày lấy ở đâu ra?

– Dạ nhiều lắm! Trong tiệm giặt ủi đàng kia!

Tôi co chân đá vào mặt thằng ăn cướp một cái. Miệng nó phun máu. Tôi ra hiệu cho chú Chi lục túi nó và túi thằng đã chết, gom tang vật lại rồi gọi nạn nhân ra trao cho họ.

Gia chủ căn nhà bên phải chạy ra nhận lại số vàng. Họ vừa khóc vừa cám ơn.

Tôi đá liên tiếp vào mặt thằng ăn cướp mấy cái nữa, nó ôm mặt lăn lộn trên mặt đường khóc lóc xin tha mạng.

Tôi quát,

– Cút đi!

Nó lồm cồm bò dậy, chạy một mạch xuống triền đồi khuất dạng.

Tôi phân trần với dân phố đang bu quanh,

– Tụi này là lính giả. Chúng nó là quân phạm chứ không phải Biệt Ðộng Quân. Biệt Ðộng Quân không có những hạng người đốn mạt như tụi này!

Nói xong câu đó, tôi nghĩ tới ngày mai, chúng tôi không còn hiện diện ở nơi đây nữa. Ai sẽ thanh minh cho chúng tôi những sự mạo nhận như thế?

Tôi buồn bã lên xe hướng về Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Quảng- Ðức.

Tòa Hành Chánh bị đốt hư hại nhẹ. Khói từ các cửa sổ ăn loang lổ tường vôi.

Khu Trung-Tâm Yểm-Trợ Tiếp-Vận chỉ có kho xăng đã cháy, vài căn nhà chứa lương thực và đạn dược bị đốt lam nham. Những chỗ khác vẫn còn nguyên vẹn.

Trên mặt đất, quân trang, quân dụng, lương thực vương vãi khắp nơi.

Tôi quay xe xuống đồi. Tôi hẹn với Trung tá Liên đoàn trưởng, sáng mai tôi sẽ rút quân thẳng về bờ sông Kinh-Ðà chờ bộ chỉ huy và hai tiểu đoàn. Ðiểm vượt sông tôi sẽ định sau.

Sáng ngày 26 tháng Ba năm 1975, tôi ra lệnh phá hủy hai khẩu 105 ly ngay trên sân miếu thổ thần sau khi bắn hết gần một ngàn viên đạn về hướng Kiến-Ðức.

Khẩu 106 ly được ném xuống dòng sông bên đường, đạn của khẩu súng này cũng đã được gởi (bắn) hết qua bờ Nam đập nước.

Mười giờ sáng, đại đội đi đầu ra tới bờ sông. Trước khi tới bờ sông, tôi gặp một trạm gác của Nghĩa Quân Khiêm-Ðức.

Tôi thấy một Nghĩa Quân ngồi trên chòi gác giặc. Anh lính đang chăm chú quan sát khu rừng rậm dưới dốc.

Tôi hỏi anh Nghĩa Quân,

– Sao em còn ngồi đây? Người ta đi hết rồi!

Anh lính ngơ ngác,

– Ủa! Chứ người ta đi đâu Thiếu tá?

– Người ta rút về Blao hết rồi! Em đi đi!

Anh Nghĩa Quân nhìn tôi bán tín bán nghi. Ðến lúc thấy quân lính theo tôi đông ngời ngời, anh phát hoảng, co giò chạy về hướng thị xã.

Ðể tránh sự quan sát của địch, tôi cho tiểu đoàn đi song song với bờ sông Ða-Dung xuôi về hướng Tây. Càng tránh xa những con lộ chính hay đường xe be, càng đỡ lo chuyện rủi ro trên bờ đối diện.

Tới một khúc quanh, dòng chảy đổi thành Bắc Nam.

Cuối nguồn một ngọn thác thì mặt sông Da Dung phình ra, vận tốc nước trôi không còn nhanh lắm. Tôi quyết định vượt sông

Tôi chọn hai anh lính gốc dân chài cùng tôi bơi qua sông làm đầu cầu.

Ba khẩu M16, ba băng đạn, ba cuộn dây nylon, ba thầy trò tôi bu theo ba cái phao poncho độn bằng cành lá.

Chỉ có tôi và một anh lính tới bờ bình yên. Người lính bơi trên thượng nguồn bên trái tôi chìm nghỉm giữa dòng, sau một tiếng “Ối!” thất thanh. Ða-Dung nổi tiếng là sông nhiều cá sấu!

Qua tới bờ Ðông, tôi thủ thế khẩu M16 gác giặc để anh Biệt Ðộng Quân bạn yên tâm cột dây cho các toán viễn thám của tiểu đoàn theo chân nhau qua sông. Sau đó các đại đội được lệnh chặt tre làm mảng.

Ai biết bơi thì chỉ cần ôm một khúc tre lồ ô là có thể nương theo dòng chảy, tới bờ đối diện không khó khăn lắm.

Lúc này cả một khúc sông ồn ào như cái chợ. Nếu có con cá sấu nào bơi gần đó chắc cũng thất kinh hồn vía lo tìm đường tẩu thoát.

Tiểu đoàn tôi hoàn tất cuộc vượt sông với một thời gian rất ngắn. Khi Bộ chỉ huy Liên đoàn bắt đầu xuống mảng thì Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân cũng bắt đầu di chuyển. Tôi cho đơn vị đi ngược về Ðông Bắc, hướng tới một ngọn đồi xanh khá cao.

Cách bãi vượt sông chưa tới hai trăm mét là một bãi sình rộng. Cả chục con cá sấu lớn nhỏ đang nằm phơi mình dưới nắng. Thấy đoàn người đi tới gần, chúng hoảng sợ lao mình xuống nước, lội ngược dòng về thượng nguồn.

Ngọn đồi xanh mà chúng tôi đang chiếm lĩnh là một rừng tre. Tôi cho quân vượt cái yên ngựa, bố trí trên đỉnh Ðông Bắc của yên ngựa, nhường cái đuôi yên ngựa cho những đơn vị lên sau.

Dưới bờ sông có tiếng lựu đạn nổ. Truyền tin báo cho tôi hay, Trung tá Hoàng Kim Thanh, Liên đoàn trưởng, Trung úy Nguyễn Công Minh, Sĩ quan Truyền tin Liên đoàn và ba người khác bị thương.

Ơ hờ khi sưởi ấm đã gây ra tai nạn lựu đạn nổ. Lựu đạn nổ vì sợi dây thun cột mỏ vịt lựu đạn bị cháy trong lúc kíp an toàn đã bị tháo mất rồi. Trung tá Liên đoàn trưởng bị mảnh lựu đạn văng trúng ngực và trán.

Sau khi băng bó, Trung tá Thanh và những người bị thương được cáng lên chỗ tôi đóng quân.

Sáng ngày 27 tháng Ba năm 1975, trực thăng từ Ðà-Lạt tới bốc những quân nhân bị thương. Cùng đi trên chuyến tải thương này còn có Thiếu tá Hoàng Ðình Mẫn Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân. Ông Mẫn bị sốt rét cấp tính.

Như vậy là chỉ trong vòng hai mươi bốn giờ sau khi rời Quảng-Ðức, hai vị sĩ quan chỉ huy của liên đoàn đã ra khỏi vùng.

Sau khi Trung tá Hoàng Kim Thanh được tải thương thì ông Trung tá Liên đoàn phó trở thành sĩ quan Xử Lý Thường Vụ chức vụ Liên đoàn trưởng Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân.

Tôi ở tiền quân, cách xa bộ chỉ huy liên đoàn gần nửa cây số nên không biết ông liên đoàn phó đang đi với tiểu đoàn nào.

Tôi thấy mới ra quân mà đã bỏ phí hai ngày đường, nên sau khi tải thương xong, tôi cho lệnh đơn vị gấp rút đổ dốc tiến về hướng Ðông Nam.

Chiều đó đang đi trên một lối mòn, chúng tôi nghe tiếng gà nhà gáy trong rừng. Vậy là có mật khu Việt-Cộng gần đâu đây?

Tôi báo cáo tình hình cho liên đoàn, đề nghị những cánh quân theo sau tôi dừng lại để tôi tập kích cái mật khu trước mặt.

Cái khu sản xuất của Thượng Cộng nhỏ tí, với hai chú du kích Thượng đang ngồi ngậm ống vố, không đáng cho một cú xung phong của một đại đội Biệt Ðộng Quân.

Hai tên du kích chưa kịp đứng dậy cầm súng đã bị bắn vỡ óc, nằm thẳng cẳng bên lò lửa than nghi ngút khói dưới chân một cái nhà sàn.

Tối đó chúng tôi dừng quân ngay trong mật khu địch. Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân bố trí một vòng cung hướng về Ðông, các tiểu đoàn bạn hạ trại bao quanh bộ chỉ huy liên đoàn, chịu trách nhiệm phòng thủ hướng Tây.

Cả liên đoàn không còn cái xẻng cá nhân nào, chúng tôi ngủ lộ thiên trên poncho. Tôi có cảm tưởng như mình là một Hướng Ðạo Sinh thời còn đi học, đang tham gia một đêm cắm trại mùa Hè.

Khoảng bảy giờ đêm, tôi nghe tiếng người cười đùa huyên náo trong rừng, khu Ðại Ðội 3/82. Tôi và Binh nhì Phan Thọ lần bước về chỗ tiếng cười nói ồn ào.

Trung úy Trần Văn Phước, Ðại đội trưởng Ðại Ðội 3/82 và cả chục Biệt Ðộng Quân dưới quyền anh đang quây quần bên một vò rượu cần, vò rượu chiến lợi phẩm. Trự nào cũng xiêu vẹo bước tới, bước lui. Trự nào cũng lè nhè, la hét ồn ào. Tiếng họ cười nói oang oang giữa rừng khuya.

Với tôi, thì uống rượu không là một cái lỗi; nhưng say rượu thì tôi không tha; dù người đó thân cận như chú Phước.

Tôi rút súng bắn tan vò rượu. Những ma men tỉnh rượu ngay lập tức.

“Cuốn lều! Ðại Ðội 3 cuốn lều! Hướng hai ngàn bốn trăm dzu lu! Làm ngay!”

Trung úy Phước và “tòng phạm” riu ríu thi hành lệnh.

Mười phút sau một khoảng rộng lớn trên tuyến phòng thủ của tiểu đoàn bị bỏ trống. Ðại Ðội 3/82 bị phạt phải dạ hành mở đường. Mãi nửa giờ sau tôi mới bớt giận. Tôi ra lệnh cho Ðại Ðội 3/82 dừng lại tấp vào rừng ngủ.

Trong tiểu đoàn này Trung úy Trần Văn Phước là người thân cận nhất của tôi. Tháng 11/1972 khi tôi còn giữ chức Trưởng Phòng 2 của Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2 thì Chuẩn úy Trần Văn Phước về trình diện.

Vì Chuẩn úy Trần Văn Phước có bằng Tình Báo Căn Bản từ Trường Cây Mai, nên đầu năm 1973 tôi đã cho Phước vào Plei M’rong làm Sĩ quan Ban 2 của Tiểu Ðoàn 63 Biệt Ðộng Quân. Nhưng chỉ được ít lâu, Thiếu tá Phạm Duy Ánh, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 63 Biệt Ðộng Quân đã chịu không thấu cái tật rượu vào là rút súng của ông chuẩn úy nên vội hoàn trả chú Phước về cho tôi. Chỉ có mình tôi là biết cách kiềm chế con ngựa chứng này. Chú Phước đã theo tôi từ đó cho tới ngày tàn cuộc chiến.

Tới cuối năm 1973, sau khi Phước lên thiếu úy thì thầy trò tôi vào Pleime.

Chú Trần Văn Phước và chú Nguyễn Công Minh, sĩ quan truyền tin của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân, là hai sĩ quan sau cùng còn ở lại bên tôi, rồi bảo vệ tôi thoát hiểm trong kẽ tóc đường tơ, khi vị trí của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân bị địch tràn ngập trưa 15 tháng Tư năm 1974.

Rồi cũng chính Thiếu úy Trần Văn Phước là người đầu tiên cùng tôi đặt chân trên Căn cứ 711 sau khi chúng tôi vất vả hai ngày phản công tái chiếm căn cứ này. Trận đó tiểu đoàn của chúng tôi bị 6 tiểu đoàn của Sư Ðoàn 320A/ Ðiện Biên xa luân chiến.

Trong hai năm sau cùng của cuộc chiến, không có trận đánh nào mà không có mặt Phước bên cạnh tôi.

Sau trận Pleime, Thiếu úy Trần Văn Phước được đặc thăng trung úy. Lên trung úy, chú Phước bỏ nghề Quân Báo, trở lại đời tác chiến làm đại đội trưởng.

Ðây là lần đầu, tôi nặng tay với Phước. Tôi vào máy gọi cho Phước,

– An Bình đây Thái Sơn! Stop được rồi! Nghe rõ chưa?

Ðầu máy bên kia, tôi nghe tiếng người đàn em sụt sịt,

– Em xin lỗi Thái Sơn! Em xin lỗi anh Hai!

Tôi cũng thấy mủi lòng, xốn xang,

– Thôi! Ngủ đi! Chờ mai anh lên với chú!

Tôi lấy điếu Lucky ra hút. Tiếng muỗi đêm vo ve bên tai. Tiếng suối reo rì rào trong khe. Tiếng gió lùa ù ù sau đồi. Trên poncho, lá cây rơi lộp độp. Quanh tôi đủ loại tiếng rừng. Chưa lần nào tôi cảm thấy rừng đêm buồn như thế!

Ðêm 27 tháng Ba năm 1975, trăng sáng như ban ngày.

Gần chín giờ khuya, Trung tá Liên đoàn phó cho người tới lều mời tôi lên gặp riêng.

Tôi nghĩ ông Liên đoàn phó sẽ rầy la tôi về vụ ồn ào của Ðại Ðội 3/82.

Tôi đã chuẩn bị tâm tư nhận lỗi với ông chỉ huy mới của liên đoàn về sự vô kỷ luật của đàn em. Nhưng tôi không ngờ ông Trung tá Liên đoàn phó muốn gặp tôi lại vì mục đích khác chứ không vì chuyện lính tráng say sưa.

Cho tới giờ này tôi mới nhìn thấy dung nhan ông Trung tá Liên đoàn phó, tên ông ấy là Ðào Ðức Châu.

Thì ra trong quá khứ, hơn một năm về trước, tôi và ông ta, đã giáp mặt nhau một lần, chỉ vài phút, ở Bồng-Sơn, Tam- Quan, Bình- Ðịnh, ngày đó ông Châu còn mang lon thiếu tá, giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 34, Liên Ðoàn 6 Biệt Ðộng Quân.

Hôm đó, nhân dịp lễ Giáng – Sinh năm 1973 tôi có lệnh tháp tùng Ðại tá Phạm Duy Tất, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/ Quân Khu 2 và Thiếu tướng Ðỗ Kế Giai, Chỉ Huy Trưởng/ Biệt Ðộng Quân/ Quân Lực Việt-Nam Cộng-Hòa bay trực thăng tới Bắc Bình-Ðịnh để ủy lạo các đơn vị Biệt Ðộng Quân đang tham chiến ở vùng này.

Tại phi trường Bồng Sơn, Ðại tá Nguyễn Kim Tây, Liên đoàn trưởng Liên Ðoàn 6 Biệt Ðộng Quân đã nài nỉ tôi hoán đổi vị trí cho Thiếu tá Ðào Ðức Châu để ông Châu lên Vùng 2, còn tôi sẽ thay ông Châu giữ chức Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 34 Biệt Ðộng Quân.

Tôi dư điều kiện để xin đổi vùng, vì tôi đã ở Pleiku, Vùng 2 trong thời gian gần mười năm rồi. Nghe Ðại tá Nguyễn Kim Tây đề nghị, tôi vui vẻ đồng ý ngay.

Ðại tá Nguyễn Kim Tây và tôi quen biết đã lâu. Hơn thế nữa, đầu năm 1972 tôi là người đã bay liên tục cả giờ đồng hồ trên trời Pleiku để sẵn sàng xuống cứu một phi công lâm nạn theo lời yêu cầu của ông Tây.

Hôm đó có một chiếc oanh tạc cơ Skyraider đã bị Việt-Cộng bắn trúng càng trong một phi vụ yểm trợ hành quân ở Kontum mới bay về. Tôi cũng vừa thả xong một toán viễn thám và đang chuẩn bị đáp trước bộ chỉ huy, nhưng Trung tá Nguyễn Kim Tây lại có mặt ở đây và đã yêu cầu tôi bay cover cho chiếc Skyraider bị nạn.

Lý do ông Tây quan tâm tới chuyện này chỉ vì viên phi công lái chiếc Skyraider là một người em ruột của ông Tây.

Dự trù khi máy bay cạn nhiên liệu, phi công sẽ nhảy dù xuống vùng Tây Pleiku và bỏ cho tàu rơi tự do trong rừng, trực thăng của tôi sẽ xuống cứu ông ta.

Nhưng bay tới khi hết xăng, người phi công đã không nhảy dù, bỏ tàu, mà cố gắng đáp bằng bụng. Cú đáp đã thành công ngoài dự liệu của mọi người.

Sau này, năm 1973, ông Nguyễn Kim Tây trở thành Ðại tá Liên đoàn trưởng Liên Ðoàn 6 Biệt Ðộng Quân nên ông muốn tôi về làm việc với ông.

Thiếu tướng Ðỗ Kế Giai không phản đối chuyện hoán chuyển này, nhưng Ðại tá Phạm Duy Tất thì có vẻ không vui.

Nhìn tôi, ông Tất nói,
– Anh có làm gì phật lòng Long không mà Long bỏ anh?

Nghe Ðại tá Tất nói, tôi đã mềm lòng, xin hủy bỏ chuyện đổi vùng.

Tôi đã phụ lòng Ðại tá Nguyễn Kim Tây. Tôi đã ở lại với Ðại tá Phạm Duy Tất, với Vùng 2, và tôi đã làm được nhiều điều mà những thiếu tá khác không làm được. Vậy mà qua bao trận đánh, qua bao chiến công, tôi vẫn là thiếu tá.

Tôi hơi ngỡ ngàng, khi nhận ra ông Trung tá Liên đoàn phó của tôi lại chính là ông Thiếu tá Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 34 Biệt Ðộng Quân ngày nào.

Ông Châu mới tới Liên Ðoàn 24 một thời gian rất ngắn. Ông ta chưa hề đi thăm các đơn vị tiền tiêu, do đó tôi chưa từng gặp mặt ông ta.

Chính vì chưa giáp mặt, chưa quen cách điều binh khiển tướng của Trung tá Châu mà tôi đã thề sẽ bắn nát óc ông ta nếu ông ta cắt đứt pháo yểm của tôi cách đây vài ngày.

Ông Trung tá Châu thuộc lớp sĩ quan sống lâu lên lão làng, nên cách chỉ huy của ông ta cũng khác xa cung cách chỉ huy của lớp sĩ quan trẻ chúng tôi.

Ông Liên đoàn phó thân thiện mời tôi vào lều; ông trung tá ngồi trên võng, còn tôi thì ngồi trên khúc gỗ đối diện với ông.

Ông nói với tôi rằng cuộc họp “bí mật” này ông chỉ muốn có mặt mình tôi thôi; ông không cho hai vị chỉ huy tiểu đoàn còn lại là Thiếu tá Ðàng và Thiếu tá Tài biết chuyện ông sẽ bàn tính với tôi.

Ông tự giới thiệu, ông là dân Bắc Di Cư, tốt nghiệp Khóa 12 Võ Bị Quốc Gia. Ông ta vừa học xong khóa tu nghiệp gì đó sau khi lên cấp trung tá thì được lệnh về giữ chức Liên đoàn phó Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân.

Ông Châu mở ba lô lấy bao thuốc lá Salem đầu lọc, mời tôi,

– Long hút thuốc đi! Hút một điếu cho ấm!

Tôi xua tay,

– Cám ơn Niên Trưởng! Tôi không hút thuốc đầu lọc!

Ông Châu im lặng một phút, rồi với một giọng đầy thảm não, ông bắt đầu tâm sự,

– Long ơi! Anh sinh ra để làm chính trị. Chỗ của anh là Thượng Viện, Hạ Viện chứ đâu phải chỗ này? Anh có muốn làm nhà binh đâu? Anh sinh ra không phải để làm lính! Quyết định đi lính của anh là một quyết định sai lầm! Giờ này anh không còn chút hứng thú nào ở quân đội nữa!

Tôi sốt ruột, phang ngang,

– Bây giờ Trung tá có lệnh gì cho tôi thì nói ngay đi! Nếu không, tôi phải về ngủ để mai còn sức mở đường! Liên đoàn đang lui binh, tôi không rảnh ngồi nghe chuyện cổ tích.

Thấy tôi có vẻ không muốn cà kê, dài dòng, ông Châu vội khẩn khoản,

– Long có uy tín với quân đoàn, mai Long xin trực thăng tải thương cho anh về Ðà Lạt được không? Anh…

Tôi ngạc nhiên, trợn mắt, ngắt lời ông Châu,

– Trung tá đừng đùa lúc này!

Ánh sáng từ cái bóng đèn nhỏ mắc vào cục pin PRC 25 cho tôi thấy đôi mắt ráo hoảnh của vị sĩ quan khóa đàn anh,

– Anh nói thật chứ có đùa đâu?

Bây giờ thì tôi biết ông trung tá nói thật, không đùa. Tôi cứ ngồi ớ ra mà không biết phản ứng ra sao. Thấy thế, ông Châu năn nỉ tiếp,

– Long à! Thương anh thì ngày mai Long xin trực thăng cho anh ra khỏi đây, anh sợ chiến trận rồi!

Tôi nhấp nhỏm đứng dậy thì ông Châu vội cầm tay tôi,

– Anh đâu có tình nguyện lên Vùng 2 (?) Anh đâu có quen địa thế ở đây(?) Anh có ở lại cũng chẳng giúp gì cho anh em. Long ở Vùng 2 lâu rồi, quen biết nhiều, ngày mai Long xin trực thăng cho anh ra khỏi đây đi! Mình là anh em cùng trường. Long cố gắng giúp anh! Anh cám ơn Long nhiều lắm!

Thế là hết chuyện! Bộ mặt bỉ ổi của một kẻ tham sống sợ chết đã lộ ra quá nhanh và quá trơ trẽn. Tôi thẫn thờ đứng lên, bước ra khỏi căn lều của tên vô loại.

Ðêm đó tôi ngồi hút hết điếu thuốc này tới điếu thuốc khác mà lòng thì buồn vô cùng, cứ nhớ về Trường Mẹ Ðà-Lạt không nguôi…

Mờ sáng 28 tháng Ba năm 1975, một công điện khẩn được gởi cho Bộ Tư Lệnh Quân Khu 2/ Hành Quân, xin trực thăng tản thương.

Trước khi máy bay tới, Ðại úy Trần Dân Chủ, Ban 3 Liên đoàn đến xin tôi cho phép anh ta theo chân Trung tá Liên đoàn phó rời vùng.

Tôi trả lời anh ta rằng,

– Trực thăng chưa tới thì ông Trung tá Châu còn là người chỉ huy liên đoàn. Anh phải trình diện ông ta, xin ông ta cho phép anh rời nơi đây.

Tôi nói thêm,

– Nếu tôi là người chỉ huy liên đoàn, tôi sẽ không cho bất cứ sĩ quan nào rời vùng. Trong những tình thế hiểm nghèo, người lính trông nhờ vào sĩ quan. Chỉ có sĩ quan mới có khả năng dắt dìu những người lính dốt nát thoát khỏi cơn khốn đốn. Sĩ quan biết sử dụng bản đồ, địa bàn, biết phương hướng. Ði trong núi, trong rừng mới cần sĩ quan dẫn dắt binh lính. Trong thành phố không ai cần các anh dẫn dắt!

Ông Ðại úy Ban 3 dạ dạ, vâng vâng. Nhưng khi máy bay tải thương tới, thì Ðại úy Chủ đã nhanh chân theo bén gót Trung tá Châu lên tàu. Có hai hạ sĩ quan khai bệnh sốt rét tới xin đi, tôi cho đi luôn.

Hóa ra chuyến đi này của Trung tá Ðào Ðức Châu cũng là chuyến bay giã từ quân ngũ của ông ta. Ông ta vắng mặt từ đó, rồi trở thành một trong những người đầu tiên di tản khỏi Việt-Nam ngày 30 tháng Tư năm 1975.

Trưa ngày 28 tháng Ba năm 1975, khi hai sĩ quan và hai hạ sĩ quan vừa yên chỗ trên sàn trực thăng thì dưới bãi bốc xảy ra cảnh lộn xộn, ồn ào.

Có một người đàn bà nhất định không chịu lên máy bay. Chị ta vừa khóc thút thít vừa co rụt người lại khi mấy anh lính an ninh bãi đáp tìm cách đẩy chị ta lên cửa trực thăng. “Em không về đâu! Em không nỡ bỏ anh ấy giữa rừng!”

Người đàn bà này đã theo đoàn quân của Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân từ ngày đầu di tản. Chị không chịu bỏ người thân. Tay chân chị giãy giụa, miệng chị la bài hải:

“Em không sợ chết đâu! Cho em ở lại đi! Các anh ơi!”

Cuối cùng, toán giữ trật tự bãi đáp đành chịu thua người đàn bà.

Chợt không ai bảo ai, tất cả Biệt Ðộng Quân có mặt trên bãi bốc ngày hôm ấy đã đồng loạt vỗ tay hoan hô người phụ nữ can đảm.

Chờ một lúc không thấy ai lên máy bay nữa, tôi ra dấu cho chiếc trực thăng cất cánh.

Chiều đó, khi dừng quân, tôi nhận được một công điện từ Bộ Tư Lệnh Quân Khu 2/ Hành Quân chỉ định Thiếu tá Hiện Dịch Vương Mộng Long, Khóa 20 Trường Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam tạm thời giữ chức vụ Liên đoàn trưởng Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân.

Tôi mời Thiếu tá Ðàng và Thiếu tá Tài lên gặp tôi để phân nhiệm. Theo đó, Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân sẽ mở đường, Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân đi giữa, Tiểu Ðoàn 63 Biệt Ðộng Quân có nhiệm vụ đoạn hậu.

Ðối với Thiếu tá Nguyễn Hữu Tài, tôi không gặp trở ngại gì về vấn đề chỉ huy, vì anh Tài là Tiểu đoàn phó Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân của tôi trước khi thuyên chuyển qua Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân làm Tiểu đoàn phó cho Thiếu tá Hoàng Ðình Mẫn.
(còn tiếp)

Không có nhận xét nào: