BẠN BÈ VÀ TOÁN ...
Tôi quen bạn tôi do một sự tình cờ. Tôi vào trang mạng văn nghệ quen thuộc, và đọc một bài viết rất khác lạ. Không phải truyện dài, truyện ngắn, cũng không phải phóng sự hay tùy bút, mà là những lời tâm tình của một người thuộc thế hệ đi trước nói với một người em gái văn chương vì sinh sau đẻ muộn nên phải lạc lõng trong lằn ranh giữa hai chiến tuyến. Hai người, hai thế hệ nhưng lại cùng chịu chung những thống khổ đọa đày mà đồng bào Việt tôi phải gánh chịu sau khi quê hương chúng tôi bị nhận chìm dưới làn sóng đỏ. Tôi đọc bài viết rất đặc sắc nầy, và có một sự đồng cảm với tác giả; tôi cứ nghĩ hình như tác giả đã viết không chỉ riêng cho mình mà cả cho tôi, cho những người người Việt cùng cảnh ngộ. Tôi nhờ người chủ trương trang mạng giúp tôi liên lạc với tác giả để tôi có thể chia xẻ sự xúc động và lòng ngưỡng mộ của tôi khi đọc tác phẩm này.
<!>
Sau khi liên lạc với nhau, tôi mới biết chúng tôi cùng trang lứa, sinh cùng tỉnh, học cùng trường. Nhiều cái “cùng” như vậy mà mãi đến nửa thế kỷ sau, chúng tôi mới quen thân với nhau. Tôi trở thành một độc giả mới trong số rất đông những độc giả của bạn. Bạn tôi chia xẻ với tôi những bài viết khác của mình, từ những phóng sự đường xa rất lôi cuốn hấp dẫn, đến những bài viết về quê hương ngày xưa, một thời làm học trò, hay nỗi lòng của một chinh phụ chờ chồng...
Những bài viết của bạn tôi kéo tôi trở về một đoạn đời tôi vĩnh viễn không quên, một thời còn làm cậu học trò tỉnh nhỏ, ngu ngơ ngớ ngẩn. Không biết bao nhiêu là kỷ niệm ào ạt tràn về. Sâu đậm nhất, làm tôi nhớ đến nhiều nhất vẫn là những kỷ niệm liên quan đến môn Toán (dốt quá) và … con gái (nhát quá).
Thật ra về Toán, tôi không tệ lắm khi học Tiểu học. Thuở ấy, tôi và hai người bạn, S và C, là ba học sinh xuất sắc của lớp và cả ba đứa cùng thi đỗ vào lớp Đệ thất của trường trung học công lập duy nhất của tỉnh. Trong ba tháng hè chuyển tiếp giữa Tiểu học và Trung học, tôi không lo lắng gì. Tôi nghĩ Trung học tiếp nối Tiểu học, nên về Toán, nếu tôi học được ở Tiểu học thì chắc cũng … thong dong khi học môn nầy ở Trung học. Chỉ một vài tuần sau ngày tựu trường lớp Đệ thất, tôi mới khám phá ra một “sự thật phủ phàng”: môn Toán Trung học thật không dễ nuốt như là tôi đã nghĩ. Ngay bài học đầu tiên, tôi đã choáng váng vì những danh từ mới lạ (chỉ riêng từ bắt đầu bằng chữ "số" thì đã có nguyên một bầy: số âm, số dương, số thật, tổng số, hệ số, cấp số, hằng số, ẩn số, biến số...).Tôi học chữ “Đại Số”, lòng thầm hỏi đã là những con số, sao lại có kích thước to nhỏ, và nếu có môn học “Đại Số” về con số to, sao lại không có môn học “Tiểu Số” về con số nhỏ. Tôi học thuộc lòng như một con vẹt mà không hiểu mình đọc cái gì: “hai đường thẳng song song chỉ gặp nhau tại một điểm ở vô cực.
“Song song” thì tôi hiểu, còn “vô cực” thì chịu thua. Tôi hỏi mấy học sinh đàn anh ở cùng nhà trọ, thì họ giải thích cho tôi biết rằng “vô cực” là một nơi chỉ thấy mà không tới được. Câu giải thích này khiến đầu óc của tôi lại có thêm thắc mắc; nếu không đến được vô cực, thì tại sao biết ở đó có một điểm cho hai đường song song gặp nhau? Tôi càng học về Toán, càng mù mờ, càng có những câu hỏi mà tôi không thể tự mình trả lời được. Tôi lại không dám hỏi thầy; tôi cứ nghĩ trong cả lớp, chỉ có tôi mới có mấy câu hỏi ngớ ngẩn nầy, nên lo mình càng hỏi thầy thì càng lòi cái đuôi dốt nát của mình cho cả lớp chiêm ngưỡng. Tôi lúc ấy giống như một con giun, khi cảm nhận nguy hiểm cận kề thì quằn thân lại. Thôi, thà chịu dốt còn hơn chịu quê, tôi chọn cách chắc ăn nhất là … dấu biệt, chỉ chú tâm đến những môn học tôi thích, còn môn Toán thì cứ tảng lờ. Có một điều tôi mãi mãi không hiểu, là trong khi tôi bị “ngất ngư con tàu đi” vì môn Toán, thì người bạn S của tôi (C bỏ học vì lý đó gia cảnh), lại thấy nó dễ như hút ốc. Nên cho dù tôi cố trốn tránh, hậu quả của chuyện dốt Toán vẫn đuổi theo tôi đến nơi đến chốn. Mỗi kỳ thi Lục Cá Nguyệt, người bạn thời Tiểu học của tôi luôn luôn đứng đầu sổ, được thầy trao cho vinh dự làm “sơ mi”. Còn tôi thì vĩnh viễn được yên vị (yên phận?) đứng ở cuối sổ.
Trong mấy năm kế tiếp, tôi lại phải làm quen với những môn học, những danh từ mới. Ở Đệ Thất, tôi học Hình Học … dưới đất (“Hình Học Phẳng”). Lên đến lớp Đệ Tứ, tôi làm Tề Thiên Đại Thánh, bay lên không, học Hình Học … trên trời (“Hình Học Không Gian”). Rồi còn phải nhét vào đầu những thứ từ ngữ lạ huơ lạ hoắc. Tôi như một chiếc máy ghi âm, ghi được thâu được nhưng lại không hiểu được những gì mình đã ghi thâu. Nên càng học, tôi đã sợ Toán càng sợ Toán hơn. Cho đến bây giờ, nghĩ lại chuyện cũ, tôi không hiểu tại sao tôi lại được lên lớp mỗi năm, và lòng thầm phục mình đã che dấu được sự dốt Toán của mình trong suốt một thời gian dài.
Nhưng cây kim dấu trong vải lâu ngày cũng phải ló đầu ra; sau bốn năm dấu diếm, cuối cùng tôi cũng phải đem sự dốt Toán của mình ra trình làng. Hết Trung Học Đệ Nhất Cấp, tôi lên lớp Đệ Tam và phải chọn ban. Theo chỗ tôi biết, thời ấy, ở các trường lớn, chương trình Trung Học Đệ Nhị Cấp có bốn ban. Ban A chuyện về Vạn Vật, Ban B chuyện về Toán và Vật Lý, Ban C chuyên về Văn Chương và Triết, và Ban D chuyên về Cổ Văn (Chữ Nho và Hán Văn). Học sinh lên lớp Đệ Tam tùy theo khả năng của mình mà chọn học một trong bốn ban nầy. Trường tôi nhỏ, lại ở tỉnh nhỏ nên đám “Nhân Chi Sơ, Tính Bổn Thiện” Ban D không có lấy một mống. Ban C thì chỉ có một hai học sinh chọn, nên lớp Đệ Tam C không thành hình; học sinh muốn học Ban C phải di dân ra Đà Nẵng hay Huế để học. Nên trường tôi chỉ có Ban A và Ban B để học sinh lựa chọn. Với tôi, “chọn ban” là một từ ngữ rất mỉa mai, vì thật ra tôi đâu có lựa chọn nào. Trong “bảng phân ban” của tôi thật ra chỉ có hai ban: Ban Giỏi Toán, và Ban Dốt Toán. Chẳng cần suy nghĩ lựa chọn làm gì cho mệt óc, tôi biết rất rõ mình thuộc về ban nào rồi.
Những tiến bộ trong lịch sử nhân loại luôn luôn bắt người từ những khối óc vượt bực về Toán và Vật Lý. Vì lý do này, thời của tôi, học sinh Ban B “ngầu” lắm. Chỉ có học sinh Ban B mới có thể cho trường tôi một niềm kiêu hãnh, làm thống kê mỗi năm có bao nhiều học sinh ưu tú của trường được chấp nhận vào các đại học chuyên nghiệp. Nên chuyện học sinh Ban B được thầy giáo yêu mến, bạn bè nể phục là chuyện tất nhiên. Tôi rất hiểu điều nầy; nhờ Toán và Vật Lý mà con người mới chế tạo được phi thuyền, vẽ được đường bay lên thám hiểm mặt trăng. Nếu dốt Toán như tôi mà cũng muốn lên thăm chị Hằng thì chỉ có đường phải hóa thân làm … chú Cuội ôm chặt gốc cây đa mà bay lên trời. Vì cái “ngầu” nầy, những người bạn cùng lớp với tôi thời Trung Học Đệ Nhất Cấp, vừa mới chọn ban làm cháu chít của ông Einstein đã trở nên oai phong lẫm liệt. Ngay trong những buổi học đầu của niên khoá, vừa thấy đám nam sinh Ban A bọn tôi mon men đến gần, họ đã dịu dàng cho lời khuyên nhủ “tụi bay đi chỗ khác chơi; lẩn quẩn ở đây nghe bọn tau nói chuyện coi chừng bị bể cái đầu”. Tôi biết thân phận “tôi là con trai trời bắt … dốt” của mình nên chẳng tranh luận hay phiền trách gì. Tránh voi chẳng xấu mặt nào, tôi không dám bén mảng tới “khu cấm địa” của mấy lớp Ban B, và nghĩ đời mình sẽ không có được một người bạn học Bạn B nào. Không ngờ …
... VÀ TRIẾT...
Từ hồi lên Trung học Đệ Nhị Cấp tới giờ, tôi luôn nghĩ đám học sinh Ban B ở trường tôi, vì đầu óc lúc nào bận rộn với tính tính toán toán, đo đo lường lường, với khuôn khổ, với sự chính xác…, nên chắc họ là những người rất khô khan cứng nhắc trong tâm tình. Nên sau khi đọc bài viết đăng trên mạng, và trong lần đầu liên lạc với nhau, tôi nhất quyết rằng tác giả phải là dân Ban C, và lý do tôi chưa được quen biết rất đơn giản: trường tôi không có Ban C nên tác giả phải đến trường khác mà “tầm sự học đạo”.
Thật khó mà diễn tả được sự sửng sốt của tôi khi tôi khám phá ra rằng tác giả của bài viết đầy xúc động ấy lại là một phần tử của giòng họ Einstein. Tôi lại càng sửng sốt hơn khi biết rằng người bạn mới của tôi, ngoài văn chương đầy bụng, lại còn có triết lý cùng mình. Ngoài Toán và Vật Lý, Triết là một môn học khủng bố tôi nhiều nhất. Tôi thật tình không hiểu tại sao có những kẻ co rúm người lại khi vừa thấy con chuột, con gián, lại có thể yêu thích Toán và Triết, những môn học mà một nhân vật “vai năm tấc rộng, thân mười thước cao” ngon lành như tôi vừa nghe qua đã ôm đầu bỏ chạy.
Sau một nửa thế kỷ, qua các bài viết của bạn, tôi mới được nghe nhắc đến thêm một lần môn Triết học, từ Đạo Đức đến Luận Lý, đến Tâm Lý, mới được nghe lại thêm một lần những tên tuổi rất lừng lẫy trong lãnh vực này, từ Françoise Sagan đến Jean Paul Sartre, Blaise Pascal…Trong một bài viết về thời làm học trò của mình, bạn tôi có nhắc lại một ví dụ về Tam Đoạn Luận.
Đã là con người thì phải chết
Socrate là người
Vậy thì Socrate phải chết
Khi trao đổi thân tình với người bạn mới, tôi có kể lại những đau khổ nhục nhằn mà những người từng học Ban A như tôi phải gánh chịu. Than thở thê thảm như vậy mà bạn tôi đâu có tin. Tôi chẳng biết nhiều về triết lý, nên đành phải mượn ví dụ về Tam Đoạn Luận của bạn để chứng minh sự dốt Toán của tôi là có thật chứ chẳng chơi.
Học sinh Ban A rất dốt Toán
NVG là học sinh Ban A
Vậy thì NVG rất dốt Toán
Tôi nghĩ lý luận vững chắc như vậy có thể giúp cho bạn tôi hiểu được nỗi đau bị kỳ thị … dốt nát mà đám học sinh Ban B đã trút lên đầu chúng tôi. Không ngờ bạn tôi bị ảnh hưởng Toán và Triết quá nặng nề, suy diễn Tam Đoạn Luận qua một cách khác.
Học sinh trường Trần Cao Vân rất giỏi Toán và Triết
NVG là một học sinh trường Trần Cao Vân
Vậy thì NVG phải giỏi Toán và Triết
Theo sự suy diễn của bạn, Toán và Triết là hai môn học chẳng có gì … khó nuốt, ai cũng học được, “dễ dàng như cung đàn trong sương lạnh”. Ai cũng học được, thì làm gì có kỳ thị, mà không có kỳ thị thì mối hận bị kỳ thi dốt nát của tôi là vô căn cứ. Suy diễn ngược ngạo nên hành ứng cũng … ngược đời. Tôi kể lể than thở về nỗi lòng Thị Kính của mình, không ngờ bạn tôi không những đã không thông cảm, lại đảo ngược đầu đuôi, biến tôi từ nạn nhân trở thành … bị cáo, và biến chính mình thành một nạn nhân phải oan uổng gánh chịu mối hận kỳ thị Ban A, Ban B mà tôi đã nung nấu bấy lâu nay.
Tôi chờ mãi, chờ mãi mà vẫn chưa thấy Thị Mầu xuất hiện để giải oan cho người bạn mới của mình
.
... VÀ CÂY SI ...
Cây si.
Như một định luật của trời đất, có âm phải có dương, có đêm phải có ngày, và có nữ sinh thì phải có … cây si. Thật ra, cây si không cần nữ sinh mới có; chỉ cần có con gái là tức thì sẽ có cây si đâm chồi nẫy lộc. Tuy nhiên, trường học là một vùng đất phì nhiêu, nên ở đó, cây si lớn mau, lớn mạnh hơn nhiều. Cho nên, không có cậu học trò nào đã đi qua thời trung học mà chưa một lần biểu lộ những triệu chứng mình đã trồng cây si.
Vào lớp thả hồn bay qua cửa sổ
Nhìn trời nhìn mây thương nhớ xa xôi
Buổi tối bên đèn ngồi mơ dáng ngọc
Học trò con nay đã biết yêu rồi
(Thơ NVG)
Dĩ nhiên tôi cũng không phải ngoại lệ; ngày xưa tôi có “trồng cây si” trước lớp học của mình. Tuy mang tiếng là đã trồng cây si, nhưng mấy mươi năm qua, về phương diện thực vật học, tôi vẫn không biết gì về loại cây nầy. Tôi liền lên mạng truy cập và tìm thấy rất nhiều hình ảnh về cây si. Thấy cây nào cây nấy cũng thuộc loại cổ thụ, nhánh lá sum sê, rễ mẹ rễ con loòng thoòng tôi nghĩ chắc là đúng điệu rồi. Nhưng theo tên Anh ngữ (banyan) và tên khoa học (ficus benjamina) của nó, thì cây si được biết đến qua một cái tên tiếng Việt khác phổ thông hơn: đó là cây đa. Tôi nghĩ chắc là không phải rồi. Con người khi ngồi dưới gốc cây đa thì tâm trí thảnh thơi, mắt nhắm nghiền trong một giấc ngủ ngon. Còn khi ngồi dưới gốc sây si thì mắt lại mở trừng trừng, đầu óc ngu ngơ ngớ ngẩn. Khác biệt như vậy thì cây si có thể nào là cây đa cho được.
Tôi lại vào mạng truy cập tiếp. Trong phần phong thủy, cây si được gọi là cây sanh, nhà có trồng thì rất tốt vì cây tạo ra sinh (sanh) khí. Đọc đến đây, tôi gật đầu đồng ý. Ngày xưa, nhờ cây si tạo ra sinh khí nên tôi mới có thể gắng gượng đến trường trong giờ học Toán và Triết. Nhưng phong thủy lại khuyên tránh trồng cây si ngay trước cửa, vì làm vậy sẽ gây ra “khí âm thịnh, khí dương suy”. Điều nầy làm tôi kết luận rằng, cây si trong phong thủy cũng không phải là cây si bọn nam sinh chúng tôi trồng trước lớp; trong phong thủy, vì cây si nên mới có “âm thịnh”, còn ở lớp học chúng tôi thì ngược lại, vì “âm thịnh” nên mới có cây si.
Không mô tả được cây si, vậy thì có thể nào hiểu được nghĩa của thành ngữ “trồng cây si” không? Do một ngàn năm bị giặc Tàu đô hộ, nhiều từ ngữ Việt được dẫn xuất từ Hán ngữ. Tôi nghĩ chữ “si” là một trong những từ ngữ này. Tôi lại lên mạng truy cập, và thấy chữ “si” (无知) là do chữ Vô (无) và chữ Minh (知) ghép lại mà thành. “Si” là “Vô Minh”, là “Không Biết”. Nếu giải thích theo ngôn từ khoa học … miệt vườn của tôi, thì “Trồng Cây Si” là một phản ứng khi xảy ra sẽ khiến mình đứng chôn chân (Trồng) như một khúc gỗ (Cây) và … cái gì cũng không hay không biết hết (Si). Tôi đem lời giải thích nầy so sánh với trạng thái của mình khi lần đầu tiên tôi thấy một người mặc áo dài mini đạp chiếc xe đạp mini đến trường, thì thấy chính xác vô cùng, đúng hết chỗ nói.
Như bạn tôi có nhắc nhiều lần trong các bài viết của mình (ngoài Toán, Vật Lý và Triết ra, bạn tôi còn rất giỏi về Hoá Học), để phản ứng xảy ra thì cần phải có chất xúc tác; cường độ chất xúc tác càng cao thì phản ứng càng mãnh liệt. Nhưng chất xúc tác trong trường hợp nầy không phải là hoá chất mà là con người nên cường độ không thể nào dùng máy móc hay trọng lượng, dung tích mà đo lường được (nhưng nghĩ cho kỹ, nếu “trọng lượng” hay “dung tích” quá lớn, thì hiệu quả của chất xúc tác chắc cũng bị sút giảm đi rất nhiều). Theo phương pháp rất khoa học của tôi, cường độ chất xúc tác cho phản ứng tạo cây si chỉ có thể được đo bằng ba yếu tố: con gái, sắc đẹp, và … giỏi Toán. Chỉ có yếu tố đầu “con gái” thôi cũng đủ làm cho các đấng nam sinh đứng ngồi không yên rồi. Nếu cộng thêm một hay cả hai yếu tố còn lại, thì đám nam sinh tội nghiệp chỉ còn có đường “từ chết đến bị thương”, làm Từ Hải chết đứng giữa trận tiền thôi.
Theo sự đo lường cường độ trên, chất xúc tác có cường độ mạnh nhất chỉ có thể tìm thấy ở các lớp Ban B. Nhưng đó là những nơi cấm địa, tôi không dám léo hánh tới gần, nên không kiểm chứng được. Gần đây, bạn tôi có chia xẻ một bài viết về thuở học trò của mình, trong đó có đoạn viết về một người bạn cùng lớp mà khi đọc, tôi thấy hoàn toàn có đủ ba yếu tố để trở chất “siêu xúc tác”: vừa dịu dàng, vừa đẹp, lại vừa học giỏi. Bạn tôi còn viết rằng bạn tôi với người ấy là hai người bạn rất thân, thuộc loại BFF Best Friends Forever. Tôi có nhắc với bạn tôi một câu thành ngữ của Mỹ: “birds of a feather, flock together” (chim cùng loại, nhập chung bầy). Bạn tôi vừa nghe xong, đã la bai bãi, cải chính rằng hai người họ đối nghịch nhau; bạn tôi chỉ là bóng, trong khi người kia là hình; hình thì rất đẹp, còn bóng thì rất … không đẹp. Tôi dốt Toán, đâu dám múa rìu qua mắt thợ, nhưng tôi còn nhớ mang máng bài học về góc đối đỉnh trong Toán Đệ Thất; chúng tuy đối chiều nhưng lại bằng nhau. Như vậy, lời cải chính nếu hình đẹp (xấu) thì bóng phải xấu (đẹp) của bạn tôi có lẽ chỉ là lời cãi … cối, vì nếu không, tại sao mỗi khi nhìn bóng mình trong gương, tôi vẫn thấy tôi và bóng giống hệt như nhau, vẫn nguyên hình một con cù lần lữa?
Thật ra, đâu có cần đủ ba yếu tố làm gì; chỉ có hai thôi (như các bạn nữ … không giỏi Toán trong lớp tôi) là cũng đủ làm cho đám nam sinh điêu đứng rồi. Nên thời tôi học Trung Học Đệ Nhị Cấp, trước cửa mấy lớp Ban A và Ban B có cả một rừng cây si. Ngày ngày, đám nam sinh ra công vun xới, lòng thầm mong có một lúc nào đó đối tượng để ý đến mà trèo lên cây si của mình để hái và nếm thử mùi vị của những quả si chín mùi. Những công của họ chỉ là công dã tràng, y hệt như trong ca dao.
Tiếc công lao anh đào ao thả cá
Suốt mấy tháng trời, chừ để người lạ tới câu
.
Đám “người lạ” nầy quả thật rất lạ. Họ cũng mặc đồng phục, nhưng không phải áo trắng quần xanh như của chúng tôi mà là màu xanh lá cây rừng, xanh da trời, hay xanh nước biển. Hai đặc điểm nhận diện khác là cổ áo của họ có thêu hình mấy bông mai màu vàng hay màu trắng, và họ di chuyển không bằng xe đạp, xe mô tô hai bánh như học sinh chúng tôi mà bằng xe Jeep bốn bánh.Tôi không biết họ có ma thuật gì, mà vừa xuất hiện, các chất xúc tác trong mấy lớp Ban A, Ban B bỗng mất hết hiệu năng, đang ngon lành làm nữ hoàng trong lòng đám cây si lại nhũn ra như những con chi chi, trở thành những “người em sầu mộng” suốt ngày ngâm nga Chinh Phụ Ngâm của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm. Đám người lạ như giòng cuồng lưu, ào ạt đến trường chúng tôi. Chỉ tội cho đám nam sinh chúng tôi, sau khi thấy cảnh “từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ” rồi, chỉ còn biết đứng ngẩn ngơ nhìn những cây si của mình trốc gốc trôi xa mà thở than.
Cây… si trốc gốc trôi rồi
Nàng … lên xe Jeep, bậu ngồi trông ai!!!
NGƯỜI MUÔN NĂM CŨ…
Xin cám ơn bạn tôi hai lần, một lần đã cho tôi tình bạn mà tôi rất trân quý, một lần nữa đã dùng các bài viết của mình để dẫn dắt tôi trở về một thời hoa mộng mà tôi đã lỡ đánh mất. Cám ơn bạn đã giúp tôi tìm lại được, dù chỉ trong một khoảnh khắc rất mong manh ngắn ngủi, sự hồn nhiên ngây thơ của tuổi học trò.
Ngày xưa tôi mê đọc truyện kiếm hiệp. Đọc xong một bộ truyện dài là tôi thẫn thờ mơ mộng, mong được trở thành nhân vật chính trong truyện, đem tài ba lỗi lạc của mình ra cứu khổn phò nguy. Bây giờ, tuổi đã về chiều, tôi vẫn còn đọc và yêu thích những bộ truyện kiếm hiệp ấy, nhưng giấc mơ hiệp sĩ không còn nữa. Tôi hết muốn làm Quách Tỉnh, Dương Qua, Lệnh Hồ Xung hay Trương Vô Kỵ. Tôi chỉ muốn được như Châu Bá Thông trong truyện Anh Hùng Xạ Điêu, có thể sống một cuộc sống mà tâm hồn không gợn lên một chút sóng ưu phiền.
Nhưng Châu Bá Thông chỉ có trong trí tưởng tượng của Kim Dung mà thôi. Nên khi tôi sống lại những ngày tháng làm học trò năm nào, lòng tôi rất vui, rất xao xuyến bồi hồi, nhưng nụ cười của tôi vẫn không trọn vẹn, vẫn không dấu được nỗi mong chờ tiếc nuối. Giống như thi sĩ Vũ Đình Liên đi tìm ông đồ già, tôi nhìn kỷ niệm cũ thấp thoáng mà lòng thầm hỏi: Những người muôn năm cũ. Hồn ở đâu bây giờ.
Tôi nhớ có lần vô tình đọc một bài thơ của một thi sĩ Nhật mà tôi không nhớ tên. Tác giả dùng thể thơ Tanka, tuy chỉ có 31 chữ, nhưng cũng đủ diễn tả nỗi lòng của một người về thăm cố hương; cảnh vẫn như xưa, nhưng thời hoa mộng đã mất đi rồi, chỉ còn một nấm mộ cô đơn chôn sâu mối tình đầu. Bài thơ đặc sắc, nhưng vì không hiểu tiếng Nhật nên tôi chỉ nhớ được bản dịch Anh ngữ.
I come here again
To the changeless countryside
Of my lost youth
I come to visit the lone grave
This, the grave of my first love…
Không biết dịch giả có dịch đúng nguyên tác hay không, nhưng khi đọc bản Anh ngữ, tôi thấy xúc động thật nhiều nên chuyển ý thơ qua ngôn ngữ quê mình. Mấy lần chuyển ngữ, từ Nhật sang Anh rồi sang Việt. Tam sao thất bổn, nhưng sao khi đọc mấy câu thơ Việt, lòng tôi vẫn thấy tràn dâng một nỗi ngậm ngùi.
Mai về tìm lại ngày thơ
Lòng héo hon, đứng bên bờ quạnh hiu
Mai về, mộ chí cô liêu
Chôn sâu một chút thương yêu đầu đời
Mai về, giữa đất với trời
Khóc lên cho ướt một đời lang thang
Nguyễn Vĩnh Giao
(Houston 07/2019)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét