Rảnh rỗi mấy tháng ở Úc, thừa thì giờ nên đọc tập hồi ký Bên Giòng Lịch Sử của linh mục Cao văn Luận viết từ hai mươi mấy năm trước, để tán dương Ngô Đình Diệm, sau khi ông Diệm bị lật đổ. Chưa hề xem, nên xem thử một lần. Vân Xưa quen biết ông Luận nhiều, từ 1949 đến 1954, ở Huế. Ông được giới thiệu là một tu sĩ Thiên Chúa giáo tiền tiến, du học từ trước 45, rồi hành đạo nhiều năm ở Pháp, sau đó, năm 48/49 về nước, phục vụ tông đồ và xứ sở. Vân Xưa kém linh mục quãng mười tuổi, nên trọng ông như thầy, và đãi nhau như bạn, Cùng một ưu tư về tương lai đất nước, cùng chưa rơi trong vòng thế lợi, thành ra dễ thông cảm với nhau.<!->
Nhưng đến 54, vì chọn lựa khác nhau nên chế độ Ngô Đình Diệm đã ngăn cách đôi bờ, không còn dịp gặp nhau đến một lần, trong suốt chín năm ông Luận phục vụ ông Diệm, trong tư thế cố vấn, ở địa vị Viện trưởng viện Đại học Huế. Tháng 12-63, gặp lại nhau một lần duy nhất, trong bữa cơm một luật sư bạn chung thết, để tiễn ông Luận lên đường sang Hoa Kỳ. Cố nhiên phải đề cập tới chuyện ông Diệm bị lật đổ. Vân Xưa nửa đùa, nửa thực, khen: linh mục thay đổi nhanh và kịp thời quá! Rồi thôi, cho đến khi ông mất trong năm qua, chẳng còn gặp lại nhau nữa, và cũng chẳng buốn xem hồi ký ông cho ấn hành nhiều lần, từ năm 67 thì phải.
Ở Úc quay về Pháp, Quê Mẹ cho xem hồi ký Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi, tướng cũ Đỗ Mậu mới xuất bản. Xem mất ba ngày.
Vân Xưa có biết ông Mậu, cũng ở Huế, nhưng không quen nhau như với ông Luận, không hề là bạn với nhau. Cả đời gặp nhau có hai bận. Bận trước, năm 1954, ba mươi ba năm trước đây, trong một cuộc hội thảo cả hai cùng tham dự, giữa một số trí thức cố đô, theo yêu cầu của Ngô Đình Nhu, để đưa ra một đường lối cầm quyền mới cho chính phủ ông Diệm sắp thành lập. Đóng góp của Vân Xưa về vấn đề "Nam kỳ cũ" có vẻ được ông Mậu chú ý, nên sau ba ngày xong công việc, trong cuộc rượu kết thúc cuộc hội thảo, ông Mậu mang ly đến gần, nói vài lời ân cần ngỏ ý muốn làm quen với nhau. Rồi cũng hệt như Linh mục Luận, chế độ Diệm đã ngăn cách, vì chọn lựa khác nhau. Có khác chăng là ông Mậu không phải bạn, như ông Luận, nên không còn đi lại với nhau cũng là chuyện thường.
Bận thứ hai, mà cũng là sau cùng, hai mươi lăm năm trước đây, vài tuần lễ trước ngày 1-11-63. Ông Mậu đến tìm, để bàn với Vân Xưa việc quân đội định đảo chánh ông Diệm. Với một người không phải là bạn, chỉ gặp nhau có một bận, chín năm trước, ông Mậu, đang cầm đầu ngành An Ninh Quân Đội, không ngần ngại gặp lại một lần thứ hai để nói chuyện âm mưu chết sống ấy của mình, quả thật ông đã gan tày liếp!
Không rõ có phải ông Mậu nhớ đến phần đóng góp của Vân Xưa, trong cuộc hội thảo ở Huế chín năm trước, để không ngại tiết lộ âm mưu của mình với một người trong đời mình nay mới gặp lần thứ hai, và sau đó không còn gặp một lần nào khác.
Trong phần đóng góp ấy, Vân Xưa nêu vấn đề “Nam Kỳ cũ”, ghi nhận đất đai và dân tình ở đây là điều kiện tiên quyết cho tương lai của chế độ Sài Gòn, trong hoàn cảnh đất nước qua phân: Miền Nam thắng hay bại, tùy thuộc quần chúng Nam kỳ cũ, tùy thuộc ở dân quê miệt vườn, trí thức thành thị, anh em kháng chiến quốc gia, và các giáo phái, chứ không phải tùy thuộc hoàn toàn ở cá nhân người lãnh đạo chính quyền quốc gia.
Có lẽ ông Mậu, lúc bấy giờ, đã nhận ra được nguồn cơn thất bại và sụp đổ của chế độ nhà Ngô, nên đã không ngại lậu chuyện mà cả gan tìm đến người chín năm trước đã từng nêu rõ cái lẽ mất còn này của miền Nam chăng? Ông Mậu còn đó, chắc có thể trả lời cho câu hỏi này, về tâm sự hai mươi lăm năm cũ của ông chăng?
Cuộc đảo chánh thành tựu, có tiếp tục liên lạc với nhau trong hai tháng liền, qua trung gian, rồi thôi. Cho đến nay, cùng ly hương, nhưng mỗi bên một ngả, và nay được xem “Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi”.
1950-1954-1963-1975, Cao văn Luận cũng như Đỗ Mậu đều là những người của thời cuộc. Hơn nữa, những người đã làm thời cuộc. Viết hồi ký là chuyện họ phải làm. Vân Xưa được xem những gì mỗi người hồi ký, thấy có bổn phận trình bày bạn đọc mục mình đảm trách, cảm nghĩ về những gì đã xem.
Ở Úc, đọc hồi ký của một người, dù sao cũng đã từng là bạn, Vân Xưa thấy ngao ngán cái tinh thần Ngô Đình Diệm Linh mục Cao Văn Luận nêu cao trong Bên Giòng Lịch Sử, như sau:
“Những ai từng có địa vị, vai vế trong nền Cộng Hòa Nhân Vị đều mang ơn nặng được ông Diệm đưa từ bóng tối ra ánh sáng, cho nên kẻ đã lật đổ ông Diệm đều thuộc hạng phản chủ, phản thầy”
Thì ra ông, ông Linh mục thấm nhuần nhân vị tính của nền Cộng Hòa Ngô Đình Diệm, đã hồi ký cho mọi người là chế độ nhân vị này chỉ gồm toàn đầy tớ, học trò của ông Diệm, một bọn người chỉ biết gọi dạ, bảo vâng! Không còn chịu dạ, chịu vâng, mà lại lật đổ thầy mình, chủ mình, thì chỉ là một bọn phản chủ, phản thầy.
Cộng Hòa: chế độ chủ và thầy. Nhân vị: một bọn học trò, tôi tớ!
Linh mục Luận biết mình cũng chỉ là một đầy tớ và học trò của ông Diệm, như mọi người khác đang phục vụ nhà Ngô, theo định nghĩa của chính ông, vì ông cũng là người đã từng được ông Diệm đưa từ bóng tối ra ánh sáng. Nhưng trong thâm tâm, Linh mục Luận hẳn muốn người xem hồi ký liệt linh mục nằm ngoài bọn người phản chủ, phản thầy này. Tuy có một giai đoạn, dù chỉ vài năm, sau ngày 1-11-63 và trước khi viết hồi ký, ông phô trương việc ông đã góp phần lật đổ chế độ Diệm, trong tư cách Viện trưởng Đại học Huế (xin xem phát biểu của ông Viện trưởng về biến cố tháng 11-63, trữ ở Viện Đại học Huế). Việc chống đối này quả có thực, ông linh mục có tự hào hành động chống đối ông Diệm cũng đúng. Niềm tự hào ấy đã cho Vân Xưa được cơ hội khen đùa ông: Linh mục biết thay đổi nhanh và kịp lúc. Nhưng bước qua năm 1967, trong không khí phục hồi Công giáo Cần lao, danh dự lật đổ chế độ Diệm đã trở nên nặng nề, hai vai nhà tu có lẽ không mang nổi nữa, ông Luận bèn viết hồi ký, để một lần nữa trở mình cho kịp lúc.
Chắc hẳn ông linh mục đã xếp tên ông Đỗ Mậu vào bọn người phản bội, (trong đó ông linh mục không còn muốn có tên mình). Cũng đúng thôi: đối với ai lấy cái tinh thần Ngô Đình Diệm, theo định nghĩa Cao văn Luận, làm một giá trị nhân vị cao cả, như những người hiện nay đang hô hào phục hồi tinh thần Ngô Đình Diệm, thì ông Đỗ Mậu, thoát sao khỏi là kẻ phản chủ, phản thầy.
Nhưng đối với nhân dân miền Nam, trong đó có Vân Xưa, thì lại khác: Người miền Nam đã reo mừng suốt ba ngày liền khi nhà Ngô sụp đổ, nghĩa là đã nhìn "bọn phản chủ, phản thầy" theo quan niệm nhân vị của Linh mục Luận, và trong bọn đó có ông Đỗ Mậu, là những người con xứng đáng của đất nước, đã biết thoát ly tập đoàn phản dân, hại nước, lúc bấy giờ đang hoành hành.
Từ trong tập đoàn phản dân hại nước này, Linh mục Luận năm 1963 từng cho biết mình đã thoát ra (trong bữa ăn Vân Xưa nhắc đến ở phần trên) như Đỗ Mậu và cùng Đỗ Mậu. Nhưng đến 1967, khi bọn Cần Lao Nhân Vị nép sau lưng chính quyền Thiệu/Kỳ, lại tiếp tục hoành hành, Linh mục Luận hồi ký quay vào không như Đỗ Mậu và không cùng Đỗ Mậu.
Người tu sĩ Thiên Chúa giáo bác học và tiên tiến này, đã từng nhiều năm, trước 54, là bạn của Vân Xưa, đã từng là quân sư của ông Diệm, đã từng là Viện trưởng Đại học, lại chưa vượt qua được tầm mức văn hoá phong kiến! Đáng tiếc: học thức thật không hẳn là kiến thức! Trong một lần trước ở mục này, Vân Xưa đã bàn đến cái bản chất hoàn toàn thiếu nhân vị của một nền Cộng Hoà mệnh danh là Nhân Vị, mà Linh mục Luận đã nêu làm tinh thần Ngô Đình Diệm, và thờ như là một giá trị tinh thần tuyệt đối.
Về Pháp, lại đọc hồi ký này, của một người chưa từng là bạn, "ít học và dốt nát" (chữ ông Đỗ Mậu dùng cho chính ông), Vân Xưa nhận ra một điều: không đợi phải gặp nhau mới thực là bạn. Đúng như câu Tỳ bà hành Ỷ Lan lúc sang Úc, đã trích ghi, khi tặng Vân Xưa tập Gọi thầm giữa Paris của Võ Văn Ái: cùng một lứa bên trời lận đận, gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau.
Đỗ Mậu viết: “Nói cho cùng thì có phải chỉ mình Dương Văn Minh đầu hàng đâu, những kẻ bỏ nước ra đi trước hay sau ngày 30 tháng 4 cũng là những kẻ đầu hàng. Kẻ đã có lần sát cánh với Dương Văn Minh (tức ông Đỗ Mậu)mang hoài bão thay đổi một cuộc cờ nay phải sống xa lìa cố quận cũng là kẻ đầu hàng, cũng gởi tâm sự cho chim ngàn cá biển”.
Và, nhắc đến trách nhiệm trước lịch sử đối với hiện tình đất nước, ông Mậu ghi thêm: “Ai là người không có tội”.
Xem đến đoạn vị tướng cũ “thất học”, khiêm tốn nhận mình cũng là người có tội, và chia cả “Cái tội đầu hàng kẻ thù” với người bạn đồng đội Dương Văn Minh của mình, tuy không ai buộc, Vân Xưa thấy ngượng cho ông cố linh mục “bác học”.
Ông linh mục đã cố đem hết sức học quảng bác của mình để hồi ký cái tội “phản chủ, phản thầy”, cái tội, nếu quả là tội, chính mình cũng phạm, trút lên đầu người khác, những người trước đó mình đã một thời minh bạch chia chác với họ công lao chống một chế độ phản nước hại dân! Trong khi ấy ông Đỗ Mậu “thất học dốt nát”, không hiện diện ở Sài Gòn hôm “Dương Văn Minh đầu hàng kẻ thù”, vì đã ly hương trước, lại tự buộc mà không ai gán cho mình cái tội đầu hàng người ta đang tròng vào cổ Dương Văn Minh, để thẳng tay nguyền rủa.
Nghĩ cũng tội cho học vấn! Ở một nhà tu, học vấn chỉ đưa đến cho ông Luận một học thức quảng bác ít ai có, và Đỗ Mậu thì nhất định không có rồi, nhưng lương tri ông không tác dụng được trên cái vốn học thức ấy để hoàn bị kiến thức mà kết hợp cho ông một ý thức nhân bản hoàn chỉnh. Thành ra, cũng một việc chính ông đã làm, và đã nói cho người khác biết (nếu Vân Xưa không phải là người duy nhất được nghe ông) là mình đã làm, việc làm ấy hôm trước ông xem là danh dự, nên muốn ai cũng biết ông đã làm, hôm sau người có quyền lực ngầm bảo là tội ác, ông vội vàng kể tội ác ấy cho người khác, để thiên hạ trong nước tưởng là ông không hề làm!
Có lẽ nhà tu này không bận tâm mấy về chuyện danh dự, hay, chuyện tội ác. Mà bận tâm hơn về chuyện thế lợi. Hôm qua, lật đổ ông Diệm là một danh dự, ông linh mục chia cái danh dự ấy để hưởng lợi. Hôm sau, lật đổ ông Diệm là tội ác, ông linh mục bèn gán cái tội ấy lên đầu người khác, để khỏi mất phần thế lợi dành cho những ai đã trung thành với chủ cũ. Thế lợi đã làm ông linh mục quên sống đạo của ông chăng? Việc hôm trước mình cho là phải, nên mình làm, nếu hôm nay mới thấy rõ là quấy, thì con Chúa đi xưng tội để được giải tội, không đổ vấy cho ai khác để chạy tội!
Thảo nào thầy Mạnh cứ nói đi nói lại mãi cái chuyện lương tri. Đạo Khổng đặt lương tri lên trên hết các khả năng của mỗi người để thể hiện con người trong bản thân thành thực với chính mình là căn bản của lương tri. Chúa Jesus không dạy chỉ khác hơn, khi dặn: có muốn ném đá vào người, hãy xem mình có cùng tội với người mình định ném đá hay không, trước đã. Khi lật đổ ông Diệm là một công lao, ông linh mục chia công lao ấy với những người như ông Đỗ Mậu. Khi lật đổ ông Diệm là một cái tội, ông linh mục gán cái tội ông đã phạm ấy để 'ném đá" vào những người như ông Mậu, hòng chạy tội của mình, bằng ngôn ngữ đạo hạnh của một quan toà buộc tội người khác! Kể cũng tiện.
Đã bận tâm về thế lợi thì Linh mục Luận, trước sau cũng vẫn chỉ thuỷ chung với thế lợi, đâu có dốt nát đến nỗi tự buộc mình vào cái tội "đầu hàng" để chia với Dương văn Minh những lời nguyền rủa. Chỉ có người "quê mùa dốt nát" như ông Mậu mới hồi ký nhận tội mình trước lịch sử, và chia với Dương văn Minh cái tội mà một số người đang phỉ nhổ! Một sự phỉ nhổ không giấu nổi dụng ý, và bài này dùng nguyên tắc chính danh để lột trần.
Cho nên hôm nay "Người Việt Tiếng Việt" bàn về từ ngữ Đầu hàng. Gọi là để ghi nhận "tấm lòng Đỗ Mậu" đã thuỷ chung với chính con người mình.
……………….
Cụ Hương muốn thủ đô đi vào biển lửa: người chiến sĩ đầu hàng sao được! Cũng phải! Hai chữ đầu hàng này, ngày nay ở nước ngoài, những người đã hai mươi năm dày xéo lên miền Nam đang mang ra thóa mạ Dương Văn Minh. Tội nghiệp cho cụ! Cụ mắc lỡm Thiệu/Khiêm: chúng mớm cho cụ hai chữ tiết tháo để chúng được nhẹ nhàng cất cánh, và cụ nhất định chờ chúng mang quân về cứu, như chúng đã hẹn với cụ! Cho nên người ta phải khuyên cụ nhường “việc ô nhục người chí sĩ không thể làm” ấy cho tướng Dương Văn Minh.
« Hai ông Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu được ghép theo Dương Văn Minh, như là đảm bảo của hai thế lực tinh thần còn lại, để ông đứng ra chấm dứt một tình trạng không lật ngược được nữa, và nếu kéo dài, chỉ kéo dài thêm chết chóc thê thảm. Sự kiện đảm bảo này cũng không phải người viết võ đoán mà nêu ra ở đây.
« Tình trạng không lật ngược được nữa ấy, ai đã gây nên? Ngô Đình Diệm/ Nguyễn Văn Thiệu/ Nguyễn Cao Kỳ, hay Dương Văn Minh? Những người thay nhau cầm chính quyền, những tướng lãnh từng thao túng quân đội, đã vội vã tháo chạy, giờ đây thóa mạ Dương Văn Minh đã đầu hàng, không chịu tử thủ ! Thế sao chúng không ở lại để tử thủ mà bỏ trốn ? Nếu có chuyện đầu hàng, thì Dương Văn Minh đã đầu hàng thay cho chúng đó thôi.
« Chính việc chúng tháo chạy là hành động đầu hàng Cộng Sản. Dương Văn Minh đã chịu ô nhục thay cho chúng để thể hiện tâm cảnh muốn khai tử giai đoạn tủi nhục, của những người sống trên đất nước miền Nam trong giờ phút quyết liệt ấy.
« Diệm đã nói với Vân Xưa năm 1948 rằng Ý Dân là Ý Trời. Nhưng ông chỉ theo Chúa của ông, chẳng bao giờ theo trời cả! Phải đợi đến ngày 30-4-75, ý dân mới thực sự là ý trời, trong một hoàn cảnh thật bi đát cho dân!
« Đối với một võ tướng chân chính như Dương Văn Minh, không thuộc loại chạy trốn như Thiệu / Kỳ / Khiêm, đầu hàng bao giờ cũng là một việc ô nhục.
« Dương Văn Minh đầu hàng để tránh cuộc thảm sát thủ đô. Hiên ngang, dũng cảm như khi ông cầm quân chiến thắng ở Rừng Sát. Trong việc đầu hàng này, người sống ở miền Nam 30-4-75 đã nhận ra ông là anh hùng đất nước. Trong việc đầu hàng này, tập đoàn tham nhũng thoát trước ra ngoài, muốn chạy tội phản quốc, vẫn không ngớt chửi rủa ông là phản quốc.
« Ông đã phải đứng ra khai tử hai chế độ Cộng Hòa và đầy những tội ác ông không dự vào. Tiểu nhân cười là ông tham quyền vị. Dân trong nước thấy rằng ông đã chịu cúi người xuống đất nhặt một quyền chính bỏ rơi ngoài đường. Để trong bốn mươi tám tiếng đồng hồ sau đó đứng ra nuốt nhục cứu độ quần chúng thủ đô miền Nam ».
Vân-Xưa Hồ-Sĩ-Khuê
[Nguồn: Trích đoạn từ http://www.nhohue.org/baimoi.htm ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét