Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Tư, 30 tháng 8, 2023

TIN TỨC HOA KỲ NGÀY 28 VÀ 29/8/2023 (1)


Báo cáo: Cần đầu tư nhiều hơn vào sản xuất dầu khí nếu không cuộc sống của chúng ta sẽ ngắn hơn, khốn khổ hơn Quang cảnh bên ngoài Nhà máy Lọc dầu ExxonMobil Baton Rouge ở Baton Rouge, Louisiana, vào ngày 15/05/2021. (Ảnh: Kathleen Flynn/Reuters) Tom Ozimek Theo một báo cáo của ExxonMobil, bất chấp nỗ lực cắt giảm carbon, dầu mỏ và khí đốt sẽ tiếp tục là một phần quan trọng trong cơ cấu năng lượng của thế giới trong nhiều thập niên tới. Báo cáo cảnh báo rằng cần phải đầu tư rất nhiều để bù đắp tỷ lệ sản xuất đang suy giảm, nếu không con người sẽ sống ngắn hơn, cuộc sống ít trọn vẹn hơn.
<!>

Tom Ozimek
“Tiếp cận năng lượng đáng tin cậy và giá cả phải chăng là cốt lõi của mọi thước đo quan trọng về sự phát triển và chất lượng cuộc sống của con người,” các nhà nghiên cứu viết trong ấn bản mới nhất của báo cáo Triển vọng Toàn cầu của ExxonMobil. Báo cáo này xem xét sự phát triển kinh tế cùng nguồn cung và cầu năng lượng trong 30 năm tới hoặc trong nhiều năm.

Trong báo cáo, các nhà nghiên cứu nói rằng họ kỳ vọng dầu mỏ và khí đốt tự nhiên sẽ tiếp tục đóng vai trò chủ đạo, cung cấp cho hơn một nửa (54%) nhu cầu năng lượng của thế giới vào năm 2050.

Điều này sẽ xảy ra bất chấp sự gia tăng chưa từng có về các giải pháp phát thải thấp hơn như quang năng và phong năng, mà dự kiến sẽ cung cấp 11% nguồn cung năng lượng của thế giới vào năm 2050, gấp 5 lần so với tỷ lệ hiện nay.

“Lợi ích của dầu mỏ và khí đốt tự nhiên trong việc đáp ứng nhu cầu của thế giới vẫn không có gì bằng,” bản tóm tắt tổng quan của báo cáo (pdf) viết. “Chúng giàu năng lượng, dễ vận chuyển, sẵn có, và giá cả phải chăng — và đóng vai trò là những nguyên liệu thô thiết yếu cho nhiều sản phẩm mà chúng ta sử dụng ngày nay.”

Chính phủ Tổng thống (TT) Biden và những người khác đã kiên quyết đưa nhiên liệu hóa thạch vào tầm ngắm của họ, nhưng báo cáo này của ExxonMobil đưa ra quan điểm đối lập với câu chuyện chống-biến-đổi-khí-hậu-bằng-mọi-giá có vẻ cung cấp nhiều thông tin cho việc hoạch định chính sách năng lượng hiện tại.

Vấn đề này được đặt lên hàng đầu một cách kịch tính trong cuộc tranh luận sơ bộ gần đây của Đảng Cộng Hòa, với việc ứng cử viên tổng thống Vivek Ramaswamy đưa ra một quan điểm đối lập đáng nhớ.

Ông nói: “Tôi là ứng cử viên duy nhất trên sân khấu không bị mua chuộc và được trả tiền, vì vậy tôi có thể nói điều này: nghị trình về biến đổi khí hậu là một trò lừa bịp.”

Ông nói thêm: “Thực tế là nhiều người đang héo mòn vì các chính sách tồi tệ về biến đổi khí hậu hơn là vì biến đổi khí hậu thực sự.”
Những thay đổi lớn về cơ cấu năng lượng

Thay đổi lớn nhất trong cơ cấu năng lượng năm 2050 so với hiện nay là sự gia tăng đáng kể về phong năng và quang năng, cùng với việc giảm phần lớn việc sử dụng than.

Báo cáo cho biết, “Than đá sẽ ngày càng bị thay thế bởi các nguồn sản xuất điện có lượng phát thải thấp hơn — không chỉ năng lượng tái tạo mà còn cả khí đốt tự nhiên, vốn có cường độ carbon bằng khoảng một nửa của than đá,” đồng thời dự đoán mức sử dụng điện trên toàn cầu vào năm 2050 sẽ tăng ồ ạt tới mức 80%.

Theo báo cáo, mặc dù việc sử dụng dầu được dự đoán sẽ giảm nhiều trong giao thông cá nhân do sự phát triển của xe điện tiếp tục thay thế động cơ đốt trong, nhưng dầu sẽ vẫn cần thiết cho ngành công nghiệp và vận tải hạng nặng.

Vận tải biển, vận tải đường dài, và hàng không (tất cả đều củng cố hoạt động kinh tế và tăng trưởng) sẽ tiếp tục phụ thuộc nhiều vào dầu mỏ.

“Nếu mọi chiếc xe hơi chở khách mới được bán ra trên thế giới vào năm 2035 đều là xe điện, thì nhu cầu về dầu vào năm 2050 vẫn sẽ là 85 triệu thùng mỗi ngày, tương đương với khoảng năm 2010,” báo cáo cho biết, đồng thời ước tính rằng việc sử dụng khí đốt tự nhiên sẽ tăng vọt trong vòng ba thập niên tới.

Báo cáo viết: “Việc sử dụng khí đốt tự nhiên được dự đoán sẽ tăng hơn 20% vào năm 2050 do nó là nguồn nhiên liệu đáng tin cậy và ít phát thải hơn để sản xuất điện, sản xuất hydro, và sưởi ấm cho cả quy trình công nghiệp lẫn các tòa nhà.”

Những nhà nghiên cứu này dự đoán rằng đến năm 2050, GDP bình quân đầu người sẽ tăng khoảng 85% trên toàn cầu, kéo theo nhu cầu năng lượng cao hơn.

Câu hỏi quan trọng là làm thế nào có thể đáp ứng được nhu cầu năng lượng ngày càng tăng đó.

Báo cáo nêu rõ: “Việc không đáp ứng được nhu cầu sẽ ngăn cản các quốc gia đang phát triển đạt được các mục tiêu kinh tế và người dân của họ không thể sống lâu hơn, và có cuộc sống trọn vẹn hơn.”

Một chuyên gia cũng đưa ra quan điểm tương tự là ông Bjorn Lomborg, Chủ tịch của tổ chức nghiên cứu Đồng thuận Copenhagen (Copenhagen Consensus) và là học giả thỉnh giảng tại Viện Hoover của Đại học Stanford.

Ông Lomborg viết trong một bài bình luận gần đây trên tờ New York Post, rằng: “Để tránh xảy ra những trường hợp tử vong do thời tiết quá nóng và quá lạnh đòi hỏi phải tiếp cận được năng lượng với giá cả phải chăng.”

Ông nói tiếp: “Tại Hoa Kỳ, khí đốt giá rẻ từ thủy lực cắt phá đã cho phép hàng triệu người được sưởi ấm với ngân sách thấp, cứu mạng 12,500 người mỗi năm.”

“Chính sách khí hậu, điều chắc chắn khiến hầu hết năng lượng trở nên đắt đỏ hơn, lại đạt được kết quả ngược lại,” ông viết, khớp với nhận xét của ông Ramaswamy trong cuộc tranh luận của Đảng Cộng Hòa.
Nhiều người hơn, nhiều sự thịnh vượng hơn, nhiều nhu cầu hơn

Các nhà phân tích dự đoán rằng dân số thế giới sẽ tăng khoảng 25% từ nay đến năm 2050, từ khoảng 7.8 tỷ hiện nay lên 9.7 tỷ chỉ sau chưa đầy ba thập niên.

Chỉ 3% mức tăng trưởng này được dự kiến là ở các nước phát triển như Hoa Kỳ, với hơn 25% ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và khoảng 65% ở châu Phi và Trung Đông.

Cùng với sự gia tăng dân số, kinh tế dự kiến sẽ mở rộng đáng kể trên toàn thế giới. Từ nay đến năm 2050, các nước đang phát triển sẽ có GDP bình quân đầu người tăng hơn gấp đôi, trong khi tổng sản lượng kinh tế bình quân đầu người của thế giới sẽ tăng khoảng 85%, kéo theo nhu cầu về năng lượng.

Báo cáo nêu rõ: “Nhu cầu toàn cầu đạt khoảng 660 nghìn triệu triệu Btu vào năm 2050, tăng khoảng 15% so với năm 2021, phản ánh dân số gia tăng và sự thịnh vượng ngày càng tăng.”

Một câu hỏi quan trọng là làm thế nào đáp ứng nhu cầu năng lượng ngày càng tăng.

Các tác giả của báo cáo cho biết quang năng và phong năng “có nhiều hứa hẹn,” đồng thời dự đoán rằng các nguồn năng lượng này sẽ được sử dụng gấp năm lần vào năm 2050. Các lựa chọn phát thải thấp hơn khác như hydro và hạt nhân, cũng được cho là đóng những vai trò quan trọng.

Báo cáo cho biết: “Khi các lựa chọn phát thải thấp hơn tăng lên, thì chúng tôi dự đoán lượng phát thải CO2 liên quan đến năng lượng của thế giới sẽ giảm 25% vào năm 2050”, đồng thời lưu ý rằng đây là một sự thay đổi lớn so với mức tăng phát thải 10% trong thập niên qua.

Đồng tình với các mục tiêu về khí hậu của Liên Hiệp Quốc là giữ cho sự nóng lên toàn cầu không vượt quá 2 độ C, báo cáo nói rằng “cần phải giảm nhiều hơn” để đạt được mục tiêu đó, mặc dù các tác giả thừa nhận rằng cho đến nay, sự tiến bộ trong việc giảm phát thải là “đáng kể.”

Gần đây, ExxonMobil thông báo rằng họ đang tăng đầu tư vào lượng phát thải thấp hơn khoảng 15% lên khoảng 17 tỷ USD cho đến hết năm 2027.

Trong một tuyên bố hồi tháng 12/2022, ông Darren Woods, chủ tịch kiêm giám đốc điều hành của ExxonMobil, cho biết, “Chúng tôi đang tích cực nỗ lực giảm phát thải khí nhà kính từ các hoạt động của mình, và các kế hoạch giảm phát thải năm 2030 của chúng tôi đang đi đúng hướng để đạt được mức giảm 40-50% cường độ khí nhà kính ở thượng nguồn, so với các mức của năm 2016.”

Do dầu mỏ và khí đốt tự nhiên được dự đoán vẫn là một thành phần quan trọng trong cơ cấu năng lượng của thế giới cho đến hết năm 2050, bản báo cáo cho biết cần phải có khoản đầu tư “lớn” để bù đắp cho tỷ lệ sản xuất đang suy giảm.

Theo bản báo cáo, hiện nay, tỷ lệ suy giảm tự nhiên của sản lượng dầu hiện tại là khoảng 7% mỗi năm.

Theo bản báo cáo, tuy mức giảm nhỏ hơn nhưng tỷ lệ suy giảm tự nhiên của khí đốt tự nhiên vẫn khá nhiều ở mức khoảng 5% mỗi năm. Báo cáo cũng kêu gọi đầu tư nhiều hơn vào sản xuất khí đốt.

“Tỷ lệ suy giảm này tạo ra nhu cầu lớn về đầu tư liên tục chỉ để duy trì các mức sản xuất năm 2021,” báo cáo cho biết, đồng thời cảnh báo rằng việc ngừng đầu tư vào dầu khí có thể đồng nghĩa với việc nguồn cung “thiếu hụt nghiêm trọng so với nhu cầu,” cả trong ngắn hạn và trong một khoảng thời gian dài hơn.

Tháng 12/2022, ExxonMobil cho biết trong năm 2023 họ sẽ đầu tư từ 23 tỷ đến 25 tỷ USD để giúp tăng nguồn cung nhằm đáp ứng nhu cầu toàn cầu, và tiếp tục đầu tư ở các mức tương tự mỗi năm cho đến hết năm 2027.
‘Hoảng loạn là một người cố vấn tồi tệ’

Liên quan đến mối đe dọa của biến đổi khí hậu, ông Lomborg đã viết trong bài xã luận gần đây của mình rằng “sự nóng lên toàn cầu sẽ gây ra những tổn thất tương đương với một hoặc hai cuộc suy thoái trong phần còn lại của thế kỷ này.”

Ông nói rằng điều đó khiến việc này trở thành một “vấn đề thực sự nhưng không phải là một thảm họa ngày tận thế để biện minh cho những chính sách tốn kém nhất.”

Ông Lomborg lập luận rằng cách tiếp cận thông thường sẽ là sự thừa nhận việc cả chính sách biến đổi khí hậu và cắt giảm carbon đều phải trả giá.

Ông viết: “Chúng ta nên đàm phán cẩn thận về một con đường trung dung để hướng tới những cách tiếp cận hiệu quả nhằm giảm thiểu thiệt hại nhiều nhất với chi phí hợp lý.”

Ông Lomborg nói tiếp: “Để làm tốt hơn về khí hậu, thì chúng ta phải phản đối những tuyên bố sai lệch, đáng báo động về khí hậu.”

Ông nói thêm: “Sự hoảng loạn là một người cố vấn tồi tệ.”

Ngược lại, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc António Guterres gần đây đưa ra một thông điệp mà một số người cho rằng đã nhấn chiếc nút hoảng loạn về khí hậu. Ông Guterres nói rằng “kỷ nguyên nóng lên toàn cầu đã kết thúc” và “kỷ nguyên sục sôi toàn cầu đã đến.” Sử dụng những tính từ có chứa “sự khiếp sợ”, ông Guterres nói rằng các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc “phải biến một năm nắng nóng thiêu đốt thành một năm đầy tham vọng cháy bỏng.”

Trong khi đó, một số nhóm năng lượng ở Hoa Kỳ bày tỏ lo ngại rằng, trong cuộc chiến chống lại sự nóng lên toàn cầu, chính phủ TT Biden sẽ ban bố tình trạng khẩn cấp về khí hậu giống như COVID-19.

“Họ đang nghiêng về hướng đó,” Chủ tịch Hiệp hội Dầu khí Hoa Kỳ Tim Stewart nói với Just the News trong một bài báo đăng hôm 30/07. “Nếu quý vị thừa nhận các quyền lực về tình huống khẩn cấp của tổng thống để ban bố tình trạng khẩn cấp về khí hậu, thì điều này cũng giống như COVID.”

Ông Stewart, người từng chỉ trích chính phủ TT Biden, cho biết, một tuyên bố khẩn cấp về khí hậu có thể trao cho vị tổng thống này “quyền hạn rộng lớn và không kiểm soát để đóng mọi thứ từ thông tin liên lạc đến cơ sở hạ tầng.”

Văn phòng báo chí Tòa Bạch Ốc đã không phúc đáp yêu cầu bình luận vào thời điểm công bố về việc liệu chính phủ này có đang chuẩn bị một tuyên bố như vậy hay không.

Tổng thống Joe Biden và các quan chức chính phủ khác nói rằng Hoa Kỳ và thế giới đang ở giữa một “cuộc khủng hoảng khí hậu” và đã sử dụng ngôn từ mô tả đó là một trường hợp khẩn cấp.

Tuy nhiên, cho đến nay, Tổng thống Biden vẫn chưa tuyên bố tình trạng khẩn cấp, mặc dù một số thành viên Đảng Dân Chủ và các nhóm môi trường đã thúc đẩy ý tưởng này.Bản tin có sự đóng góp của Jack Phillips


Cơ quan Lưu trữ Quốc gia lưu giữ 5.400 email mang bí danh của TT Biden

Gia Huy
29/08/2023
Cơ quan Quản lý Hồ sơ và Lưu trữ Quốc gia Hoa Kỳ (NARA) thừa nhận đang sở hữu lên đến 5.400 email có khả năng liên kết với tài khoản bí danh của Phó Tổng thống Joe Biden dưới thời Tổng thống Obama.


Đây là các tài khoản bí danh mà Phó Tổng thống Biden đã sử dụng để chuyển các thông tin chính phủ và thảo luận việc kinh doanh với con trai Hunter Biden, và những người khác. Hôm thứ Hai (28/8), Tổ chức Pháp lý Đông Nam đã đệ đơn kiện để buộc NARA phải công bố các email này.

Tổ chức pháp lý hiến pháp phi lợi nhuận này, nơi đã nộp đơn kiện, tiết lộ, cơ quan lưu trữ quốc gia đã xác nhận rằng Tổng thống Biden đã sử dụng các bí danh như Robin Ware, Robert L. Peters, và JRB Ware trong thời gian ông làm phó tổng thống dưới thời chính quyền Obama.

Sự thừa nhận của cơ quan lưu trữ quốc gia Hoa Kỳ đã xác nhận việc tờ Just the News đã nhiều năm đưa tin về việc Tổng thống Biden đã sử dụng email cá nhân khi còn là phó tổng thống và ông đã sử dụng các tài khoản bí danh.

Hồi năm 2021, tổ chức pháp lý này đại diện cho Tổng biên tập John Solomon của Just the News lần đầu tiên đã nộp đơn theo Đạo luật Tự do Thông tin (FOIA) để yêu cầu cơ quan lưu trữ quốc gia cung cấp các email của Tổng thống Biden.

Theo thông tin của tổ chức pháp lý này, năm ngoái, họ đã nhắc lại yêu cầu đầu tiên của họ bằng cách gửi yêu cầu thứ hai theo đạo luật FOIA cho NARA, nhưng cơ quan lưu trữ quốc gia “đã không cung cấp bất kỳ email nào trong số các email này.”

Vụ kiện hôm 28/8 làm tăng áp lực buộc cơ quan lưu trữ quốc gia công bố các emails này.

Tổng cố vấn Kimberly Hermann của Tổ chức Pháp lý Đông Nam (SLF) nhấn mạnh: “Các quan chức nhà nước thường xuyên lạm dụng quyền lực của mình bằng cách sử dụng nó vì lợi ích cá nhân và chính trị. Khi họ làm vậy, nhiều người tìm cách che giấu điều đó. Cách để bảo vệ sự liêm chính của chính phủ là NARA phải công bố gần 5.400 email của [Tổng thống] Biden cho SLF và công chúng. Công chúng Mỹ xứng đáng được biết nội dung trong đó là gì.”

Tổ chức pháp lý SLF không phải là nhóm duy nhất cố gắng lấy được các email của Tổng thống Biden.

Đầu tháng này, Dân biểu Đảng Cộng hòa James Comer, Chủ tịch Ủy ban Giám sát Hạ viện, đã yêu cầu cơ quan lưu trữ quốc gia giao các thông tin liên lạc của Tổng thống Biden khi còn là phó tổng thống với con trai ông ấy và các đối tác kinh doanh của ông ấy.

Gia Huy (Theo Just The News)


Tucker Carlson: Vì Hungary tin Thiên Chúa nên bị chính quyền Biden làm khó dễ

Nhật Tân
29/08/2023

Trong bài thuyết ở Budapest Hungary đăng hôm 26/8, anh Tucker Carlson, phóng viên và nhà bình luận, đã mở đầu bằng những lời xin lỗi thay mặt cho nước Mỹ, xin lỗi người Hungary vì Đại sứ Mỹ David Pressman trước đó đã chỉ trích gay gắt chủ trương phản đối LGBTQ+ của Hungary. Theo anh, nước Mỹ ngày nay được lãnh đạo bởi Chính phủ Biden, những người mang những thứ chủ nghĩa hay tư tưởng phản truyền thống đi áp đặt cho nước khác một cách vô lý. Hungary và Nga chính là nạn nhân của lối áp đặt này, vì họ là những quốc gia cuối cùng trên thế giới còn kiên trì thực hành theo niềm tin Kitô. Anh Carlson nói rằng người Hungary trước đây vào thời Liên Xô đã từng bị áp đặt bằng tư tưởng cộng sản, do đó mong muốn tự do tư tưởng, và nước Mỹ vào thời đó là đại biểu cho tự do này. Nhưng hôm nay, thế sự xoay chuyển, nước Mỹ đang ở vị trí áp đặt những tư tưởng phản truyền thống cho nước khác, đang làm việc mà Liên Xô năm xưa đã làm. Những gì truyền thông Mỹ tuyên truyền về chiến tranh Ukraine đều là giả dối.


Tucker Carlson diễn thuyết ở Budapest 26/8. (Nguồn: Mạng xã hội)


Newsweek: Nhà bình luận chính trị Tucker Carlson bay tới Budapest để thay mặt dân Mỹ xin lỗi người Hungary, do Đại sứ Mỹ tại Hungary David Pressman đã chỉ trích gay gắt chủ chương phản đối phong trào đồng tính chuyển giới phản truyền thống của Hungary. (Ảnh chụp màn hình trang web)
Newsweek có bài với tiêu đề “Tucker Carlson bay tới Budapest để xin lỗi thay cho nước Mỹ” đã tường trình sự việc ông Pressman, được coi là một luật sư nhân quyền, đã vận dụng vị trí Đại sứ Mỹ tại Hungary để thúc đẩy cái gọi là quyền LGBTQ+ ở Hungary, một phong trào đồng tính chuyển giới phản truyền thống. Đặc biệt là hồi tháng 6, tháng mà phong trào này gọi là tháng tự hào.

“Tôi không có thói quen xin lỗi thay cho Mỹ. Thực ra, tôi không nghĩ là mình đã từng làm vậy, nhưng cách hành xử của Đại sứ Mỹ tại Hungary khiến tôi muốn xin lỗi,” anh Carlson nói, miêu tả cách hành xử của ông Pressman là “thật là kinh tởm và không thể tha thứ được. Và nó chênh lệch quá xa với các chuẩn mực ngoại giao ở đất nước tôi đến nỗi tôi khó có thể tin nổi những gì David Pressman thực sự đang làm.”

Theo lập luận của anh Carlson, với cương vị là một nhà ngoại giao, ông Pressman, nên phải tìm những người bạn cho nước Mỹ, ít nhất cũng nên gây dựng những quan hệ tốt đẹp với các nước khác, dù rằng nước khác có thể không giống với nước mình. Nhưng ông Pressman, người theo chủ trương của chính quyền Biden, đang tìm cách làm cái mà anh gọi là “chính trị bằng tình dục cửa hàng” (boutique sexual politics), đem các chủ trương tự do tình dục của Mỹ áp đặt cho nước khác.

“Mục đích của ngoại giao không phải là chỉ trích các quốc gia khác vì lợi ích của cá nhân [nhà ngoại giao], xuất hiện ở đất nước của người khác và hét vào mặt họ vì họ khác với mình,” anh Carlson nói.

Newsweek chỉ ra rằng những người cánh hữu của Mỹ kỳ thực khá ủng hộ chính quyền Hungary, thậm chí đã từng mời Thủ tướng Hungary Viktor Orban tới tham dự CPAC 2022 (Conservative Political Action Conference — Hội nghị Hành động Chính trị Bảo thủ).

Theo Newsweek, Hungary một đồng minh trong EU/NATO của Mỹ, trong thời gian qua bị chỉ trích là có xu thế chính trị độc tài bởi một số tổ chức nhân quyền. Ví như tổ chức phi chính phủ phi lợi nhuận Freedom House đã viết trong báo cáo nhân quyền năm nay rằng đảng của ông Orban đã “thúc đẩy thông qua những thay đổi về hiến pháp và pháp lý cho phép họ củng cố quyền kiểm soát đối với các thể chế độc lập của đất nước, bao gồm cả cơ quan tư pháp.”

Nhưng theo anh Carlson, việc Mỹ dùng con đường ngoại giao để cổ xúy phong trào phản truyền thống ở nước khác, đã vượt khỏi phạm vi của việc thúc đẩy nhân quyền trên thế giới. Trái lại, trên thực tế đó là vi phạm nhân quyền.

“Chính quyền Biden đang tiêu tốn thời gian để gây khó dễ một trong những đồng minh chân thành cuối cùng của chúng ta ở Châu Âu, Hungary, vì “tội” quá theo Kitô giáo,” anh Carlson viết trên tweet (X) nơi đăng bài phát biểu của mình — tweet đạt trên 5,5 triệu lượt xem trong 2 ngày.

Anh Carlson miêu tả là trong các đồng minh của Mỹ, thì Hungary là quốc gia cuối cùng còn có niềm tin Kitô mạnh mẽ. Tuy nhiên anh cũng chỉ ra rằng trong trào lưu xã hội hôm nay, thì khái niệm niềm tin Kitô cũng đã thay đổi nhiều rồi.

“Họ [cánh tả] ghét Hungary… [vì Hungary] là quốc gia tin Kitô, và họ ghét điều đó… Đây là một quốc gia tin Kitô “mềm”, mềm nhất,” anh Carlson nói. “[Hungary] 300 năm trước, người thời đó nếu nhìn vào Hungary hôm nay, thì sẽ nói đây không phải là quốc gia tin Kitô. Nhưng theo mức tiêu chuẩn ngày hôm nay, thì Hungary là một trong những nước cuối cùng được hiểu là xây dựng trên giáo điều của Kitô giáo.”

“Đây cũng chính là lý do họ thù ghét Nga,” anh Carlson bình luận, trong khi giải thích rằng anh là người Mỹ, yêu nước Mỹ, chứ “Tôi không phải là fan của Nga.”

Tucker Carlson, từng là người dẫn chương trình và là nhà bình luận chính trị số 1 của Fox News, nhưng hiện nay anh trở thành phần tử ‘lưu vong’ của hãng tin này, khi Fox không cho anh đảm nhiệm bất cứ việc gì, nhưng đồng thời vẫn ‘trả lương’ cho anh đến hết 2024 —năm diễn ra bầu cử tổng thống Mỹ— để lấy đó làm cơ sở pháp lý không cho anh khả năng có hợp đồng làm cho bất kỳ hãng tin nào khác.

Nhật Tân



Hoa Kỳ: Những bệnh viện đang áp dụng lại quy định đeo khẩu trang phòng ngừa COVID-19


Một y tá tại Trung tâm Y tế Three Rivers Asante chạy đến một phòng trong Khu Chăm sóc Đặc biệt để giúp nhân viên y tế điều trị cho một bệnh nhân COVID-19 ở Grants Pass, Oregon, vào ngày 09/09/2021. (Ảnh: Nathan Howard/Getty Images)
Jack Phillips

Thứ ba, 29/08/2023
Một số hệ thống bệnh viện đã khôi phục quy định đeo khẩu trang, với lý do số ca nhiễm COVID-19 ngày càng gia tăng, và một số nhân vật theo phái bảo tồn truyền thống nổi tiếng đã gióng lên hồi chuông cảnh báo trong những ngày gần đây.

Tuy nhiên, không giống như nhiều lần áp dụng trước đó, có vẻ như một số quy định về đeo khẩu trang chỉ áp dụng cho nhân viên và bác sĩ chứ không phải cho bệnh nhân hoặc khách đến bệnh viện.
Bệnh viện UMass Memorial

Tại Massachusetts, Bệnh viện UMass Memorial đã xác nhận trong một tuyên bố hồi tuần trước (21-27/08) rằng họ sẽ áp dụng lại việc đeo khẩu trang đối với nhân viên. Tuyên bố cho biết quy định này không bắt buộc đối với bệnh nhân và khách.

“Chúng tôi tiếp tục nhận thấy số lượng nhân viên dương tính với COVID-19 tăng đáng kể trong hai tuần qua, dẫn đến nguy cơ lây nhiễm cho cả những đồng nghiệp làm nhiệm vụ chăm sóc và bệnh nhân,” tuyên bố cho biết. “Để giải quyết vấn đề này, như một biện pháp bảo vệ cho nhân viên và bệnh nhân của chúng tôi, có hiệu lực ngay lập tức, chúng tôi yêu cầu nhân viên chăm sóc bắt buộc đeo khẩu trang trong tất cả các lần tiếp xúc với bệnh nhân ở tất cả các khu vực lâm sàng được cấp phép.”

Bệnh viện tại thành phố Worcester này cho biết nếu chiều hướng này tiếp tục, thì họ có thể buộc bất kỳ ai vào bệnh viện phải đeo khẩu trang, kể cả bệnh nhân và khách. Tuyên bố cho biết, trong bốn tuần, các nhà quản lý của bệnh viện sẽ đánh giá lại tình hình Covid-19 trước khi đưa ra quyết định.

Truyền thông địa phương đưa tin: “Xin hãy chú ý rằng những thay đổi này không được thực hiện một cách dễ dàng và chúng tôi biết … rằng việc đeo khẩu trang trở lại có thể gây khó chịu cho một số nhân viên chăm sóc của chúng tôi.”
Hệ thống United Health Services ở New York

Trước đó trong tháng này (08/2023), United Health Services ở Binghamton, New York, xác nhận rằng họ cũng sẽ yêu cầu đeo khẩu trang trở lại đối với bệnh nhân, khách, nhân viên, và bác sĩ.

“Do số ca nhiễm COVID-19 gia tăng, yêu cầu [mọi người] đeo khẩu trang ở tất cả các khu vực lâm sàng tại Trung tâm Y tế UHS Wilson, Bệnh viện Đa khoa UHS Binghamton, Bệnh viện UHS Chenango Memorial, và Bệnh viện UHS Delaware Valley, cũng như các địa điểm chăm sóc ban đầu và chuyên khoa,” United Health Services nêu trên trang web của mình.

Quy định này được áp dụng vào tuần trước và “có hiệu lực ngay lập tức đối với tất cả bệnh nhân, khách, nhân viên, nhân viên y tế, tình nguyện viên, sinh viên, và nhà cung cấp.”

United Health Services nêu rõ: “[Mọi người] bắt buộc phải đeo khẩu trang tại các khu y tá và trong phòng hội nghị tại các khoa lâm sàng, bao gồm cả các khu vực nơi bệnh nhân ghi danh, chờ đợi, được vận chuyển, hoặc được xét nghiệm và chăm sóc.”

Thông báo cho biết thêm, mọi người bắt buộc phải đeo khẩu trang tại “các khu vực chung,” bao gồm hành lang bệnh viện, hành lang, cầu thang, nhà ăn, và các phòng chăm sóc bệnh nhân.
Bệnh viện Cộng đồng Auburn ở New York

Khoảng một tháng sau khi lệnh đeo khẩu trạng trước đó kết thúc, hôm 19/08, một nơi khác ở tiểu bang này, Bệnh viện Cộng đồng Auburn ở ngoại ô New York, đã loan báo, rằng bệnh viện sẽ lại yêu cầu đeo khẩu trang tại đây.

Theo một tuyên bố đăng trên trang web của bệnh viện, quy định này áp dụng cho bệnh nhân, nhân viên, và khách.

“Việc đeo khẩu trang là bắt buộc trong các cơ sở của chúng tôi, bất kể tình trạng chích ngừa của quý vị như thế nào,” tuyên bố cho biết. “Nếu quý vị không mang theo khẩu trang hoặc khẩu trang của quý vị được cho là không phù hợp, thì quý vị sẽ được cung cấp khẩu trang. Quý vị phải đeo khẩu trang mọi lúc, và phải che mũi và miệng của mình.”

Ngoài quy định đeo khẩu trang, bệnh viện cho biết bệnh nhân nhiễm Covid-19 nhập viện chỉ được phép gặp một khách mỗi lần và phải đeo đầy đủ thiết bị bảo hộ cá nhân.
Kaiser Permanente ở Bắc California

Một địa điểm của chương trình chăm sóc sức khỏe Kaiser Permanente ở Santa Rosa, California, cho biết họ sẽ yêu cầu đeo khẩu trang trở lại vì những gì được cho là số kết quả xét nghiệm [dương tính] với COVID-19 gia tăng kể từ ngày 22/08. Tuy nhiên, vài ngày sau, bệnh viện này làm rõ rằng quy định này chỉ áp dụng cho nhân viên và bác sĩ, chứ không áp dụng cho khách và bệnh nhân.

Kaiser nói với một tờ báo địa phương ở Santa Rosa rằng họ vẫn “rất khuyến khích việc đeo khẩu trang đối với bệnh nhân, thành viên, và khách trong bệnh viện cũng như tại các văn phòng y tế trong Khu vực Dịch vụ Santa Rosa để ứng phó với sự gia tăng mới nhất về số ca nhiễm COVID-19.” Tuy nhiên, họ cho biết những người đó không bị bắt buộc đeo khẩu trang.

Bản tuyên bố cập nhật của bệnh viện cho biết, “Chúng tôi muốn thông báo rằng kể từ thứ Ba (22/08), chúng tôi đã mở rộng yêu cầu đeo khẩu trang đối với nhân viên và bác sĩ của mình cho đến các văn phòng y tế và phòng khám; chúng tôi xin lỗi vì bất kỳ sự nhầm lẫn nào đối với các độc giả của Press Democrat.”

“Khách, bệnh nhân, và các thành viên được khuyến khích đeo khẩu trang ở những nơi này,” tuyên bố này cho biết thêm. “Chúng tôi đã không thay đổi các yêu cầu về đeo khẩu trang trong bệnh viện, vốn đã có hiệu lực từ tháng Tư: nhân viên và bác sĩ bắt buộc phải đeo khẩu trang và chúng tôi yêu cầu khách đeo khẩu trang khi ở bệnh viện.”
Bệnh viện Đại học Syracuse

Kể từ giữa tháng Tám, Bệnh viện Đại học ở Syracuse, ở New York, đã áp dụng lại việc đeo khẩu trang cho mọi người vào tòa nhà. Quy định này của bệnh viện đã bị bãi bỏ hồi cuối tháng Tư.

“Có hiệu lực ngay lập tức, quy định đeo khẩu trang là bắt buộc đối với tất cả nhân viên, khách, và bệnh nhân trong các khu vực lâm sàng của Bệnh viện Đại học Upstate, Bệnh viện Cộng đồng Upstate, và các không gian lâm sàng cấp cứu,” bệnh viện cho biết, theo Syracuse.com. “Các khu vực lâm sàng được xác định là bất kỳ địa điểm nào mà bệnh nhân tập trung, chờ đợi, được vận chuyển, hoặc được chăm sóc.”

Bệnh viện cho biết số lượng nhân viên mắc COVID-19 đã gia tăng và số lượng bệnh nhân nhập viện cũng ngày càng tăng.

Trong ba năm qua, đã có rất nhiều nghiên cứu trên khắp thế giới cho thấy khẩu trang không ngăn được sự lây truyền của COVID-19, và những nghiên cứu khác cho rằng nhiều người đeo khẩu trang không đúng cách.

Tuy nhiên, một số quan chức y tế công cộng cho rằng nên khuyến khích hoặc bắt buộc đeo khẩu trang ở các bệnh viện hoặc cơ sở chăm sóc sức khỏe, nơi có nhiều người dễ bị nhiễm Covid-19 nặng, bao gồm cả những người có hệ miễn dịch yếu và người cao niên.Thanh Nhã biên dịch

Khả năng chi trả – chứ không phải việc làm – mới là chìa khóa của nền kinh tế

'
Tổng thống Joe Biden diễn thuyết trước các khách mời tại công ty Ingeteam, một nhà sản xuất thiết bị điện, ở Milwaukee, Wisconsin, hôm 15/08/2023. (Ảnh: Scott Olson/Getty Images)
Newt Gingrich

Thứ ba, 29/08/2023
Khi những thách thức đối với nền kinh tế ngày càng thiên biến vạn hóa, các chính trị gia không biết tập trung vào những gì thực sự gây tổn hại cho người dân Mỹ.

Từ xưa đến nay, thất nghiệp và việc làm là những chỉ số chính về sức khỏe nền kinh tế. Trong hầu hết các cuộc bầu cử, các ứng cử viên hoặc là ca ngợi những việc làm đã được tạo ra kể từ khi họ đắc cử hoặc là chỉ trích số lượng người thất nghiệp ngày càng tăng.

Mô hình tương tự đã được áp dụng để phân tích nền kinh tế này cho cuộc bầu cử năm 2024 sắp tới. Tuy nhiên, mô hình đó có thể đặt sai trọng tâm.

Nỗi đau thực sự của nền kinh tế Mỹ năm 2023 không phải là tình trạng thất nghiệp, mà đó là khả năng chi trả.

Chính sách đổ nợ lên người dân Mỹ và tăng chi tiêu thâm hụt của Tổng thống Joe Biden đang tạo ra một cuộc khủng hoảng về khả năng chi trả. Mọi người ai cũng có việc làm — nhưng họ chỉ đơn giản là không có đủ khả năng chi trả cho bất cứ thứ gì.

Winston Group đã phát triển một phép đo mới để giải thích hiện tượng này: Tỷ lệ Lạm phát Tổng thống (PIR). Hầu hết các nhà phân tích đều nói về lạm phát như một con số phản ánh tỷ lệ theo năm, nhưng điều này làm mờ đi việc giá cả đã tăng theo thời gian là bao nhiêu.

Winston Group theo dõi tỷ lệ lạm phát kể từ ngày một vị Tổng thống lên nhậm chức. Mức độ lạm phát tăng lên trong một nhiệm kỳ tổng thống là kết quả chính của Tỷ lệ Lạm phát Tổng thống.

Theo phân tích của Winston Group, Tổng thống Biden chỉ đứng sau Tổng thống Jimmy Carter về tỷ lệ lạm phát hiện đại từ khi nhậm chức đến tháng Bảy của năm thứ ba ông nắm quyền. Cụ thể, lạm phát đã tăng 16.9% kể từ khi ông Biden tuyên thệ nhậm chức. Con số này gấp ba lần Tỷ lệ Lạm phát Tổng thống của Tổng thống Donald Trump trong cùng một khung thời gian (5.7%). Tổng thống Carter đã ở mức lạm phát 25% trong ba năm đầu tiên — nhưng mọi tổng thống gần đây khác đều có mức lạm phát thấp hơn ông Biden.

Tỷ lệ lạm phát theo năm không đánh giá được hết mức độ đau khổ mà người dân Mỹ phải trải qua. Nếu nhìn vào phép đo Tỷ lệ Lạm phát Tổng thống của Winston Group, quý vị sẽ thấy giá thực phẩm dưới thời Tổng thống Biden tăng lên 19.4%. Giá điện tăng lên 25.6%. Giá xăng tăng lên 53.4%.

Để chống lại sự gia tăng lạm phát dưới thời ông Biden, Cục Dự trữ Liên bang đã áp dụng chiến lược tăng lãi suất từ phía cầu. Lý thuyết thì đơn giản: Tạo ra nỗi khổ cho người dân Mỹ để chúng ta giảm chi tiêu lại. Cuối cùng, việc này sẽ làm giảm lạm phát.

Dưới thời Tổng thống Biden, chiến lược trọng cầu cổ điển này không còn hiệu quả. Chính phủ đang vay rất nhiều tiền — và chi tiêu số tiền đó quá phung phí — nên nhu cầu vẫn sẽ duy trì ngay cả khi Fed cố gắng bóp nghẹt khu vực tư nhân.

Trường phái kinh tế Biden (Bidenomics) đang thúc đẩy lạm phát kiểu Biden và tạo ra một cuộc khủng hoảng về khả năng chi trả cho hầu hết người Mỹ.

Quý vị có thể có việc làm — nhưng có thể quý vị không được tăng lương. Trong khi đó, giá thành của mọi thứ quý vị mua đều tăng lên.

Chỉ trong vài tuần vừa qua, giá xăng đã tăng vọt 0.30 USD một gallon lên mức trung bình là 3.87 USD cho xăng thông thường và 4.62 USD cho xăng cao cấp. Mức giá đó tăng so với mức 2.42 USD cho xăng thông thường khi Tổng thống Trump rời nhiệm sở. Đó là mức tăng 60 phần trăm trong giá thành của vật phẩm mà hầu như người Mỹ nào cũng phải mua. Đây thực sự là một khoản tăng thuế khổng lồ đối với hầu hết những người Mỹ đang đi làm. Tuy nhiên, năng lượng không phải là nguyên nhân lớn nhất gây ra đau khổ.

Thông thường, lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi việc tăng lãi suất từ phía cầu là nhà ở. Lãi suất thế chấp hiện nay là trên 7 phần trăm, một con số mà New York Times báo cáo là tỷ lệ cao nhất trong 21 năm (1982). Khi lãi suất thế chấp tăng, thì chi phí mua nhà cũng tăng cao hơn nhiều. Giá trị nhà giảm, bởi vì mọi người không thể trả được mức chi phí thế chấp cao hơn nhiều hiện nay. Khi ông Trump rời nhiệm sở hồi tháng 01/2021, các khoản thế chấp trung bình là 2.65% — mức thấp nhất trong 30 năm. Hiện nay con số đó đã tăng gần gấp ba. Sự khác biệt về giá được đo lường trong 20 hoặc 30 năm trở lại đây là điều đáng kinh ngạc. Điều này thực sự đã ngăn cách hầu hết mọi người với thị trường nhà ở. Họ chỉ đơn giản là không đủ khả năng chi trả.

Ngoài ra, việc trường phái kinh tế Biden cố ý tăng lãi suất thế chấp đã làm giảm giá trị nhà của hàng triệu người Mỹ có nhà là khoản tiết kiệm hưu trí chính. Vì vậy, trường phái kinh tế Biden đang làm suy kiệt những người trẻ không đủ khả năng mua một ngôi nhà mới — và những người cao niên đang chứng kiến khoản tiết kiệm cả đời của họ thu nhỏ lại do chi phí cao hơn và giá trị căn nhà thấp hơn.

Cuộc khủng hoảng về khả năng chi trả này đang bắt đầu trở thành mối đe dọa lớn nhất đối với cách mọi người đo lường nền kinh tế dưới thời ông Biden. Một cuộc thăm dò mới của Emerson đối với cử tri New Hampshire cho thấy tầm quan trọng của “khả năng chi trả nhà ở” tăng vọt. Đây là vấn đề lớn thứ hai trong cuộc khảo sát.

Nền kinh tế là yếu tố dẫn đầu danh sách người được khảo sát ở mức 32%. Tuy nhiên, cứ 1 trong 5 (21%) người được khảo sát xác định khả năng chi trả cho nhà ở là mối quan tâm hàng đầu của họ. Đối với cử tri dưới 50 tuổi, khả năng chi trả nhà ở là vấn đề hàng đầu.

Khi cuộc bầu cử năm 2024 đến gần, nhiều người Mỹ có thể đưa ra quyết định là họ thực sự không thể chi trả theo trường phái kinh tế Biden.
Từ Gingrich360.com
Cẩm An biên dịch



Ông DeSantis giải thích tại sao ông ngần ngại giơ tay để thể hiện sự ủng hộ đối với ông Trump


Ứng cử viên tổng thống thuộc Đảng Cộng Hòa, Thống đốc Florida Ron DeSantis trong cuộc tranh luận đầu tiên của mùa bầu cử sơ bộ Đảng Cộng Hòa do FOX News tổ chức tại Diễn đàn Fiserv ở Milwaukee, Wisconsin, hôm 23/08/2023. (Ảnh: Win McNamee/Getty Images)
Tom Ozimek

Thứ ba, 29/08/2023
Thống đốc Florida Ron DeSantis đã giải thích lý do tại sao trong cuộc tranh luận sơ bộ của Đảng Cộng Hòa vào tuần trước, ông có vẻ miễn cưỡng giơ tay khi một người điều tiết chương trình yêu cầu các ứng cử viên giơ tay xem liệu họ có ủng hộ cựu Tổng thống Donald Trump ngay cả khi ông bị kết án không.

Cựu Tổng thống (TT) Trump, người không tham dự cuộc tranh luận nói trên, phải đối mặt với các cáo buộc ở Georgia liên quan đến điều được cho là can thiệp bầu cử qua cuộc điện thoại mà ông gọi cho ngoại trưởng yêu cầu ông tìm thêm phiếu bầu, trong khi một đại bồi thẩm đoàn ở Florida đã truy tố ông về các cáo buộc giải quyết sai các bí mật quốc phòng.

Trong cả hai vụ án này, cựu tổng thống đều khẳng định mình vô tội và đang là nạn nhân của một cuộc “săn phù thủy” nhằm cản trở chiến dịch tranh cử tổng thống của ông trong cuộc bầu cử năm 2024.

Trên sân khấu tranh luận hôm đó, khi các ứng cử viên được ông Baier yêu cầu bày tỏ sự ủng hộ của họ đối với cựu TT Trump ngay cả khi bị kết tội, ông DeSantis đã nhìn và sau một lúc mới giơ tay, mặc dù một số nhà quan sát lưu ý rằng ông dường như giữ tay ở mức thấp và cử chỉ có vẻ không tha thiết.
Nhìn chung, sáu trong số tám ứng cử viên bày tỏ sự ủng hộ đối với cựu TT Trump trên sân khấu. Cựu Thống đốc Tiểu bang New Jersey Chris Christie giơ ngón tay lên một cách nước đôi còn cựu Thống đốc Tiểu bang Arizona Asa Hutchinson từ chối giơ tay và sau đó chỉ trích gay gắt cựu tổng thống, khiến nhiều khán giả la ó.

Vài ngày sau cuộc tranh luận, khi được các phóng viên hỏi điều gì khiến ông có vẻ miễn cưỡng giơ tay, ông DeSantis giải thích rằng ông phản đối ý tưởng được yêu cầu thực hiện các cử chỉ trên sân khấu như một cách bày tỏ quan điểm của mình về vấn đề này — đặc biệt là trước đó ông đã ký cam kết ủng hộ ứng cử viên cuối cùng của Đảng Cộng Hòa, bất kể đó có thể là ai.

Ông DeSantis nói: “Tôi phản đối hành động giơ tay. Và tôi nghĩ hầu hết các ứng viên đều có vẻ đồng ý với tôi.”

“Và tôi cũng vậy, được rồi, chúng ta có thực sự làm điều này? Và người ta đang làm điều đó, vì vậy tôi đã ký cam kết,” ông DeSantis nói trước khi nhấn mạnh rằng ông đã ký vào một bản cam kết để ủng hộ người được đề cử của Đảng Cộng Hòa.

Ông DeSantis nhấn mạnh: “Tôi không ký các cam kết mà không làm theo.”


Thống đốc Tiểu bang Florida Ron DeSantis và doanh nhân Vivek Ramaswamy nói trong cuộc tranh luận tổng thống sơ bộ đầu tiên của Đảng Cộng Hòa ở Milwaukee, Wisconsin, hôm 23/08/2023. (Ảnh: Brendan Smialowski/AFP qua Getty Images)

Khi ký cam kết, ông DeSantis đồng ý rằng nếu không trở thành ứng cử viên tổng thống chính thức của Đảng Cộng Hòa cho cuộc bầu cử năm 2024, thì ông cũng sẽ “tôn trọng ý nguyện của các cử tri sơ bộ và ủng hộ người được đề cử để cứu lấy đất nước của chúng ta và chiến thắng ông Joe Biden.”

Tuy nhiên, trong một nhận định đáng chú ý khi trả lời phóng viên hỏi ông về động tác giơ tay có vẻ miễn cưỡng, ông DeSantis cho biết ông tin rằng cựu TT Trump sẽ không nhận được đề cử của Đảng Cộng Hòa nếu ông ấy bị kết án.

“Tôi nghĩ rằng ông ấy sẽ không trở thành người được đề cử vào thời điểm đó,” ông DeSantis nói. “Nhưng tôi đã ký cam kết, và đó chỉ là tình hình thực tế.”

Cựu Phó Tổng thống Mike Pence (trái) và doanh nhân kiêm tác giả Vivek Ramaswamy (phải) ra hiệu về phía Thống đốc Florida Ron DeSantis trong cuộc tranh luận tổng thống sơ bộ đầu tiên của Đảng Cộng Hòa tại Diễn đàn Fiserv ở Milwaukee, Wisconsin, hôm 23/08/2023. (Ảnh: Brendan Smialowski/AFP qua Getty Images)

Một chuyên gia về ngôn ngữ cơ thể đã làm sáng tỏ lý do tại sao cử chỉ tay của ông DeSantis có vẻ nửa vời.

Bà Susan Constantine, tác giả cuốn sách “Hướng dẫn Đọc ngôn ngữ Cơ thể của Người Hoàn toàn Ngây ngô,” cho biết trong một cuộc phỏng vấn gần đây với The Epoch Times rằng phong cách nói chuyện và cử chỉ của ông DeSantis cho thấy ông có xu hướng đánh trả lại khi ông nghĩ rằng ai đó đang cố gắng dùng vũ lực để ép ông làm những việc ông không muốn làm.

Bà Constantine nói rằng ngôn ngữ cơ thể của ông DeSantis truyền đạt rằng “ông ấy sẽ không bị bắt nạt và ông ấy không hề sợ hãi khi lên tiếng tranh chấp.”

Điều đó cũng gợi ý rằng “ông ấy có một quan điểm đạo đức rất mạnh mẽ. Và ông ấy cũng có một lập trường rất mạnh mẽ.”

Qua ngôn ngữ cơ thể của ông, bà cũng nhận thấy rằng “ông ấy [là một người] rất hướng nội. Ông ấy là người suy nghĩ nội tâm. Và những kiểu người đó có xu hướng nghiêm túc hơn. Và khi họ nghiêm túc, họ không biểu lộ nhiều cảm xúc như vậy. Họ chỉ không có xu hướng thể hiện cảm xúc thái quá.”Thanh Nhã lược dịch

Vì sao chính phủ TT Biden tuyên chiến với khí đốt tự nhiên?


Một hàng xe tải chạy qua cột lửa khí đốt bên ngoài thành phố Watford, North Dakota, vào ngày 23/07/2013. (Ảnh: Andrew Burton/Getty Images)
Stephen Moore

Thứ ba, 29/08/2023
Khí đốt tự nhiên là loại nhiên liệu kỳ diệu của thế giới: giá rẻ, dồi dào, sản xuất tại Mỹ, đáng tin cậy VÀ cháy sạch hết.

Vậy tại sao chính phủ Tổng thống Biden và các nhóm môi trường lại phản đối loại khí đốt này? Kỳ thực, không có câu trả lời thấu đáo.

Sự phụ thuộc nhiều hơn vào khí đốt tự nhiên để sản xuất điện khi chúng ta dần dần chuyển đổi khỏi than đá từng là yếu tố quan trọng duy nhất trong việc giảm lượng phát thải carbon vào khí quyển. Đó chính là điều khiến cho cuộc chiến của Cánh tả chống lại khí đốt tự nhiên trở nên không thể giải thích được. (Nhân tiện cũng nói luôn, lượng phát thải từ các nhà máy than cũng đã giảm đáng kể, vốn là một lý do tại sao không khí mà chúng ta hít thở ngày nay sạch hơn nhiều so với không khí cách đây 20, 50, hay 100 năm.)

Không có quốc gia nào sản xuất nhiều khí đốt tự nhiên hơn Mỹ quốc. Dự báo trữ lượng mới nhất dự đoán chúng ta có lượng khí đốt tự nhiên sử dụng cho gần 100 năm với các công nghệ khoan hiện có, và nguồn cung cấp tiềm năng hàng trăm năm. Chúng ta sẽ không dùng hết. Chúng ta là một Saudi Arabia về khí đốt tự nhiên.

Hai cải tiến đã thúc đẩy cuộc cách mạng đá phiến sét khí đốt tự nhiên trong 15 năm qua là khoan ngang và cắt phá thủy lực. Những công nghệ khoan này đã làm tăng gấp ba lần nguồn cung cấp và sản lượng của chúng ta gần như sau một đêm.

Không một người nào có trách nhiệm với cuộc cách mạng năng lượng này hơn ông Harold Hamm của công ty Continental Resources. Cuốn sách mới “Game Changer” (Người thay đổi Cuộc chơi) của ông ghi lại cách thức hoạt động khoan ở những nơi như Đá phiến sét Bakken ở North Dakota, Đá phiến sét Marcellus ở Pennsylvania và West Virginia đã giúp tăng gấp ba lần nguồn cung cấp dầu mỏ và khí đốt của Hoa Kỳ trong khi giảm được giá năng lượng mà chúng ta phải chi trả.

Ông ấy nói với tôi rằng “giá khí đốt tự nhiên của Hoa Kỳ đã giảm hơn một nửa trong khi phần còn lại của thế giới chứng kiến giá tăng gấp đôi hoặc gấp ba.” Điều này có nghĩa là chi phí năng lượng của chúng ta chỉ bằng một phần nhỏ so với chi phí mà châu Âu và châu Á chi ra. Đó là một lợi thế kinh tế và địa chính trị rất lớn mà Mỹ quốc có được.

Tất cả những gì chúng ta cần để trở thành siêu cường quốc năng lượng thế giới là các trạm khí tự nhiên hóa lỏng, đường ống, và giấy phép khoan. Chúng ta cũng cần các tiểu bang đánh giá lại khí đốt tự nhiên là dạng năng lượng “sạch” và “phát thải ròng bằng 0” để các dịch vụ có thể sử dụng. Tại sao điều này không xảy ra?

Lý do chính là các nhà bảo vệ môi trường cấp tiến muốn chấm dứt tất cả hoạt động sản xuất dầu mỏ và khí đốt tự nhiên, và buộc các dịch vụ và người tiêu dùng sử dụng năng lượng và nhiên liệu vận tải từ phong năng và quang năng không đáng tin cậy và đắt đỏ. Trong khi theo đuổi nghị trình này, và tránh xa các chính sách ủng hộ khoan dầu của ông Trump, thì họ đang diệt bỏ một trong những dạng năng lượng sạch nhất và tiêu tốn của Hoa Kỳ hơn 150 tỷ USD mỗi năm. Với số tiền đó, chúng ta có thể hiện đại hóa mọi trường học ở Mỹ quốc.

Chiến lược của Tổng thống Biden có vẻ như đặt nước Mỹ ở vị trí cuối cùng. Điều này giải thích tại sao giá xăng lại lên đến 4 USD một gallon.

Nếu như chúng ta không khôn khéo, chẳng sớm thì muộn, những mức giá đó sẽ còn tăng cao hơn nữa. Ai được lợi nhất? Chính là ông Vladimir Putin và các vua dầu mỏ của Ả Rập thôi.Cẩm An biên dịch

Tại sao có quá nhiều người Mỹ bị lừa đảo?


Một số trò lừa đảo qua điện thoại tự xưng là từ một tổ chức dịch vụ tài chính và yêu cầu quý vị cập nhật thông tin—nhưng đừng làm thế! Đây có thể là một cuộc tấn công lừa đảo nhằm đánh cắp thông tin cá nhân của quý vị. (Ảnh: BestForBest/Shutterstock)

John Mac Ghlionn

Thứ ba, 29/08/2023
“Cứ mỗi phút lại có một kẻ khờ khạo ra đời.” Một trăm bảy mươi năm sau, những lời này—có thể có hoặc có thể không phải là do ông P.T. Barnum nói ra—vẫn còn rất ư là đúng—đặc biệt là ở Hoa Kỳ.

Theo Forbes, năm ngoái, những kẻ lừa đảo đã đánh cắp khoảng 5 tỷ USD từ tay người Mỹ trong các vụ lừa đảo liên quan đến khoản vay sinh viên. Những người trẻ tuổi, nhiều người trong số họ nổi tiếng là những người am hiểu công nghệ, cũng không tránh khỏi bị lừa đảo. Năm 2021, theo một nghiên cứu được thực hiện bởi các chuyên gia an ninh mạng tại Social Catfish, những thanh niên dưới 20 tuổi đã mất 101.4 triệu USD bởi các vụ lừa đảo trực tuyến. Trong năm 2017, những người dưới 20 tuổi chỉ mất 8.3 triệu USD (pdf) cho những kẻ lừa đảo trực tuyến. Theo một báo cáo gần đây của CoinJournal, kể từ năm 2018, các vụ lừa đảo mã kim cũng đã tăng lên đáng kể.

Hoạt động lừa đảo đang ngày càng trở nên tinh vi hơn, và người Mỹ ở mọi lứa tuổi đều đang trở thành mục tiêu. Tình trạng này đặt ra câu hỏi: Có điều gì mà chúng ta có thể làm để giúp những người Mỹ bình thường hiểu biết hơn về lừa đảo, và nhận thức rõ hơn về các mối đe dọa do tội phạm trực tuyến gây ra?

Bàn về vấn đề này có ông Daniel Simons và ông Christopher Chabris, hai nhà tâm lý học nổi tiếng am hiểu về lĩnh vực lừa đảo. Cuốn sách mới của họ, có nhan đề “Nobody’s Fool: Why We Get Taken In and What We Can Do About It” (“Không ai ngu ngốc cả: Tại sao Chúng ta bị Lừa và Chúng ta Có thể Làm gì khi bị Lừa”), thảo luận về các trò lừa đảo đánh cắp thông tin và kế hoạch Ponzi, khoa học lừa lọc và nghệ thuật làm giả, nghệ thuật lừa bịp và tội phạm mã kim. Bộ đôi tác giả này đã mô tả một cách thấu đáo nhiều cách mà một người bình thường thường xuyên bị lừa trong những vụ lừa đảo thiệt hại nặng nề nhất.

Ông Simons nói với tôi rằng ông ấy và ông Chabris đã viết cuốn sách trên bởi vì họ “nhận ra rằng mọi người thấy những câu chuyện về bịp bợm và lừa đảo luôn luôn thú vị, và mánh khóe lừa bịp đó dường như đang gia tăng.” Khá kỳ lạ là, “Mặc dù có nhiều bộ phim, podcast, và bài báo nói về những trò lừa bịp, nhưng mọi người vẫn tiếp tục bị lừa theo những cách giống như thế,” ông nói thêm.

Tôi đã đặt câu hỏi là tại sao lại như vậy? Theo ông Simons, “Bịp bợm, lừa đảo, và bày trò mánh lới trong các lĩnh vực từ kinh doanh đến thể thao cho đến các trò chơi rồi đến nghệ thuật, tất cả đều khai thác cùng một thói quen nhận thức và thu hút mọi người bằng cách sử dụng cùng một loại mồi nhử thông tin.”

Một lỗ hổng chí mạng của con người, như đã được nêu ra trong cuốn sách, liên quan đến xu hướng chấp nhận những gì chúng ta nhìn thấy, và không muốn phân tích kỹ thông tin mà chúng ta được cung cấp. Trong thời đại mà việc thu thập và giải quyết thông tin được giao cho máy móc như ngày nay, khi mà các thiết bị kỹ thuật số và các thuật toán nhanh chóng thường làm thay cho việc suy nghĩ của chúng ta, thì chúng ta dường như đang mất đi khả năng thực hành tư duy phản biện. Việc tra cứu thông tin trên Google chỉ có thể đưa chúng ta đi xa đến thế thôi.

Ông Simons nói với tôi rằng những kẻ lừa đảo lại vô cùng sáng tạo, “và những trò lừa đảo phổ biến ngày hôm nay thì trông sẽ rất khác vào ngày mai, ít nhất là ở bề ngoài.” Ông ấy nói đúng. Chúng ta đã trải qua một chặng đường dài kể từ thời “hoàng tử Nigeria” hứa hẹn với chúng ta rằng chỉ cần một lần chuyển tiền là có thể sở hữu khối lượng tài sản không thể tưởng tượng được (mặc dù, cần lưu ý rằng, trò lừa đảo này cũng đã biến hóa trong thời gian gần đây).

Theo ông Simons, một số trong những trò lừa đảo phổ biến hơn hiện nay “bao gồm lừa đảo qua thư điện tử, tin nhắn văn bản, và những cuộc gọi tự động hoặc do người gọi đều có thể là bước đầu tiên để ‘thâm nhập thư điện tử của doanh nghiệp.’” Đối với những ai không biết rõ về lừa đảo, thì thâm nhập thư điện tử doanh nghiệp (BEC) là một kiểu tấn công lừa đảo được sử dụng để đánh cắp tiền và/hoặc thông tin quan trọng.

Ông Chabris nói thêm rằng một hình thức lừa đảo phổ biến khác là lừa đảo qua tổng đài. Hình thức lừa đảo này chính là kẻ lừa đảo nhắm mục tiêu vào những người đang mắc nợ, đang nợ tiền thuế, hoặc có tình trạng nhập cư hạn chế để gọi điện đe dọa rằng họ sẽ phải ngồi tù hoặc bị trục xuất nếu không trả tiền ngay lập tức.

“Những kẻ lừa đảo này,” ông Simons lưu ý, “thường yêu cầu nạn nhân mua thẻ rút tiền mặt trả trước và đọc những con số đó qua điện thoại (điều mà quý vị không bao giờ nên làm—đó luôn là trò lừa đảo).”

“Một hình thức lừa đảo khủng khiếp gần đây,” theo như ông giải thích, “có liên quan đến những người gọi điện giả vờ đã bắt cóc một đứa trẻ và đòi tiền chuộc.”

Hồi tháng Tư năm nay, một người mẹ tên là Jennifer DeStefano đã trở thành nạn nhân của một vụ lừa đảo bắt cóc qua mạng đáng sợ khi bọn tội phạm sử dụng đoạn băng có giọng nói đã được chỉnh sửa của cô con gái 15 tuổi của bà nhằm đòi hỏi một khoản tiền lớn. Năm ngoái, theo dữ liệu từ Ủy ban Thương mại Liên bang, người Mỹ đã mất một lượng tiền đáng kinh ngạc 2.6 tỷ USD trong các vụ lừa đảo mạo danh.

Người Mỹ có thể làm gì để tự bảo vệ mình trước nguy cơ lừa đảo ngày càng tinh vi?

Trước hết, ông Simons nhấn mạnh: “Điều quan trọng là phải nhận ra rằng mánh khóe lừa đảo có phạm vi rộng, từ việc đơn giản là chuyển thông tin sai lệch cho đến các kế hoạch Ponzi. Hầu hết các mánh khóe lừa đảo hàng ngày không nằm ở đầu đỉnh của dải phạm vi đó, mà nằm ở những tuyên bố tiếp thị sai sự thật, thông tin sai lệch về chính trị, và gian lận trong các trò chơi và thể thao tất cả đều hoạt động vì những lý do tương tự như những trò lừa đảo lớn hơn.”

“Công nghệ,” theo vị giáo sư của Đại học Illinois Urbana-Champaign này, “đã làm cho việc truyền bá thông tin sai lệch và thông tin giả dễ dàng hơn nhiều so với trước đây, và công nghệ đã cho phép một số hình thức lừa đảo hoạt động trên quy mô lớn.”

Ông nói tiếp, chẳng hạn như vụ lừa đảo “Hoàng tử Nigeria” được nói ở trên đã bắt đầu từ rất lâu trước khi có thư điện tử, từ việc những kẻ lừa đảo gửi thư, sau đó nâng cấp lên thành gửi fax. Sau đó, với sự ra đời của thư điện tử, một số ít kẻ lừa đảo đã có thể gửi hàng chục ngàn mồi nhử để thu hút một tỷ lệ nhỏ nạn nhân.

“Thông thường,” ông Simons kết luận, “chiến lược tốt nhất đơn giản là đặt một vài câu hỏi: Điều đó có thực sự đúng không? Đây có thể là một trò lừa đảo không? Hoặc liên lạc với một người bạn, đồng nghiệp, hoặc cố vấn và nhờ họ trả lời câu hỏi với một quan điểm khác với quan điểm của quý vị.”

Nói cách khác, hãy lùi lại một bước, hít một hơi thật sâu, và thực hành cách suy nghĩ phản biện. Chỉ vì thế giới đầy rẫy những kẻ khờ khạo, thì không có nghĩa là quý vị được định sẵn để trở thành một trong số họ.Cẩm An biên dịch

Vụ án bầu cử ở Georgia: Ngày xét xử được ấn định là 04/03/2024 — một ngày trước Super Tuesday


Cựu Tổng thống Donald Trump đến để khởi hành tại Phi trường Quốc tế Atlanta Hartsfield-Jackson sau khi được ghi danh lý lịch tư pháp tại Nhà tù Quận Fulton ở Atlanta, hôm 24/08/2023. (Ảnh: Joe Raedle/Getty Images)

 
Petr Svab
Jackson Richman
Thứ ba, 29/08/2023

HOA THỊNH ĐỐN — Thẩm phán liên bang Tanya Chutkan đã ấn định ngày 04/03/2024 là ngày xét xử vụ án liên quan đến nỗ lực của cựu Tổng thống (TT) Donald Trump nhằm thách thức kết quả bầu cử năm 2020.

Bà tuyên bố rằng cả hai ngày xét xử do luật sư của cựu tổng thống và biện lý đặc biệt Jack Smith đưa ra đều không thể chấp nhận được, mặc dù quyết định của bà đưa ra ngày xét xử chỉ hơn hai tháng so với những gì ông Smith đề nghị và kém hai năm so với những gì bên bào chữa mong muốn. Trước đó, ông Smith đã yêu cầu ngày xét xử vào tháng 01/2024 và việc lựa chọn bồi thẩm đoàn diễn ra sớm vào ngày 11/12. Bên bào chữa đề nghị ngày xét xử vào tháng 04/2026.

Bà cho biết bà đã tính đến các phiên tòa khác mà cựu TT Trump đang phải đối mặt, nhưng sẽ không xem xét hoàn cảnh cá nhân hoặc nghề nghiệp v.v. của ông, tức là lịch trình tranh cử tổng thống năm 2024 của ông.

Sau đó, cựu TT Trump đã viết trên nền tảng Truth Social, “Hôm nay, một thẩm phán thiên vị, ghét Trump chỉ cho tôi thêm hai tháng, đúng như điều mà chính phủ hủ bại của chúng ta mong muốn, SUPER TUESDAY. Tôi sẽ KHÁNG CÁO!”

Thời điểm xét xử nói trên mang ý nghĩa chính trị. Cựu TT Trump có thể muốn trì hoãn thời điểm xét xử sau cuộc bầu cử, trong khi các đối thủ của ông muốn thấy ông bị kết án trong mùa bầu cử. Ngày được thẩm phán lựa chọn tình cờ là một ngày trước loạt cuộc bầu cử sơ bộ “Super Tuesday” ở 16 tiểu bang.Thanh Nhã lược dịch

PHÂN TÍCH: Dữ liệu mới báo hiệu nền kinh tế Hoa Kỳ đang đối mặt với ‘sự đình trệ’

Biển báo ‘cần bán’ treo trước một ngôi nhà mới trong khu phát triển nhà ở khi một công nhân bảo trì đang quét đường ở Fairfax, Virginia, hôm 22/08/2023. Theo dữ liệu ngành được công bố hôm 22/08/2023, khi lãi suất vay thế chấp tăng cao và nguồn cung nhà ở hạn chế cản trở người mua, doanh số bán nhà ở Hoa Kỳ đã giảm trong tháng 07/2023. (Ảnh: Andrew Caballero-Reynolds/AFP qua Getty Images)
Andrew Moran

Thứ ba, 29/08/2023
Mùa hè này, thị trường tài chính Hoa Kỳ phần lớn đã gạt bỏ được những lo ngại về suy thoái kinh tế, với một kho dữ liệu mô tả nền kinh tế quốc gia theo hướng tích cực. Tuy nhiên, những số liệu mới lại cho thấy Hoa Kỳ có thể đang phải đối diện với một trạng thái “đình trệ.”

Chỉ số nhà Quản lý Mua hàng Tổng hợp (PMI) nhanh của S&P Global, thước đo hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, đã giảm xuống 50.4 trong tháng Tám, giảm từ mức 52 trong tháng Bảy và ở dưới mức ước tính đồng thuận là 52.

Chỉ số PMI Sản xuất Toàn cầu của S&P đã rơi sâu vào phạm vi thu hẹp, đạt mức 47 trong tháng này, giảm từ mức 49 trong tháng Bảy. PMI Dịch vụ cũng giảm từ 52.3 xuống 51.

Theo dữ liệu của S&P Global, tổng số đơn đặt hàng mới đã giảm, tốc độ tạo việc làm chậm lại, lạm phát chi phí đầu vào lại tăng nhanh, và triển vọng kinh doanh [không] cải thiện.

“Hoạt động kinh doanh gần như bị đình trệ trong tháng Tám làm dấy lên nghi ngờ về sức mạnh tăng trưởng kinh tế của Hoa Kỳ trong quý 3,” ông Chris Williamson, nhà kinh tế trưởng tại S&P Global Market Intelligence, cho biết trong một báo cáo. “Cuộc khảo sát cho thấy tốc độ tăng trưởng nhờ lĩnh vực dịch vụ trong quý 2 đã giảm dần, kèm theo đó là sản lượng nhà máy tiếp tục giảm.”

Đơn đặt hàng đối với các mặt hàng sản xuất chính của Hoa Kỳ đã làm tăng thêm những lo ngại rằng nền kinh tế có thể gặp khó khăn với một môi trường đình trệ vào giữa quý 3.

Theo Cục điều tra dân số, đơn đặt hàng lâu bền đã giảm 5.2% trong tháng Bảy, sụt giảm từ một mức điều chỉnh là giảm 4.4% trong tháng Sáu và tệ hơn so với dự báo thị trường là âm 4%. Con số cuối cùng đã thể hiện mức giảm mạnh nhất kể từ tháng 04/2020.

Đơn đặt hàng thiết bị vận tải giảm 14.3%, trong khi đơn đặt hàng hàng hóa vốn phi quốc phòng, trừ phi cơ, tăng 0.1%.

Ông Scott Anderson, nhà kinh tế trưởng tại Bank of the West Economics cho biết: “Một điều đáng lo ngại hơn là, các đơn đặt hàng tư liệu sản xuất cốt lõi – được sử dụng để ước tính chi tiêu đầu tư kinh doanh trong báo cáo GDP – đã giảm 1.1% trong tháng Bảy, cho thấy chi tiêu đầu tư kinh doanh trong báo cáo GDP quý 3 giảm mạnh.”

Ông Anderson nói thêm trong một ghi chú khác rằng toàn bộ những điều này “cho thấy hoạt động kinh tế của Hoa Kỳ đang yếu đi và gần như đình trệ vào giữa quý 3.”
Hiệu ứng thắt chặt

Liệu nền kinh tế đang bắt đầu cảm nhận được tác động của lãi suất cao hơn không?

Do chính sách tiền tệ hoạt động có độ trễ, các quan chức Fed và một loạt các nhà kinh tế cảnh báo rằng có thể cần có thời gian để Hoa Kỳ hấp thụ được một môi trường lãi suất quỹ liên bang 5%.

Ông Carsten Brzeski, người đứng đầu bộ phận vĩ mô toàn cầu tại ING, viết trong một ghi chú: “Nền kinh tế Hoa Kỳ có thể sẽ trải qua một cuộc suy thoái vào mùa đông.”

Bất chấp dữ liệu đáng thất vọng, ước tính mô hình GDPNow của Ngân hàng Fed Atlanta cho giai đoạn từ tháng Bảy đến tháng Chín đã được điều chỉnh tăng từ 5.8% lên 5.9%.

Tuần tới, dữ liệu kinh tế quan trọng do ngân hàng trung ương này theo dõi sẽ được công bố, gồm có chỉ số giá chi tiêu tiêu dùng cá nhân (PCE) và báo cáo việc làm tháng Tám.

Mô hình Dự báo Lạm phát Nowcasting của Ngân hàng Fed Cleveland đề nghị PCE hàng năm là 3.6% và PCE cốt lõi là 4%, loại bỏ các chu kỳ năng lượng và lương thực dễ biến động. Trong khi đó, những dự báo ban đầu cho thấy thị trường lao động Hoa Kỳ đã tạo ra 180,000 việc làm mới.

Trong khi lạm phát giá đã dao động trong phạm vi 3% đến 4%, Nowcast của Fed Cleveland dự báo chỉ số giá tiêu dùng (CPI) sẽ tăng trong tháng này: ở mức 3.8% theo năm và mức 0.8% theo tháng.

Lợi suất công khố phiếu cũng đã tăng vọt trong tháng này, cho thấy các nhà đầu tư kỳ vọng lạm phát sẽ hồi phục. Lợi suất công khố phiếu kỳ hạn 2 năm ở mức trên 5%, trong khi lợi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm chuẩn đang dao động quanh mức cao nhất trong 16 năm ở khoảng 4.25%.

“Việc tăng lãi suất thị trường là trực tiếp trái ngược với kỳ vọng của thị trường rằng Hệ thống Dự trữ Liên bang sắp kết thúc chu kỳ thắt chặt,” ông John Lynch, giám đốc đầu tư của Comerica Wealth Management, cho biết trong một ghi chú. “Lợi suất thực tăng gây rủi ro cho hoạt động kinh tế và thị trường, kèm theo rủi ro về chi tiêu, đầu tư và định giá cho người tiêu dùng, doanh nghiệp và nhà đầu tư.”

Nhưng Hệ thống Dự trữ Liên bang có thể cần phải lo lắng không chỉ về giá cả kinh doanh và giá tiêu dùng mới. Những thực tế mới đang bắt đầu thâm nhập vào nền kinh tế lớn nhất thế giới.


Tòa nhà Hệ thống Dự trữ Liên bang ở Hoa Thịnh Đốn vào ngày 19/09/2017. (Samira Bouaou/The Epoch Times)

Nghiên cứu gần đây của Fed San Francisco cho thấy số tiền tiết kiệm dôi dư trong thời kỳ đại dịch của các gia đình có thể cạn kiệt trước khi năm kết thúc.

Lần đầu tiên tổng nợ thẻ tín dụng đã vượt quá 1 ngàn tỷ USD.

Thị trường nhà ở đang phải chịu đựng ba thách thức: lãi suất vay thế chấp cao ngất ngưởng, doanh số bán nhà hiện tại sụt giảm, và hoạt động xây dựng nhà ở mới dưới mức xu hướng.

Ngoài ra, còn có những dấu hiệu cho thấy thị trường lao động có nhu cầu tuyển dụng cao đang bắt đầu hạ nhiệt.

“Trong tháng Bảy, số lượng đơn đặt hàng mới kém đi, lãi suất cao, nhận thức của người tiêu dùng giảm sút về triển vọng điều kiện kinh doanh, và số giờ làm việc trong ngành sản xuất giảm đã khiến chỉ số hàng đầu giảm 0.4%.” Bà Justyna Zabinska-La Monica, giám đốc cao cấp về các chỉ số chu kỳ kinh doanh tại The Conference Board, cho biết trong một báo cáo về chỉ số kinh tế hàng đầu được theo dõi rộng rãi. “Chỉ số hàng đầu tiếp tục cho thấy hoạt động kinh tế có khả năng giảm tốc và rơi vào trạng thái thu hẹp nhẹ trong những tháng tới.”
Hội nghị Jackson Hole

Chủ tịch Fed Jerome Powell đã có bài diễn văn rất được mong đợi tại hội nghị chuyên đề Jackson Hole thường niên của ngân hàng trung ương hôm 25/08. Kể từ khi trở thành người đứng đầu tổ chức này, ông Powell đã sử dụng sự kiện này như một cách để thúc đẩy các nghị trình chính sách.

Các nhà phân tích thị trường không mong đợi ông Powell sẽ lặp lại thông điệp bi quan như năm ngoái. Thay vào đó, người ta kỳ vọng rằng ông sẽ hứa sẽ kết thúc cuộc chiến chống lạm phát trong khi thận trọng về việc không thắt chặt quá mức.

Các nhà kinh tế của Deutsche Bank viết trong một ghi chú: “Với sự biến động của lạm phát dai dẳng hơn kể từ đó, và với một số dấu hiệu ban đầu cho thấy áp lực giá đang vừa phải, hội nghị năm nay là cơ hội thích hợp để thiết lập lại quan điểm lạm phát của Chủ tịch Fed.”

Nhà phân tích thị trường Gene Inger cho biết đây sẽ là “một hành động cân bằng” trước cuộc họp chính sách của Ủy ban Thị trường mở Liên bang (FOMC) vào tháng tới.

Theo CME FedWatch Tool, thị trường tương lai đang định giá 80% khả năng Fed sẽ tiếp tục tạm dừng tăng lãi suất.

“Nếu Fed có một thái độ là ‘chúng ta có thể thực hiện một đợt tăng lãi suất nữa mà không gặp trở ngại nào,’ thì tôi sẽ chỉ nói không tốt về Fed, và tôi không nghĩ họ có thể không gặp trở ngại nào,” ông Inger viết. “Cá nhân tôi nghĩ rằng lãi suất sẽ được ‘giữ nguyên’ tại cuộc họp FOMC tiếp theo; nhưng không có gì là bất thường khi Fed cố gắng chế ngự bất kỳ kỳ vọng nào về việc ‘cắt giảm lãi suất.’”

Ủy ban ấn định lãi suất sẽ tổ chức cuộc họp chính sách kéo dài hai ngày tiếp theo vào ngày 19 và 20/09.Hoa Mai biên dịch

Ông McCarthy cho biết cuộc điều tra đàn hặc TT Biden là ‘bước tiến tự nhiên’


Chủ tịch Hạ viện Kevin McCarthy (Cộng Hòa-California) nói chuyện với giới truyền thông trong cuộc họp tại National Statuary Hall, Điện Capitol, Hoa Thịnh Đốn hôm 17/07/232023. (Ảnh: Alex Wong/Getty Images)
Aldgra Fredly

Thứ ba, 29/08/2023
Chủ tịch Hạ viện Kevin McCarthy (Cộng Hòa-California) nói rằng việc bắt đầu một cuộc điều tra đàn hặc Tổng thống Joe Biden sẽ là một “bước tiến tự nhiên.”

Trong một cuộc phỏng vấn với “Sunday Morning Futures” của Fox News Channel, ông McCarthy nói rằng một cuộc điều tra đàn hặc sẽ đem lại cho Quốc hội “đỉnh quyền lực pháp lý để có được tất cả thông tin mà Quốc hội cần” nhằm điều tra việc liệu Tổng thống Biden có lạm dụng chức vụ của mình để trợ giúp doanh nghiệp gia đình hay không.

“Nếu cô xem tất cả thông tin mà chúng tôi đã có thể thu thập được cho đến nay, thì việc phải tiến hành một cuộc điều tra đàn hặc là một bước tự nhiên,” ông McCarthy nói với người dẫn chương trình Maria Bartiromo về hành động mà đa số trong Đảng Cộng Hòa tại Hạ viện sẽ thực hiện, khi các nghị sĩ sẽ trở lại Hoa Thịnh Đốn vào giữa tháng Chín.

Tòa Bạch Ốc không bác bỏ tuyên bố của ông Archer. Tổng thống Biden nhiều lần phủ nhận việc tham gia hoặc biết bất kỳ hoạt động kinh doanh nào của gia đình ông. Tòa Bạch Ốc chưa phúc đáp yêu cầu bình luận.

Cho đến nay, Ủy ban này đã ban trát lệnh cho sáu ngân hàng khác nhau, nhận được hàng ngàn hồ sơ ngân hàng của một số doanh nghiệp và cá nhân có liên quan đến hoạt động kinh doanh của các thành viên gia đình ông Biden.

Những hồ sơ đó cho thấy hơn 20 triệu USD thanh toán từ ngoại quốc đã được chuyển cho người thân của tổng thống, trong đó có ông Hunter Biden, và các đối tác kinh doanh của họ trong thời gian ông Biden giữ chức phó tổng thống Mỹ từ năm 2009 đến năm 2017.

Tuy nhiên, ông McCarthy cho biết vẫn còn những câu hỏi vẫn còn bỏ ngỏ: “Công chúng Mỹ xứng đáng có câu trả lời: ai đã nói dối [về những cáo buộc được đưa ra cho đến nay], thông tin nào đã được đưa ra, ai đã trả tiền, và chính phủ ngoại quốc nào?”

Ngay cả khi bị đàn hặc tại Hạ viện, tổng thống cũng khó có thể bị Thượng viện, nơi thành viên Đảng Dân Chủ chiếm đa số, truất phế.Bản tin có sự đóng góp của Samantha Flom và The Associated Press

Liên minh vì Quyền của Cha mẹ và những người phản đối chính sách giữ bí mật về chuyển giới biểu tình ở Los Angeles


Khoảng 200 người biểu tình vì quyền của cha mẹ đã tuần hành qua trung tâm thành phố Los Angeles để phản đối việc cho phép các trường công lập giữ kín tình trạng chuyển giới, ở California hôm 22/08/2023. (Ảnh: Được sự cho phép của cô Hasmik Bezirdshyan)
Brad Jones

Thứ ba, 29/08/2023
LOS ANGELES — Hôm 22/08, khoảng 200 người biểu tình vì quyền của cha mẹ đã tuần hành qua trung tâm thành phố Los Angeles để phản đối chính sách giữ bí mật về chuyển đổi giới tính tại các trường công lập ở tiểu bang California.

Cuộc tuần hành này được các nhóm SoCal Parent Advocate, Dad Army, và Mom Army tổ chức với tên gọi “Hãy Để Con em Chúng tôi Được yên.” Họ cho biết họ phản đối việc “truyền bá,” “tình dục hóa,” và “gợi ý” cho trẻ em trong trường học.

Liên minh này ủng hộ các chính sách thông báo cho cha mẹ, trong đó quy định nhân viên nhà trường phải thông báo cho cha mẹ nếu con em của họ xác định là người chuyển giới hoặc cố gắng xác định thuộc giới tính khác với giới tính được ghi trong giấy khai sinh của đứa trẻ.

Cuối cùng, cảnh sát đã giải tán cuộc biểu tình và tuyên bố đây là một cuộc tụ tập bất hợp pháp, nhưng cả hai nhóm vẫn nán lại khu vực này cho đến khi họ tản đi vào khoảng 2 giờ chiều, tức khoảng 3 tiếng sau khi cuộc biểu tình bắt đầu.


Khoảng 200 người biểu tình vì quyền của cha mẹ đã tuần hành qua trung tâm thành phố Los Angeles để phản đối chính sách cho phép các trường công lập giữ bí mật về việc chuyển giới ở California hôm 22/08/2023. (Ảnh: Được sự cho phép của cô Hasmik Bezirdshyan)
Sự phản đối của cha mẹ

Trong khi đó, dự luật thúc đẩy việc không thông báo cho cha mẹ và người giám hộ cũng như cái gọi là “chăm sóc khẳng định giới tính” đã làm dấy lên một làn sóng phản đối từ các nhóm ủng hộ quyền của cha mẹ vốn đã quét qua tiểu bang này trong những tuần gần đây.

Hồi tháng Hai, Dân biểu Tiểu bang California Bill Essayli (Cộng Hòa-Riverside) đã giới thiệu Dự luật Hạ viện 1314, trong đó yêu cầu các học khu phải thông báo cho cha mẹ trong vòng ba ngày nếu con em của họ thay đổi nhận dạng giới tính ở trường.

Dự luật này nhằm phản đối các hướng dẫn của Sở Giáo dục đề nghị các khu học chánh giữ bí mật về việc chuyển đổi giới tính với cha mẹ hoặc người giám hộ trừ khi đứa trẻ đồng ý thông báo cho cha mẹ hoặc người giám hộ. Tuy nhiên, dự luật đã bị hủy bỏ trước khi được đưa ra xem xét trong hội đồng.


Bà Sonja Shaw, chủ tịch của Học khu Thống nhất Chino Valley, nói chuyện trong một cuộc họp báo bên ngoài Tòa nhà Quốc hội Tiểu bang California ở Sacramento hôm 14/08/2023. (Ảnh: Được sự cho phép của Hội đồng Gia đình California)

Kể từ đó, ba học khu khác — Học khu Thống nhất Murrieta Valley, Học khu Thống nhất Temecula Valley, và Học khu Trung học Liên hiệp Anderson — đã làm theo dự luật này. Vào tháng Chín, khu học chánh Orange Unified sẽ quyết định có áp dụng chính sách tương tự hay không.

Một người cha, dùng hóa danh là Ben Richards vì sợ bị trả đũa, đã nói với The Epoch Times rằng với tư cách là người sáng lập SoCal Parent Advocates, ông đã chứng kiến phong trào bảo vệ quyền của cha mẹ phát triển theo cấp số nhân trong vài năm qua, đặc biệt trong hoàn cảnh các nhóm cánh tả cố gắng dẹp bỏ phong trào này.


Một người cha, dùng hóa danh Ben Richards vì sợ bị trả đũa, đã chia sẻ tại một cuộc biểu tình có sự tham dự của khoảng 200 người ủng hộ quyền của cha mẹ ở trung tâm thành phố Los Angeles để phản đối chính sách cho phép các trường công lập giữ bí mật về việc chuyển giới ở California hôm 22/08/2023. (Ảnh: Được sự cho phép của cô Hasmik Bezirdshyan)

Ông cho biết các bậc cha mẹ phát hiện ra con của mình đọc những cuốn sách như “This Book is Gay” và “Gender Queer,” nhưng khi họ cố gắng loại bỏ “nội dung khiêu dâm” khỏi thư viện trường học, thì họ đã bị bôi nhọ và bị xem là “những người theo chủ nghĩa dân tộc Cơ Đốc Giáo da trắng.”


Khoảng 200 người biểu tình vì quyền của cha mẹ đã tuần hành qua trung tâm thành phố Los Angeles để phản đối chính sách cho phép các trường công lập giữ bí mật về việc chuyển giới ở California hôm 22/08/2023. (Ảnh: Được sự cho phép của cô Hasmik Bezirdshyan)

Căng thẳng leo thang hồi đầu tháng Sáu khi các bậc cha mẹ phản đối cuộc họp Tự hào tại Trường Tiểu học Saticoy, ở North Hollywood.

Thị trưởng Burbank Konstantine Anthony đứng về phía những người phản đối tại cuộc biểu tình ở trung tâm thành phố Los Angeles.


Các nhân viên cảnh sát theo dõi tình hình tại một cuộc biểu tình với sự tham dự của khoảng 200 người ủng hộ quyền của cha mẹ ở trung tâm thành phố Los Angeles để phản đối chính sách cho phép các trường công lập giữ bí mật về việc chuyển giới, ở California hôm 22/08/2023. (Ảnh: Được sự cho phép của cô Hasmik Bezirdshyan)

Bà Lusine Karikosyan, có hai con đang theo học tại Học khu Thống nhất Los Angeles, nói với The Epoch Times rằng trong khi người trưởng thành trong cộng đồng LGBT được tự do đưa ra quyết định thì trẻ em nên được để yên.

“Hãy để trẻ em lớn lên, trở thành người lớn, và đưa ra những quyết định của người lớn khi chúng sẵn sàng.” Bà nói: “Việc thúc đẩy điều này đối với trẻ em ngay từ khi còn học tiểu học hoặc đưa tất cả những cuốn sách không phù hợp này vào chương trình giảng dạy hoặc đưa vào trong thư viện thật là kinh khủng và đáng kinh hoàng đối với các bậc cha mẹ.”

Vì các bậc cha mẹ không biết chuyện gì đang diễn ra ở các trường nên các nhóm bảo vệ quyền cha mẹ đang cố gắng nâng cao nhận thức cho họ. Bà Karikosyan cho biết họ không chống lại cộng đồng LBGT.Bản tin có sự đóng góp của City News Service

Ứng cử viên Đảng Cộng Hòa cảnh báo về tình hình năm 2024 ‘sẽ khiến mọi người Mỹ phải lo lắng’


Cựu Thống đốc South Carolina và là cựu đại sứ Liên Hiệp Quốc Nikki Haley tham gia cuộc tranh luận Tổng thống sơ bộ đầu tiên của Đảng Cộng Hòa tại Diễn đàn Fiserv ở Milwaukee, Wisconsin, hôm 23/08/2023. (Ảnh: KAMIL KRZACZYNSKI/AFP qua Getty Images)
Jack Phillips

Thứ ba, 29/08/2023
Ứng cử viên tổng thống của Đảng Cộng Hòa và là cựu đại sứ Liên Hiệp Quốc Nikki Haley đã cảnh báo về một tình huống có thể xảy ra vào năm 2024 mà bà cho rằng sẽ khiến tất cả người Mỹ lo lắng.

Nói chuyện với Fox News, bà Haley nói rằng Phó Tổng thống Kamala Harris sẽ trở thành tổng thống nếu Tổng thống Joe Biden giành chiến thắng vào năm 2024, điều mà theo bà, sẽ “khiến mọi người Mỹ lo lắng.”

Sau đó, bà cho rằng cựu Tổng thống Donald Trump, ứng cử viên hiện đang dẫn đầu trong số các ứng cử viên tổng thống của Đảng Cộng Hòa, có cơ hội rất mong manh để giành chiến thắng trước Tổng thống Joe Biden trong cuộc bầu cử năm tới.

“Ông Donald Trump là một bằng hữu của tôi. Thật vinh dự khi được phục vụ trong chính phủ này và làm việc về chính sách đối ngoại với ông, và tôi đã đồng ý với nhiều chính sách của ông ấy. Nhưng thực tế là, tôi không biết bây giờ là có bốn hay năm hay sáu hay có bao nhiêu cáo trạng, nhưng ông ấy sẽ dành nhiều thời gian trong phòng xử án chứ không phải tham gia chiến dịch tranh cử,” bà nói với Fox News hôm Chủ nhật (27/08).

“Mối quan tâm của tôi là chúng ta không thể để bà Kamala Harris làm tổng thống. Chúng ta không thể mạo hiểm cho điều này. Chúng ta phải bảo đảm rằng chúng tôi có một lãnh đạo thế hệ mới sẽ thu hút không chỉ các cử tri Đảng Cộng Hòa mà còn thu hút các cử tri độc lập,” bà Haley cho biết, và nói thêm rằng Đảng Cộng Hòa cần nhắm đến phụ nữ ngoại ô, người Mỹ gốc Latinh, và Người Mỹ gốc Á.

Cả bà Harris và tổng thống đều chưa đưa ra bất kỳ bình luận công khai nào về tuyên bố của bà Haley. Cựu tổng thống cũng không hồi đáp bà Haley, và cho đến nay ông cũng ít bình luận về cựu đại sứ Liên Hiệp Quốc này kể từ khi bà tham gia cuộc đua tranh cử tổng thống.

Bà Haley là một trong 8 thành viên Đảng Cộng Hòa tham gia cuộc tranh luận đầu tiên của Đảng Cộng Hòa hồi tuần trước (21-27/08). Tuy nhiên, cựu Tổng thống Trump đã không tham dự cuộc tranh luận với lý do ông dẫn đầu đáng kể trong các cuộc thăm dò và thành tích của ông với tư cách là tổng thống thứ 45 của Mỹ.

Theo mức trung bình của các cuộc thăm dò gần đây được thực hiện từ ngày 17/08 đến ngày 26/08, cựu Tổng thống Trump nhận được 53% sự ủng hộ, Thống đốc Florida Ron DeSantis có 13%, doanh nhân Vivek Ramaswamy có 7.5%, bà Haley có 5%, cựu Phó Tổng thống Mike Pence có 4.7%, và những người còn lại chưa tới 3%. Bất kể những rắc rối pháp lý của cựu tổng thống, vị trí dẫn đầu của ông vẫn vượt lên trên các ứng cử viên khác.

Một số cuộc thăm dò cũng cho thấy hầu hết cử tri Đảng Cộng Hòa xem các cáo buộc hình sự chống lại cựu Tổng thống Trump là có động cơ chính trị, khiến chủ đề này trở thành một chủ đề khó giải quyết đối với các đối thủ của ông.

Mặc dù bà chỉ nhận được 5% trong các cuộc thăm dò gần đây, nhưng nhóm của bà Haley và những người khác trong Đảng Cộng Hòa khẳng định rằng bà hiện đang có động lực sau cuộc tranh luận vừa qua.

“Bà Nikki Haley tỏa sáng trên sân khấu tranh luận. Bà cứng rắn và trung thực, mà đó chính là những gì người dân Mỹ cần,” bà Annie Dickerson, một nhà gây quỹ kỳ cựu của Đảng Cộng Hòa và là người sáng lập Quỹ Chiến thắng vì Hành động của Nữ giới (Winning for Women Action Fund), mà theo The Hill, tổ chức này dường như ủng hộ bà Haley. “Bà ấy đã giới thiệu với cử tri tầm nhìn của mình về một nước Mỹ hùng mạnh và đáng tự hào, và điều đó đã gây được tiếng vang lớn.”

Chiến dịch tranh cử của bà Haley nói với hãng thông tấn này rằng sự hưởng ứng trước màn tranh luận của bà là “vượt trội,” nói rằng, “Cử tri đã nhìn thấy sự cứng rắn và sẵn sàng trở thành tổng thống của bà Nikki Haley trong cuộc tranh luận tối qua.”

Ông Vivek Ramaswamy (trái) và cựu Đại sứ Liên Hiệp Quốc Nikki Haley tham gia cuộc tranh luận đầu tiên của mùa bầu cử sơ bộ của Đảng Cộng Hòa do FOX News tổ chức tại Diễn đàn Fiserv ở Milwaukee, Wisconsin, hôm 23/08/2023. (Ảnh: Win McNamee/Getty Images)

“Thực ra mọi chuyện chỉ mới bắt đầu thôi,” bà nói với bà Bartiromo hôm Chủ Nhật (27/08). “Và vì vậy chúng tôi đã thực hiện 80 sự kiện ở New Hampshire và Iowa. Chúng tôi sẽ tiếp tục ở đó. Chúng tôi đang tổ chức các sự kiện ở South Carolina suốt tuần này. Chúng tôi sẽ tiếp tục tập trung vào việc tiếp xúc tối đa với mọi người, và trả lời mọi câu hỏi.”

Nhưng một số cuộc thăm dò ý kiến cho rằng chính ông Ramaswamy, người thường xuyên tranh cãi với bà Haley về việc liệu Hoa Kỳ có nên tài trợ cho Israel và Ukraine hay không, là người đã thắng trong cuộc tranh luận. Cựu Tổng thống Trump tuần trước tuyên bố ông Ramaswamy là người chiến thắng sau cuộc tranh luận, trong đó ông Ramaswamy ca ngợi cựu tổng thống là “vị tổng thống xuất sắc nhất thế kỷ 21.”

“Câu trả lời này đã mang lại cho ông Vivek Ramaswamy một CHIẾN THẮNG lớn trong cuộc tranh luận nhờ một thứ gọi là SỰ THẬT. Cảm ơn anh Vivek!” cựu Tổng thống Trump viết trên Truth Social.

Tại một thời điểm trong cuộc tranh luận, bà Haley tuyên bố ông Ramaswamy “muốn nhượng Ukraine cho Nga, ông ấy muốn để Trung Quốc thâu tóm Đài Loan, ông ấy muốn rời đi và ngừng tài trợ cho Israel,” nói thêm rằng “Quý vị không làm điều đó với bằng hữu. Thay vào đó, những gì quý vị làm là hậu thuẫn bằng hữu của mình.”

Ông Ramaswamy đáp lại bằng cách nói rằng bà đang “lan truyền lời nói dối này” về ông và cho rằng bà Haley đang làm việc theo yêu cầu của các nhà thầu quốc phòng và tổ hợp công nghiệp quân sự. Trên mạng xã hội, một số chuyên gia thuộc phái bảo tồn truyền thống đã chỉ trích nghị trình chính sách của bà Haley giống với nghị trình của cựu Tổng thống George W. Bush, người đã phát động hai cuộc chiến ở Trung Đông vào đầu những năm 2000.

“Tôi chúc bà thành công trong sự nghiệp tương lai trong hội đồng quản trị của Lockheed [Martin] và Raytheon,” ông Ramaswamy nói khi đề cập đến hai nhà thầu quốc phòng lớn.Nguyễn Lê biên dịch

Bóng ma của sự tách rời ám ảnh Bắc Kinh
Tách rời là một đòn bẩy quan trọng trong quan hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc


Sinh viên tốt nghiệp Đại học tham dự hội chợ việc làm tại Vũ Hán, ở tỉnh Hồ Bắc, miền trung Trung Quốc hôm 10/08/2023. (Ảnh: TR/AFP via Getty Images)

Stu Cvrk

Thứ ba, 29/08/2023
Đã có một loạt các bài báo gần đây về các vấn đề nghiêm trọng với nền kinh tế Trung Quốc (tham khảo các bài viết trên The Wall Street Journal, Fortune, Financial Times, Nikkei-China, BarronsReuters, để hiểu về chủ đề này). Nếu Tạp chí ủng hộ sự hợp tác Mỹ-Trung Foreign Affairs xuất bản một bài báo với nội dung mà đối với họ chắc chắn đó phải là một nhan đề gây chấn động, “Hồi kết của Phép màu Kinh tế Trung Quốc,” thì sự việc chắc hẳn đang trở nên nghiêm trọng.

Đáp lại, các phương tiện truyền thông nhà nước Trung Quốc đang cố tô vẽ nhằm giữ dòng vốn đầu tư trực tiếp của ngoại quốc vốn giúp nền kinh tế Trung Quốc tiếp tục phát triển. Dưới đây là một số tiêu đề như vậy gần đây: “CPI giảm, nhưng nhu cầu sẽ sớm phục hồi” (Nhật báo Trung Quốc, hôm 08/08); “Trung Quốc khai triển các biện pháp thúc đẩy phục hồi kinh tế, niềm tin” (Nhân dân Nhật báo, hôm 05/08); và “Các công ty ngoại quốc nhận được nhiều ưu đãi hơn” (Nhật báo Trung chu Quốc, hôm 03/08).

“Phép màu kinh tế” của Trung Quốc hoàn toàn không phải là phép màu nào hết, vì nền tảng cho sự phát triển của họ được các chính trị gia và doanh nhân phương Tây, những người được hưởng lợi trực tiếp từ việc “mở cửa Trung Quốc” với thế giới, chủ ý tạo ra. Giờ đây, những người cộng sản dưới sự chỉ thị của ông Tập Cận Bình đang bộc lộ thái độ liều lĩnh đối với giả định ban đầu rằng sự hiếu chiến của Trung Quốc có thể bị ngăn cản và hạn chế thông qua các chính sách hợp tác, cũng như việc Trung Quốc gây ảnh hưởng thành công trong giới chính trị Hoa Kỳ, thì điều mà những người cộng sản coi là một lời nguyền rủa — tách rời (và phiên bản nhẹ nhàng hơn của nó là “giảm thiểu rủi ro”) — hiện đang được thảo luận và thực hiện rộng rãi trong một số trường hợp trong giới chính trị và kinh doanh phương Tây.

Chúng ta hãy xem xét chủ đề này.
Các trụ cột của nền kinh tế Trung Quốc

Trung Quốc là một nền kinh tế xuất cảng. Mục tiêu dài hạn của Trung Quốc là trở thành trung tâm sản xuất chính của thế giới. Đây là cốt lõi của Sáng kiến Vành đai và Con đường của ông Tập: xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông cần thiết để tiếp cận các nguồn nguyên liệu thô ngoại quốc và xuất cảng thành phẩm từ các nhà máy Trung Quốc đến các điểm đến trên toàn thế giới. Phương Tây đã tạo thuận tiện cho chiến lược Vành đai và Con đường bằng cách bãi bỏ quy định về vận tải đường bộ, đường sắt, cảng, và vận chuyển mở vào những năm 1990, vốn là những yếu tố then chốt của hệ thống toàn cầu cho việc vận chuyển hàng hóa từ nhà máy/nhà sản xuất đến điểm đến cuối cùng/người tiêu dùng.

Chính sách hợp tác của Hoa Kỳ đã tiếp tục mang lại cho Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) khoản vay lãi suất thấp, thương mại tự do, chuyển giao công nghệ, và mở rộng đầu tư trực tiếp từ ngoại quốc vào việc xây dựng các ngành công nghiệp Trung Quốc vốn là động lực đằng sau sự tăng trưởng ngoạn mục của nền kinh tế Trung Quốc, đặc biệt là kể từ thời chính phủ cựu Tổng thống Clinton.

Những trụ cột này đã mang lại nhiều lợi ích cho Trung Quốc cộng sản: (1) dòng vốn đầu tư trực tiếp từ ngoại quốc dường như là không ngừng chảy vào các nhà máy Trung Quốc và các doanh nghiệp khác của những người ngoại quốc mong muốn tham gia vào “phép màu kinh tế Trung Quốc;” (2) tiếp cận trực tiếp với công nghệ mới nhất của phương Tây thông qua các liên doanh cho phép đánh cắp và chuyển giao tài sản trí tuệ cho các doanh nghiệp Trung Quốc và Quân Giải phóng Nhân dân (PLA); (3) thặng dư thương mại đã tài trợ cho quá trình hiện đại hóa và xây dựng quân đội của Trung Quốc vì các sản phẩm của Trung Quốc rẻ hơn các sản phẩm sản xuất trong nước ở Hoa Kỳ và các quốc gia khác; và (4) sự phụ thuộc của chuỗi cung ứng vào Trung Quốc đã phát triển theo thời gian.


Công nhân làm việc trên các sản phẩm nhôm tại một nhà máy ở Hồ Bắc, phía đông tỉnh An Huy của Trung Quốc, hôm 30/01/2023. (Ảnh: STR/AFP qua Getty Images)

Trụ cột quan trọng khác là nguồn cung năng lượng ổn định và chi phí thấp. Một Trung Quốc nghèo nàn về năng lượng đã siêng năng làm việc để có được nguồn cung hydrocarbon giá rẻ từ Nga (NYTimes, Foxnews, và News Yahoo), từ Trung Đông (từ Saudi Arabia, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống Nhất, và Iran) và Venezuela, và xây dựng các nhà máy điện đốt than đồng thời đánh lạc hướng với mục tiêu đạt được mức trung hòa carbon vào năm 2060.
Thống lĩnh chuỗi cung ứng

Tờ Investopedia định nghĩa chuỗi cung ứng như sau: “Một chuỗi cung ứng là một mạng lưới các cá nhân và công ty tham gia vào việc tạo ra sản phẩm và phân phối sản phẩm đó đến người tiêu dùng. Các liên kết trong chuỗi này bắt đầu từ người sản xuất nguyên liệu thô và kết thúc khi xe chuyển thành phẩm đến tay người dùng cuối cùng.”

Trong nhiều thập niên, Trung Quốc đã theo đuổi chiến lược nắm giữ các chuỗi cung ứng đầu-cuối vì mục đích lợi nhuận và áp lực địa chính trị. Do đó, Trung Quốc là nhà cung cấp chính các nguyên tố đất hiếm, dược phẩm và tiền chất của chúng, xe điện, pin lithium, tấm pin mặt trời, dụng cụ cầm tay, phụ tùng xe hơi, và nhiều sản phẩm khác mà người Mỹ và những người khác đã phụ thuộc vào đó trong những năm qua.

Một lĩnh vực quan trọng của lỗ hổng chiến lược là Trung Quốc là quốc gia duy nhất có chuỗi cung ứng nam châm vĩnh cửu được tích hợp đầy đủ (nam châm vĩnh cửu được sử dụng trong tủ lạnh, dụng cụ, phương tiện giao thông, v.v.). Một cuộc xâm lược qua eo biển của PLA vào Đài Loan sẽ phá vỡ một chuỗi cung ứng quan trọng khác, vì Hoa Kỳ phụ thuộc vào Đài Loan để sản xuất chất bán dẫn và vi mạch, được sử dụng trong máy điện toán và các sản phẩm công nghệ thông tin.

Theo Hiệp hội Henry Jackson, “Trung Quốc là nhà cung ứng chiến lược của Hoa Kỳ trong 424 mặt hàng. 114 trong số này được sử dụng trong cơ sở hạ tầng quan trọng của quốc gia.” Các nhà hoạch định chiến lược Hoa Kỳ và Quốc hội đang xem xét các cách để giảm thiểu những sự phụ thuộc này thông qua việc tách rời.
Tách rời

Tách rời là chiến lược giảm sự phụ thuộc vào công nghệ và năng lực của ngoại quốc. Trong trường hợp của Trung Quốc, điều này đề cập đến việc tìm kiếm các nguồn cung ứng khác cho các sản phẩm và công nghệ quan trọng hơn những sản phẩm và công nghệ được sản xuất tại Trung Quốc cộng sản. Việc tách rời làm giảm áp lực địa chính trị mà Trung Quốc có thể gây ra cho Hoa Kỳ trong các cuộc khủng hoảng quốc tế.


Công nhân kéo dây từ một con tàu chở hàng khi tàu chuẩn bị cập bến tại một cảng ở Thanh Đảo, tỉnh Sơn Đông, phía đông Trung Quốc, hôm 19/10/2018. (Ảnh: STR/AFP/Getty Images)

Điệp khúc tách rời ngày càng lớn hơn khi PLA gia tăng căng thẳng với Hoa Kỳ, Đài Loan, Philippines, và Nhật Bản. Việc áp đặt thuế quan, khuyến khích tài chính cho việc chuyển sản xuất trở lại Hoa Kỳ và các quốc gia khác, cùng các quy định cấm xuất cảng một số loại công nghệ tân tiến đang được Hoa Kỳ và các đồng minh tích cực xem xét như các phương pháp tách rời khỏi Trung Quốc.

Các nhà nghiên cứu tại Viện Baker đã lập luận vào tháng Mười Hai năm ngoái rằng, “Mỹ và các đồng minh của họ phải tách rời các ngành công nghiệp chiến lược khỏi REE [các nguyên tố đất hiếm] của Trung Quốc.” Sự kiểm soát chặt chẽ của Trung Quốc đối với REE mang lại cho nước này một lợi thế địa chính trị và đòn bẩy nguy hiểm đối với thế giới khi Bắc Kinh theo đuổi các chiến lược đối đầu với các quốc gia dọc biên giới, để cạnh tranh dầu mỏ và các nguyên liệu thô khác.

Theo Financial Times, các giám đốc điều hành của công ty xe hơi đang tham gia vào một “nỗ lực phối hợp nhằm cắt giảm sự phụ thuộc của họ vào mạng lưới rộng lớn các nhà sản xuất linh kiện của Trung Quốc.” Những lo ngại được bày tỏ liên quan đến mong muốn “thu mua và cung ứng ổn định” (một uyển ngữ ám chỉ những lo ngại liên quan đến sự gián đoạn vì “các lý do địa chính trị”).

Một số doanh nghiệp lớn đang bắt đầu giảm thiểu rủi ro chuỗi cung ứng của họ với Trung Quốc. Trang Bloomberg cho biết “các công ty đang tìm kiếm các chuỗi cung ứng linh hoạt hơn — có nhiều hàng tồn kho hơn hoặc có tính minh bạch hơn — cũng như đa dạng hóa các nguồn cung.” Đơn cử, theo Apple Insider, “Apple đang nỗ lực đẩy nhanh việc chuyển một phần chuỗi cung ứng ra khỏi Trung Quốc, với việc các đối tác trong chuỗi cung ứng được cảnh báo về việc dự trù tăng khâu lắp ráp ở Ấn Độ và Việt Nam.”

Một hình thức tách rời quan trọng khác liên quan đến tài chính và đầu tư. Reuters đưa tin hôm 14/08 rằng “các nhà đầu tư quỹ phòng hộ có trụ sở tại Hoa Kỳ trong đó có Coatue, D1 Capital, và Tiger Global đã cắt giảm thông thương với các công ty Trung Quốc trong quý hai.”
Đòn tâm lý

Người Trung Quốc cộng sản hiểu rằng họ phụ thuộc vào đầu tư ngoại quốc, tự do thương mại, và tiếp tục thống trị các chuỗi cung ứng quan trọng. Thặng dư thương mại từ nền kinh tế xuất cảng của họ thúc đẩy sự bình yên trong nước và sự mở rộng cũng như hiện đại hóa của PLA.

Kết quả là, các phương tiện truyền thông nhà nước Trung Quốc đang tập trung những chùm tia laser vào thứ khiến họ ngày càng sợ hãi 一 “tách rời”. Một số tiêu đề gồm: “Hoa Kỳ sẽ phải ‘trả giá đắt’ nếu tách rời Trung Quốc” (Nhân dân Nhật báo, hôm 02/08); “‘Tách rời’ sẽ bị lịch sử lãng quên” (Nhật báo Trung Quốc, hôm 28/06); và “Tách rời Trung Quốc không phải là đáp án” (Nhân dân Nhật báo, ngày 03/02).
Lời kết

ĐCSTQ sẽ luôn truyền đi thông điệp về những gì họ lo sợ nhất. Với một nền kinh tế đang chững lại mà nhiều nhà quan sát Trung Quốc báo cáo, Bắc Kinh hiểu rằng họ có nhu cầu đầu tư từ ngoại quốc (tiền, công nghệ, không có thuế quan) để kích thích tăng trưởng. ĐCSTQ rất lo ngại chiến lược tách rời, vốn có thể gây ra sức ép cuối cùng lên nền kinh tế đang mất đà của Trung Quốc nếu Hoa Kỳ và các quốc gia khác nghiêm túc tách rời khỏi Trung Quốc.Doanh Doanh biên dịch

Đảng Cộng sản Trung Quốc đã thâm nhập sâu rộng vào các thể chế có ảnh hưởng của Hoa Kỳ


Một tấm biển phản đối một nhà máy chế biến bắp ở Grand Forks, North Dakota, nằm gần mảnh đất 370 mẫu Anh (~150ha) mới được thành phố sáp nhập cho dự án. Nhiều người dân không muốn dự án này ở trong thành phố vì chủ sở hữu được cho là có mối liên hệ với Đảng Cộng sản Trung Quốc thông qua chủ tịch công ty này. (Ảnh: Allan Stein/The Epoch Times)
Chris Talgo

Thứ ba, 29/08/2023
Trong Chiến tranh Lạnh, chính phủ Hoa Kỳ, các doanh nghiệp lớn, và những người người dân bình thường của Mỹ quốc đã làm mọi cách có thể để ngăn chặn sự xâm nhập và hoạt động gián điệp của Liên Xô. Công bằng mà nói, đôi khi điều này dẫn đến những cáo buộc vô căn cứ — chẳng hạn như các phiên điều trần đối với ông McCarthy.

Tuy nhiên, phần lớn thì, loại cảm giác cảnh giác cao độ và ngờ vực về mối đe dọa của cộng sản Liên Xô là rất có cơ sở.

Ngày nay, Hoa Kỳ phải đối mặt với một mối đe dọa mới của cộng sản, được cho là nguy hiểm hơn nhiều so với mối đe dọa do Liên Xô hoặc các quốc gia vệ tinh của họ gây ra. Mối hiểm họa này mang tên Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), và dù tin hay không, thì kẻ thù mới và có năng lực đáng lo ngại hơn này đã cắm rễ sâu vào Hoa Kỳ.

ĐCSTQ đã thâm nhập sâu vào hệ thống giáo dục Hoa Kỳ, từ giáo dục đại học đến các lớp học K-12.

Kể từ năm 2004, ĐCSTQ đã tài trợ cho hơn 100 “Viện Khổng Tử” tại các trường đại học danh tiếng của Hoa Kỳ. Theo Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, các Viện Khổng Tử “đẩy mạnh việc đào tạo văn hóa Trung Hoa và Hoa ngữ lệch lạc cho sinh viên Hoa Kỳ như một phần trong nỗ lực tuyên truyền đa diện của Bắc Kinh.” Đó là lý do tại sao gần đây Bộ Ngoại giao đã dán nhãn các việc này là “một sứ mệnh ở ngoại quốc của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.”

Có lẽ thậm chí đáng lo ngại hơn nữa, ĐCSTQ còn vận hành “các Lớp học Khổng Tử” tại rất nhiều trường K-12 của Hoa Kỳ. Như Bộ Ngoại giao lưu ý, tính đến năm 2020, “có khoảng 500 Lớp học Khổng Tử được đặt ở các học khu K–12.”

ĐCSTQ cũng đã thâm nhập vào mạng xã hội, chủ yếu thông qua ứng dụng hết sức phổ biến TikTok. Cũng như tất cả các công ty ở Trung Quốc, ByteDance — chủ sở hữu của TikTok — phục tùng ĐCSTQ và phải tuân theo mệnh lệnh của đảng này. Năm 2020, Bộ Tư pháp tuyên bố TikTok là một “cơ quan ngôn luận” của ĐCSTQ và tiết lộ rằng Giám đốc điều hành của họ đã “cam kết thúc đẩy” nghị trình của ĐCSTQ.

Ngoài việc truyền bá đến giới trẻ của chúng ta trong các trường công lập và thu hút rất nhiều người dân Hoa Kỳ vào một ứng dụng cung cấp cho họ những video ngốc nghếch một cách không ngừng nghỉ (hoàn toàn khác với phiên bản Hoa ngữ của TikTok), ĐCSTQ cũng đã có được chỗ đứng ở Hoa Kỳ bằng cách sở hữu một lượng lớn đất nông nghiệp, một số trong đó nằm gần các cơ sở quân sự nhạy cảm.

Chẳng hạn, năm 2022, một công ty Trung Quốc đã mua 300 mẫu đất nông nghiệp nằm cách Căn cứ Không quân Grand Forks chỉ 20 phút, mà theo báo cáo của CNBC, căn cứ này là “nơi có một số công nghệ phi cơ không người lái quân sự nhạy cảm nhất đất nước” và đóng vai trò là “trục chính của tất cả thông tin liên lạc quân sự của Hoa Kỳ trên khắp toàn cầu,” theo một thượng nghị sĩ của tiểu bang. Theo một báo cáo năm 2021 của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (pdf), Trung Quốc sở hữu hơn 384,000 mẫu đất nông nghiệp của Hoa Kỳ. Hơn nữa, xu hướng này đang gia tăng ở mức đáng báo động.

Một mối đe dọa khác đang gia tăng ở mức đáng báo động là số lượng không kiểm soát nam thanh niên Trung Quốc vượt biên bất hợp pháp qua biên giới Hoa Kỳ-Mexico trong những năm gần đây. Như Dân biểu Mark Green (Cộng Hòa-Tennessee), Chủ tịch Ủy ban An ninh Nội địa Hạ viện gần đây đã tuyến bố, “rất có thể” ĐCSTQ đang cử vô số “quân nhân” vượt biên trái phép.

Trong khi đó, trong hơn hai thập niên, nhiều doanh nghiệp Hoa Kỳ đã “bán đứng” Hoa Kỳ để có thể kinh doanh tại Trung Quốc.

Giám đốc FBI Christopher Wray đã cảnh báo: “Mối đe dọa lâu dài lớn nhất đối với thông tin và sở hữu trí tuệ của quốc gia chúng ta, và sức mạnh kinh tế của chúng ta là mối đe dọa phản gián và gián điệp kinh tế từ Trung Quốc.”

Tệ nhất là có vẻ như nhiều khả năng ĐCSTQ đã gián tiếp làm ăn với ông Hunter Biden.

Kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, các quan chức cao cấp của chính phủ Hoa Kỳ, các nhà quản lý giáo dục, các CEO, và một nhóm “các chuyên gia” đã lập luận rằng Hoa Kỳ nên hợp tác với Trung Quốc, hy vọng rằng chủ nghĩa tư bản thị trường tự do và các giá trị của Mỹ quốc cuối cùng sẽ định hình một Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa theo hướng dân chủ và tự do hơn.

Rõ ràng, kế hoạch đó đã không hiệu quả. Trên thực tế, Trung Quốc trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết nhờ “những chuyên gia” lầm lạc, những CEO vô đạo đức, những nhà quản lý giáo dục khờ dại, và những chính trị gia ngây thơ.

Trong Chiến tranh Lạnh, việc hợp tác với Liên Xô ở mức độ như Hoa Kỳ hiện đang hợp tác với Trung Quốc là điều không thể hiểu được. Thời đó, thế giới tự do, trong đó có cả Hoa Kỳ, đã rất tinh tường khi nói đến nguy cơ bị cộng sản xâm nhập và thống trị.

Khi chúng ta dấn thân vào cuộc Chiến tranh Lạnh tiếp theo, thì chúng ta cần khôn ngoan rút ra những bài học từ quá khứ. Ngoài ra, chúng ta phải nhận ra rằng ĐCSTQ là mối đe dọa lớn nhất mà chúng ta phải đối mặt, và chúng ta buộc phải chặn đứng mọi nỗ lực xâm nhập của ĐCSTQ trước khi quá muộn.Doanh Doanh biên dịch


MHP

Không có nhận xét nào: