Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Bảy, 1 tháng 4, 2017

Cóc Cuối Tuần - Thơ Trần Văn Lương - Mùi Quí Bồng - Đỗ Chiêu Đức


Kính gửi quý anh chị con cóc cuối tuần.
 Dạo:
     Đông dài, đêm lạnh buốt tim,
     Bóng trăng quê cũ biết tìm chốn nao.<!>
 Cóc cuối tuần:
     冬  
      ,
      .
      ,
      .
                  
 Âm Hán Việt:
           Đông Dạ Oán
Dạ hàn, phong lãnh, vũ nông nông,
Tứ quý vị hà chỉ kiến đông.
Muộn muộn ngưỡng đầu truy cựu nguyệt,
Hắc vân đóa đóa cái trường không.
              Trần Văn Lương
 Dịch nghĩa:
          Nỗi Oán Đêm Đông
Đêm lạnh, gió rét, mưa thì thào,
(Có) bốn mùa mà sao chỉ thấy có mùa đông.
Buồn bã ngửng đầu đuổi tìm trăng cũ,
Mây đen từng mảng che lấp kín trời không.
 
Phỏng dịch thơ:
        Lời Oán Đêm Đông
Đêm dài, mưa lạnh náo bên song,
Quanh quẩn bốn mùa chỉ thấy Đông.
Ngước mắt vời trông trăng chốn cũ,
Mây đen vần vũ lấp trời không.
                Trần Văn Lương
                   Cali, 3/2017
 Lời than của Phi Dã Thiền Sư:
      Ánh trăng ngày tháng cũ giờ ở nơi nao?     
      Ngước mắt nhìn trời chỉ thấy mây đen vần vũ.
      Và đêm đông kia vẫn kéo dài bất tận.
      Biết nói gì đây, hỡi ơi!
Xin góp với anh Lương con nhái con

THAN OÁN ĐÊM ĐÔNG

Dạo:
Gió lạnh, đêm buồn, mưa buốt giá
Trăng xưa, quê cũ, lạc phương nao?

Phóng Tác Thơ:

Đêm buồn, gió lạnh, mưa lâm râm.
Quê cũ, trăng xưa, nỗi nhớ thầm.
Bốn mùa, sao chỉ toàn Đông nhỉ?
Mây cuồn cuộn đen, trời tối xầm!

Mùi Quý Bồng

 Hưởng ứng bài " Đông Dạ Oán " của tiền bối Trần Văn Lương, xin được cảm tác bài " Xuân Nhật Thán " sau đây :

    春日歎                      XUÂN NHẬT THÁN

四時春首又逢春,     Tứ thời xuân thủ hựu phùng xuân,
四十年餘未覺春。     Tứ thập niên dư vị giác xuân.
四面八方鶯燕歇,     Tứ diện bát phương oanh yến yết.
四圍孤旅又何春?     Tứ vi cô lữ hựu hà xuân ?

                杜紹德                                    Đỗ Chiêu Đức

Dịch nghĩa :
                      Lời than ngày xuân
  Bốn mùa xuân đứng đầu, giờ lại gặp lại mùa xuân,
  Hơn bốn chục năm rồi không cảm nhận được mùa xuân ở đâu cả.
  Bốn phương tám hướng yến oanh đều lặng lẽ,
  Bốn bề cô đơn là thân lữ khách, thì còn có mùa xuân gì nữa đây ?!

Diễn Nôm :
                   Đứng đầu tứ qúi ấy mùa xuân,
                   Bốn chục năm hơn chẳng có xuân.
                   Vắng lặng tư bề oanh yến bặt,
                   Một thân cô lữ thiết gì xuân ?!

                                                            Đỗ Chiêu Đức

Kính anh Đức,
Wow! anh Đức, fantastic! Thật là một điều thích thú khi được đọc bài Xuân Nhật Thán của anh.
Rất mừng khi gặp được một vị đồng nghiệp cùng làm thơ chữ Hán ở đây.
Hy vọng sẽ đọc được thêm nhiều sáng tác của anh.
Kính,
Lương

Kính Tiền Bối TRẦN VĂN LƯƠNG,
        Rất Cám ơn Tiền Bối đã ưu ái. Lại xin được bạo gan gởi tiếp đến Tiền Bối bài viết của mấy năm trước theo yêu cầu của Thân Hữu và các em học sinh trước đây của tôi, để Tiền Bối đọc chơi tiêu khiển, và ...
        Rất chân thành mong được chỉ giáo !
                                                                   Đỗ Chiêu Đức

                      CHIẾN TRANH CHÍNH TRỊ

         Sẵn đang trên đà hồi tưởng, xin cho Đỗ Chiêu Đức tôi kể luôn một câu chuyện văn chương thời trai trẻ cùa mình nữa cho nó đủ bộ....

            Như trong bài " Giang hồ Khí cốt " vừa rồi có nói, tôi là Chuyên viên Điện ảnh của Sư Đoàn 3 Không quân Biên Hòa, Phòng Điện Ảnh của Tham Mưu Phó Chiến Tranh Chính Trị, thuộc loại lính Thành phố. Trong Không Quân có lệ, gọi thượng cấp là Ông Thầy, nhất là các loại lính nghề, lính kỹ thuật.... Các Trung sĩ, Thượng sĩ, nhất là Chuẩn úy già... đều là " Ông Thầy " cả ! Đặc biệt, chỉ có anh Binh Nhất Đỗ Chiêu Đức , mặc dù là lính, nhưng vẫn được mọi người gọi bằng Ông Thầy !. Tại sao ?!. Xin thưa : Có 3 lý do như sau : Thứ nhất, là vì mọi người đều biết anh ta là thầy giáo xuất thân, là thanh niên nhưng trông đạo mạo như một ông cụ non, tác phong nghiêm chỉnh, chửng chạc. Thứ hai, là mọi người đều biết anh ta rất giỏi chữ Nho và văn chương, có gì thắc mắc về mặt văn học, cứ tìm anh ta là xong ngay. Thứ ba, là lý do quan trọng nhất, vì anh ta là... Chuyên viên Phòng Tối... Chuyên rửa, rọi và tráng phim ảnh. Hễ anh em nào, kể cả cấp chỉ huy, sĩ quan.... nhà có đám ma, đám cưới.... thì sau đó đều phải kiếm anh ta để... rửa dùm vài cuồn phim, nên câu mà anh ta thường nghe nói nhất là : " Ông Thầy.... giúp rửa dùm vài cuồn phim nhen ! ". Lúc bấy giờ, lính Mỹ đã rút hết, giao toàn bộ cơ sở vật chất đã xây dựng lại cho quân đội VN tiếp nhận, trong đó có Phòng Điện ảnh với đầy đủ thiết bị máy móc tráng, rọi và rửa phim ảnh, kể cả máy xấy hình và một lô giấy KODAK khổng lồ gần hết DATE, nên ông Trung Tá Tham Mưu Phó CTCT cho sử dụng thoải mái, và vì anh ta là lính trẻ, độc thân, nên ở luôn tại phần sở TMP của mình, vì thế mà ban đêm, thức tráng phim, rửa hình thoải mái , Cứ phim đưa ngày hôm nay thì sáng hôm sau đã có hình rồi ! Mau hơn ngoài tiệm nhiều mà lại ... khỏi tốn tiền nữa, nên kêu một tiếng " Ông Thầy " không ai tiếc cả !
             Sau Hiệp Định Ba Lê năm 1973, mọi người đều đinh ninh là... Hòa Bình sắp đến, ai cũng mong chờ và hy vọng, nhưng sau những đợt trao trả tù binh... súng vẫn còn nổ lai rai hoài, thấy mà phát rầu, riêng Tham Mưu Phó CTCT của Sư Đoàn thì lại rộn rịp hẵn lên, cấp trên chỉ thị xuống là thời gian sắp tới đấu tranh Chính Trị là chính trong Hòa Hợp Hòa Giải dân tộc, rồi Tổng Tuyển Cử .v.v... và v. v.... Nhưng, đợi mãi , vẫn không thấy gì, 1973 đi qua, rồi 1974 cũng đi... tuốt, nên Tết đầu năm 1975, anh lính trẻ có làm 2 bài thơ Thất ngôn Tứ tuyệt để gởi đăng báo như sau :

             長望和平          TRƯỜNG VỌNG HÒA BÌNH
                 其一                              Kỳ nhất
        機場野草炎黃色     Cơ trường dã thảo viêm hoàng sắc
        難使春風吹又生     Nan sử xuân phong xuy hựu sanh
       不見梅花和燕子      Bất kiến mai hoa hòa yến tử
       年來未覺有何更 !    Niên lai vị giác hữu hà canh !
                 其二                               Kỳ nhị
       年來未覺又何新 ?   Niên lai vị giác hựu hà tân,? 
       烽火猶愁軍與民     Phong hỏa do sầu quân dữ dân
       長望和平長不到     Trường vọng hòa bình trường bất đáo
       不求春至又逢春 !   Bất cầu xuân chí hựu phùng xuân !

Chú thích :
           " Xuân phong xuy hựu sanh " là lấy ý ở 2 câu thơ của nhà thơ Bạch Cư Dị là " Dã hỏa thiêu bất tận, xuân phong xuy hựu sanh , 野火燒不盡,春風吹又生". Có nghĩa : Sức sống của cỏ ngay cả " Lửa dại đốt cũng không thể chết được, vì khi gió xuân thổi là tất cả cỏ dại sẽ xanh tốt trở lại ngay " ! .
          " Cơ trường " : là Phi trường. Ta gọi Phi trường nghĩa là Sân bay, Sân để cho máy bay cất cánh bay đi. Còn người Hoa gọi là Cơ Trường, là Sân để cho máy bay đậu. Đây gọi là tập quán ngôn ngữ và là cái khác nhau giữa tiếng Việt và tiếng Hoa. Một ví dụ nữa như : Ta gọi Người Xem là Khán Giả, còn người Hoa gọi là Quan Chúng.....

Dịch nghĩa :
                                   Đợi Mãi Hòa Bình 
                                           Bài 1.               
           Cỏ trong phi trường vàng úa như bị cháy xém, khó có thể nào gió xuân thổi mà có thể xanh tốt trở lại được.Cũng chẳng thấy có hoa mai nở và chim én bay lượn , mùa xuân đã đến rồi mà lại chẳng thấy có gì thay đổi cho có vẻ xuân cả !
                                            Bài 2.
          Chẳng có gì đổi mới cho có vẻ xuân thì xuân đến mà chi ?. Chiến tranh vẫn còn làm cho quân và dân lo rầu buồn bã. Dài cả cổ trông ngóng Hòa Bình, mà hòa bình nào có tới cho đâu, chẳng cầu mùa xuân đến thì lại vẫn phải đón xuân như thường !

Diễn nôm :
                                   Bài 1.
                 Phi trường cỏ dại vàng như cháy,
                Gió xuân khó khiến lại xanh um.
                Cũng chẳng hoa mai, chim én lượn,
               Xuân sang chẳng thấy có gì xuân !
                                   Bài 2.
              Chẳng có gì xuân sao gọi xuân ?
              Chiến tranh sầu muộn cả quân dân
              Trông ngóng hòa bình trông chẳng thấy
              Chẳng cầu xuân đến lại mừng xuân !

          Hai câu cuối của bài Tứ Tuyệt sau là nhại ý của hai câu thơ của nhà thơ Xuân Diệu :
                    Tôi có chờ đâu có đợi đâu
                    Mang chi xuân đến gợi thêm sầu !

           Được phép của Ngài Trung Tá Tham Mưu Phó CTCT Phạm Kim Lân, anh ta viết luôn một đôi liễn Tết dán ở phía trước Văn Phòng chánh của TMP CTCT như sau :

        戰征 難阻春風至     CHIẾN TRANH nan trở xuân phong chí,
        政治 猶期勝利來      CHÍNH TRỊ do kỳ thắng lợi lai.

Dịch nghĩa :
           Chiến tranh cũng khó mà cản trở được gió xuân thổi đến ,
           Chính trị thì còn đang kỳ vọng vào thắng lợi sắp đến !

        Câu đối trên còn hay ở chỗ dùng được 4 chữ CHIẾN TRANH CHÍNH TRỊ để mở đầu 2 câu đối và nêu được cái nhiệm vụ chính yếu của CTCT trong thời gian sắp tới !

       Rất tình cờ, thằng bạn Nguyễn Hoàng Hưng cũng là Chuyên Viên Điện Ảnh ở Sư Đoàn 4 Không Quân, phi trường Trà Nóc, Thành phố Cần Thơ, gọi điện xin đôi câu đối để dự thi cho Đặc San hay Giai Phẩm xuân gì đó của TMP CTCT Sư Đoàn 4 KQ, tôi bèn gởi ngay 2 câu đối trên cho anh ta với đầy đủ giải thích, rồi quên luôn.... Hai ba tuần sau, Hưng vui mừng gọi điện cho tôi báo tin là đã trúng Giải Nhất và được đăng trên Giai Phẩm Xuân của đơn vị. Rất tiếc là tình hình thời sự... lu bu của lúc ấy, nên tôi cũng không có nhận được báo do Hưng gởi tặng....
                                                                                        Đỗ Chiêu Đức

 Kính anh Đức,
Anh gọi tôi bằng "tiền bối" chắc tôi bị tổn thọ mất (tôi dự định sống đến 150 tuổi lận, để làm gì thì chưa biết !!!) :-)))
Qua mấy bài thơ của anh, tôi thấy trình đô. Hán văn của anh quả là bất khả tư nghị, và tôi có thể học hỏi được nhiều từ anh . Hy vọng anh sẽ phổ biê'n rộng rãi các bài thơ của anh cho mọi người đọc .
Lương

Kính Tiền Bối,

       Tôi sanh năm 1948 tuổi Mâu Tý, năm nay 69 tuổi. Tôi nghĩ là Tiền Bối chắc chắn lớn hơn tôi, vì Tiền Bối là bạn thơ của Bác Sĩ, Thi Sĩ, Họa Sĩ, Nhiếp Ảnh Gia Mùi Qúy Bồng, bào Huynh của Mùi Qúy Dân, mà tôi là bạn của Mùi Qúy Dân, nên tôi gọi Tiền Bối là ... Tiền Bối, chắc không sai chứ ?

       Tôi là người Việt gốc Hoa, lớn lên ở nông thôn xứ Cần Thơ, mời Tiền Bối đọc một truyện vui của tôi viết dưới đây thì sẽ rõ ...


                                 ÔNG GIÀ TỨ CANG
  
                      Image result for chợ nổi cái răngImage result for chợ nổi cái răng
             Hò hơ....
                       Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Điền,
                       Anh có thương em thì cho bạc cho tiền,
                       Đừng cho lúa gạo... ờ... hò hơ...
                       Đừng cho lúa gạo... ờ... Xóm giềng họ cười chê !

           Tôi sinh ra ở xã Thường Thạnh, Ba Láng, tức là ấp Yên Thượng của Thị Trấn Cái Răng, huyện Châu Thành, tỉnh Phong Dinh, nên nghe thuộc lòng câu hò trên từ lúc còn chưa vào lớp Đồng Ấu.  BA LÁNG quê tôi, nơi đây lúc tôi còn nhỏ, trong làng xóm còn có những vị tiền bối chức sắc của tổ chức xã hội trước kia, như: Hương Quản, Hương Sư... Đặc biệt nhất là ông Ba  Hương Sư, tác phong nghiêm chỉnh, đạo mạo. Theo nghĩa của chữ Sư, thì chắc hồi xưa ông Ba là Thầy dạy chữ Nho trong làng.

          Khi tôi khoảng 11, 12 tuổi gì đó, thì ông Ba làm nghề thầy thuốc, bắt mạch cho toa rất nổi tiếng, có thể là lúc bấy giờ đã không còn có người học chữ Nho nữa, nên ông xoay sang nghề làm thầy thuốc chăng?! Bây giờ thì không nói về những vị Hương Thân đạo mạo khả kính nữa,  tôi xin kể về một ông Hương Thân rất vui tính ở trong làng để các bạn nghe chơi tiêu khiển trong những ngày cuối năm chờ Tết đến!...

                    Inline image       
                     Hương Chức Hội Tề     Hương Sư

           Không biết xưa kia giữ chức vụ gì trong Hương Chức Hội Tề, ÔNG SÁU rất được mọi người trong xóm kính trọng, giỏi chữ Nho, am tường về phong tục tập quán cổ truyền, tính tình vui vẻ thích nói chơi, nên rất được thanh thiếu niên trong xóm yêu mến...
        Cũng không biết ưu thời mẫn thế như thế nào, Ông Sáu hay nói ngược lại những câu chữ Nho của người xưa. Ví dụ như câu:

             Tiền tài như phân thổ,                 錢 財 如 糞 土,
              Nhơn nghĩa trị thiên kim.          仁 義 值 千 金。
Nghĩa là :
           Tiền của tài sản thì như là đất là phân, không đáng quí trọng.
           Nhân nghĩa ở đời mới đáng giá ngàn vàng!

thì ông Sáu cũng nhại lại cái âm của câu nói mà nói ngược lại là:
                     Tiền tài như... ông Tiên Tổ,
                     Nhân nghĩa tợ... cục cứt khô !
để mỉa mai thói đời xem trọng kim tiền mà coi nhẹ nghĩa nhân. Hoặc như câu:
                     Nhất ngôn ký xuất,                一 言 既 出,
                     Tứ mã nan truy.                    四 馬 難 追。
Nghĩa là :
           Một lời đã nói ra thì Xe bốn ngựa (phương tiện giao thông nhanh nhất ngày xưa ) cũng không thể rượt theo mà lấy lại lời nói đó cho được... thì ông nói thành :
                  Nhất ngôn ký xuất,                一 言 既 出,
                  TỬ... mã nan truy .              死 ...馬 難 追。
hàm Ý con ngựa Chết thì làm sao rượt theo mà lấy lại lời nói cho được, cho nên cứ nói càn!...
              Nhiều khi Ông chỉ sửa những câu chữ Nho để nói chơi cho vui mà thôi. Ví dụ như câu :
        Bần cư náo thị vô nhân vấn,        貧 居 鬧 市 無 人 問,
        Phú tại thâm sơn hữu viễn thân.  富 在 深 山 有 遠 親。
Có nghĩa :   
       Nghèo mà ở nơi chợ búa náo nhiệt cũng không có ai thèm hỏi tới, còn...
       Giàu mà ở nơi núi sâu rừng thẳm, cũng có bà con xa tìm đến thăm!
thì Ông nói thành:
                       Bần cưa ván ngựa đen như sắn,
                       Cú tại màng tang đứng chết trân ! 
hoặc như câu:
                       Đạo cao long hổ phục,         道 高 龍 虎 伏,
                       Đức trọng quỉ thần kinh.       德 重 鬼 神 驚。
Nghĩa là :
            Đạo pháp mà cao cường thì rồng cọp cũng phải phủ phục mà chịu phép.  Cái đức của con người mà cao trọng thì quỉ thần cũng phải kinh sợ (mà không dám làm hại).

                   Inline image
               Đạo cao long hổ phục,  Đào ao lên đất cục,

thì Ông nói lại cho vui là :
                           Đào ao lên đất cục,
                           Đứt họng cổ lòi gân!
           Nghe Ông nói, lúc đó tôi bèn quay sang nói nhỏ với thằng bạn là: "Đạo cao long hổ phục, mà ổng nói thành Đào ao lên đất cục kìa!"  Nhè đâu ông Sáu nghe thấy, mới quay lại nói với tôi là: "Cái thằng nầy, Đào ao không lên đất cục thì lên cái gì mậy? Mà nầy, mầy học chữ Nho mà mầy có biết "TAM CANG" là gì không? " Tôi được dịp, bèn đáp một cách hãnh diện:
       - Thưa Ông Sáu, TAM CANG là Quân thần cang, Phụ tử cang và Phu thê cang. Bà con ta hay nói tắt TAM CANG là: Quân thần, Phụ Tử, Phu Phụ.   
        Ông Sáu cười cười gằn giọng :
      - Mầy giỏi quá há! Vậy tao hỏi mầy, mầy có biết TỨ CANG không ?
        Tôi há hốc, ngạc nhiên quá hỏi lại:
       - Sao có Tứ Cang nữa ông Sáu?
        Ông Sáu cười lớn nói:
       - Cái thằng nầy không biết gì hết, TỨ CANG là cái lớn nhất không thể CAN được!      
        Tôi càng ngạc nhiên hơn, hỏi:
       - Cái gì mà hổng CAN được ông Sáu? 
         Ông Sáu nghiêm mặt lại nói:
       - TAM CANG là Quân thần Cang, Vua đánh tôi, có người CAN được. Phụ Tử Cang, Cha đánh con, cũng CAN được. Phu Thê Cang, Chồng đánh Vợ, cũng còn CAN được. Nhưng , Ông đánh thì vô phương CAN!... Tôi làm tài khôn nhanh nhẩu chen vào:
       - Ông đánh thì cũng CAN được chớ sao không?
 Ông Sáu phá lên cười lớn:
       - Thằng nầy, Ong Vò Vẻ đánh làm sao ai dám CAN. Ong đánh là TỨ CAN đó biết không?! 

           Vừa lúc đó anh Ba từ ngoài vườn chạy vào, hai tay che đầu miệng la oai oái, có mấy con ONG bay theo phía sau... Ông Sáu cười ngất nói:
      - Đó, đó ! Thằng Ba nó bị TỨ CANG đó, mầy giỏi mầy vô CAN đi !
  Thì ra ...
        Gần Tết, anh Ba ra vườn sửa sang lại vườn tược cho gọn ghẽ sáng sủa để Ăn Tết, kéo nhằm ổ ONG BẦN, nên bị  NÓ rượt chạy vào...

        Thì ra, ONG ĐÁNH là TỨ CANG. Ong đánh thì không ai dám CAN cả !!!

       Từ đó, Tôi và các bạn trong xóm gọi ông Sáu là ÔNG GIÀ TỨ CANG !

                                       Image result for ông già ba tri  
                             Ảnh Minh Họa : Ông Già Tứ Cang

          Đây là chuyện có thật, tên cúng cơm của Ông Sáu là ĐỰC. Mọi người trong xóm đều gọi là Ông Sáu Đực. Bà con bên ngoại của Má tôi, nên Má tôi gọi ông là Cậu Sáu.
         Vì là dân Nam Kỳ Lục Tỉnh, nên nói chuyện phát âm không có phân biệt giữa CAN và CANG hay ONG và ÔNG gì cả!

        Bây giờ, đã hơn 60 năm qua, ông Sáu đã không còn nữa. Gần Tết, tha hương đất khách, ngồi đây nhớ lại chuyện xưa, lòng bồi hồi xúc động. Đâu rồi thời gian thơ ấu, đâu rồi những phong hóa cũ, đâu rồi những tập tục của ngàn xưa, đâu rồi ÔNG SÁU của dạo nào?!... đành ngậm ngùi đọc lại 2 câu thơ cuối của Vũ Đình Liên trong bài thơ Ông Đồ là :

                    Những người muôn năm cũ,
                    Hồn ở đâu bây giờ  ?!!! ...



                                                                                     Đỗ Chiêu Đức
Kính anh Đức,
Bài viết của anh thật hay và nhất là rất dí dỏm .
Về Hán văn, anh đúng là vào hàng sư phụ. Tuổi tác không thành vấn đề, vì như các Cụ thưòng nói :"Học vô tiên hậu, đạt giả vi sư" .
Rất thích thú đọc các bài anh viết.
Lương

Không có nhận xét nào: