Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Hai, 22 tháng 2, 2016

Lá Thư Úc Châu - Trang Thơ Nhạc đầu Xuân - TS Nguyễn Nam Sơn

Cục Chính Huấn - VNCH: Thề không phản bội Quê hương
Youtube: Gs TranNangPhung
 
<!->

Phạm Duy - Hồng Hạnh: Ngày trở về

Tình thân,
NNS
...................................................................................................................
1. Chuyện Thời sự & Xã hội
(i) Economist: Sunnylands và Vùng nước đục
Hành động bắt nạt của Trung Quốc ở Biển Đông không được phép mang lại kết quả.
Trung Quốc đã đưa rất nhiều người ra khỏi nghèo khó và trở nên hùng mạnh thật nhanh là chuyện thần kỳ. Cũng không kém thần kỳ là cách thức Mỹ, một cường quốc đương thời, chủ yếu xem sự trỗi dậy của Trung Quốc như một cơ hội hơn là mối đe dọa. Tuy nhiên, ở Biển Đông, với khoảng 30% thương mại của thế giới đi ngang qua, Trung Quốc phiêu lưu gây nguy hiểm cho sự sắp xếp tốt đẹp này. Hành vi đó của họ không đếm xỉa đến luật pháp quốc tế, đe dọa các nước láng giềng và làm tăng nguy cơ xung đột với một số nước này và với chính nước Mỹ. Nhắc lại những khẩu hiệu của chính họ về sự ổn định và hòa bình, họ cần phải lùi bước.
Lần khiêu khích mới nhất là việc lắp đặt hai bệ phóng tên lửa đất đối không trên đảo Phú Lâm, trong quần đảo Hoàng Sa, phía nam đảo Hải Nam. Rõ ràng là Trung Quốc đã không phủ nhận sự leo thang quân sự nguy hiểm này, mà thay vào đó nói về quyền của họ đối với “các cơ sở tự vệ cần thiết và hạn chế”. Quần đảo Hoàng Sa cũng được Việt Nam và Đài Loan tuyên bố chủ quyền. Trung Quốc nhấn mạnh rằng, hầu như toàn thể vùng biển thuộc về họ, viện dẫn huyền thoại lịch sử.
Họ đã xây dựng một cách điên cuồng trong quần đảo Trường Sa, ở phía nam, tạo nên đất nhân tạo trên đá và san hô, cũng được Philippines, Đài Loan và Việt Nam tuyên bố chủ quyền. Việc xây dựng, giống như vụ tên lửa, coi thường tinh thần của bản tuyên bố mà Trung Quốc ký năm 2002 với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), trong đó các bên cam kết sẽ “thực hiện kiềm chế” trên biển. Trung Quốc cũng từ chối chấp nhận quyền tài phán của tòa án quốc tế tại Hague, đang xem xét vụ kiện về các tuyên bố chủ quyền của họ do Philippines đệ trình theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển. Nếu như, có vẻ có khả năng, vào cuối năm nay tòa án sẽ ra phán quyết có lợi cho Philippines trên một số điểm, Trung Quốc sẽ tảng lờ sự kiện. Đây không phải là “thành viên có trách nhiệm” của thế giới mà Mỹ hy vọng Trung Quốc trở thành.
Hai yếu tố có thể khiến Trung Quốc triển khai tên lửa. Tin tức về sự kiện ông Barack Obama chủ trì tại trang trại Sunnylands ở California một hội nghị thượng đỉnh chưa từng có, với các nhà lãnh đạo của mười nước thành viên ASEAN, bốn trong số  các nước này có tranh chấp về các thực thể đất trên biển với Trung Quốc. Hội nghị thượng đỉnh một phần được dự tính thể hiện tình đoàn kết của Mỹ với họ. Trung Quốc xem đây là một mưu kế giúp các nước láng giềng mạnh dạn đối phó với Trung Quốc, và vì thế, như là một phần trong chiến lược rộng lớn hơn của Mỹ để kiềm chế Trung Quốc.
Yếu tố thứ hai, vào cuối năm ngoái, Mỹ đã khởi động lại hoạt động “tự do hàng hải” trong vùng Biển Đông, với hai lần gửi tàu chiến đi qua vùng biển do Trung Quốc tuyên bố chủ quyền. Điều này dường như là một nỗ lực muộn màng để chứng tỏ rằng, bất cứ ai sở hữu các cụm đất, đá trong vùng biển, hầu hết vùng nước này, theo luật pháp quốc tế, không thuộc về bất cứ quốc gia nào và mở rộng cho lưu thông hàng hải các loại. Đáng tiếc là Mỹ đã nhập nhằng tín hiệu này, bằng cách xác nhận rằng cả hai hoạt động được tiến hành như sự “đi qua vô hại”, tức là, theo quy định của Luật Biển cho phép, ngay cả tàu chiến đi ngang qua không đe dọa vùng lãnh hải của nước khác. Trung Quốc dường như xem những hoạt động đó đủ tính khiêu khích để cố gắng ngăn chặn Mỹ tiếp tục thực hiện các hành động kế tiếp; hoặc có lẽ chúng cung cấp một cái cớ hữu ích.
Mùa tranh cử
Trung Quốc có thể tính toán rằng bây giờ là thời điểm vào những tháng cuối cùng của một nhiệm kỳ tổng thống Mỹ mà họ cho là yếu và không thích đối đầu, để tạo ra sự đã rồi trong vùng biển, mà điều này sẽ cho họ sự lấn chiếm không thể đảo ngược trên biển. Vì vậy, thay vì nhường bước trước sự đe dọa của Trung Quốc, Mỹ nên tiếp tục khẳng định quyền tự do hàng hải và hàng không, và làm như thế sẽ rõ ràng hơn. Các nước bạn bè của Mỹ trong khu vực có thói quen sợ làm mất lòng Trung Quốc, cũng nên để cho Mỹ sự hỗ trợ hết lòng hơn. Chắc chắn họ không muốn nhìn thấy Biển Đông, với các tuyến đường vận tải quan trọng, trở thành cái hồ của Trung Quốc. (Trần Văn Minh dịch)

*** VOA: Tin Trung Quốc triển khai hỏa tiễn gây tranh luận gay gắt
Các thông tin tiết lộ việc Trung Quốc triển khai các hỏa tiễn địa đối không trên một hòn đảo có tranh chấp ở Biển Đông đã khơi ra một cuộc tranh luận gay gắt về những hậu quả dài hạn đối với an ninh khu vực. 
Hôm nay, Australia và New Zealand đã góp tiếng vào điệp khúc ngày càng nhiều giọng nói lên quan ngại về căng thẳng gia tăng ở Biển Đông, trong khi Bắc Kinh và Washington cáo buộc lẫn nhau là người khởi xướng.
Cảnh báo cho Chủ tịch họ Tập
Phát biểu tại một cuộc họp báo với người đồng cấp New Zealand, Thủ tướng Australia Malcolm Turnbull nêu ra rằng Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã tuyên bố một trong những thách thức lớn nhất của Trung Quốc là bị rơi vào cái gọi là Bẫy Thucydides (bẫy chiến tranh tất yếu), trong đó một cường quốc đang trỗi dậy lại gây lo ngại cho các cường quốc khác, dẫn đến xung đột.
Thủ tướng Úc nói: “Nếu Trung Quốc muốn tránh bị sập Bẫy Thucydides, như Tập Chủ tịch mô tả, thì cần phải giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông thông qua luật pháp quốc tế, thông qua mọi cơ chế hiện có dành cho chúng ta”.
Thủ tướng New Zealand John Key và ông Turnbull nói điều quan trọng đối với các bên tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông là kiềm chế việc xây đảo cũng như quân sự hóa chúng. “Bất cứ hoạt động gây náo động nào ở đó cũng rất tệ hại cho các vấn đề an ninh và kinh tế trong khu vực. Do đó theo tôi chúng ta phải tiếp tục thuyết phục các bên phải là họ phải tìm cách giải quyết tranh chấp một cách thân thiện và đúng luật”.
Các nhận định của các ông Key và Turnbull đã châm ngòi cho một phản ứng gay gắt từ phía Trung Quốc. Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Hồng Lỗi hôm thứ Sáu nói với các phóng viên ở Bắc Kinh rằng: “Australia và New Zealand không phải là các nước liên quan đến vấn đề Biển Đông, và chúng tôi hy vọng hai nước này có thể nhìn vào lịch sử một cách khách quan”.
Trung Quốc đòi chủ quyền gần như toàn bộ Biển Đông, và tuy nước này không phải là bên đầu tiên xây đảo nhân tạo hay xây đường băng ở vùng biển có tranh chấp, song tốc độ và quy mô của việc lấn biển của Trung Quốc đã gây lo ngại cho nhiều nước trong khu vực, mặc dầu Bắc Kinh nhiều lần bảo đảm rằng họ sẽ không quân sự hóa vùng biển đó.Theo Ngũ Giác Đài, Trung Quốc đã bồi đắp hơn 1.173 hecta đất ở Biển Đông kể từ năm 2013.
Trò đổ tội lẫn nhau
Những tiết lộ liên quan đến việc Trung Quốc triển khai hỏa tiễn được đưa ra hồi đầu tuần này, đúng lúc Tổng thống Obama sắp kết thúc hội nghị thượng đỉnh lịch sử với 10 lãnh đạo Hiệp hội Các Quốc gia Đông Nam Á ở Sunnylands, California.
Hôm thứ Năm, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ John Kirby nói việc lắp đặt hỏa tiễn “mới đây” trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa đã đi ngược lại cam kết của Trung Quốc không quân sự hóa Biển Đông.
Tại một cuộc họp báo định kỳ, ông Kirby nói: “Phía Trung Quốc đã nói một đằng rồi dường như làm một nẻo. Chúng tôi không thấy có dấu hiệu gì là nỗ lực quân sự hóa này đã dừng lại. Và việc đó không có các dụng gì để tình hình ở đó ổn định và an ninh hơn. Trên thực tế, nó đang có tác dụng ngược lại”.
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi nói Washington là phía có lỗi. “(Mỹ) đã đưa khu trục hạm mang hỏa tiễn điều hướng và oanh tạc cơ chiến lược đến gần thậm chí vào sâu vùng biển và vùng trời của các đảo và bãi san hô của các đảo thuộc Nam Sa (Trường Sa) của Trung Quốc, và liên tục gây sức ép lên các nước đồng minh và đối tác thực hiện diễn tập”. Ông Hồng Lỗi nói thêm những hành động như vậy không chỉ gia tăng căng thẳng ở Biển Đông mà còn quân sự hóa vùng biển tranh chấp.
Thông điệp chính trị
Cuối ngày thứ Năm, công ty cố vấn và tình báo toàn cầu Stratfor công bố bản phân tích mới về vụ triển khai hỏa tiễn, bao gồm cả những hình ảnh vệ tinh chi tiết hơn về các hoạt động quân sự trên đảo Phú Lâm.
Tuy nhiên, Stratfor lập luận rằng vụ triển khai “không nhất thiết phản ánh một sự leo thang lớn”.
Bản phúc trình này, được soạn với sự hợp tác của hãng AllSource Analysis, không chỉ tái xác nhận vụ triển khai hỏa tiễn địa đối không, mà còn cung cấp chi tiết về các nhà chứa chiến đâu cơ phản lực trên đảo và các tòa nhà có thể là kho vũ khí. Trong phúc trình, Stratfor nêu ra rằng tuy hai khẩu đội hỏa tiễn địa đối không HQ-9 “mang lại năng lực quân sự đáng chú ý… song chúng được xếp quá gần nhau trên nền cát gần mép biển theo cách thức cho thấy chúng hoặc nằm trong khuôn khổ một hoạt động huấn luyện hoặc là một hình thức lộ liễu phô diễn sức mạnh”.
Stratfor nói thêm rằng nền cát mới được đắp, với các hình ảnh chụp hồi tháng 12 cho thấy hoạt động bơm hút cát. “Vị trí của (việc triển khai) không có tính lâu dài: nền cát đã tan rã ở một số chỗ”, công ty nói. “Việc triển khai rất dễ thấy làm tăng khả năng là việc này có chủ ý gửi đi một thông điệp chính trị”.

(ii) Song Chi: Vài suy nghĩ nhân đọc 2 bài báo trên báo nhà nước VN
Bài báo thứ nhất “Đánh bom khách sạn Caravelle ghi dấu lịch sử” đăng ngày 15.2 trên báo Tuổi Trẻ. Đọc xong tự hỏi: Không hiểu sao đến giờ này mà họ còn tự hào về những chuyện như thế này?
Đánh bom một khách sạn ngay giữa trung tâm thành phố, mặc dù viện cớ là “nơi quan chức Mỹ và Việt Nam cộng hòa thường lui tới hội họp” nhưng cũng có rất nhiều nhà báo nước ngoài, dân thường…rõ ràng là coi thường sinh mạng con người, mà mục đích chỉ là “để đối phương không đắc chí”, nhưng thật ra là đánh ai?. “Có điều việc nổ bom hôm đó đã không như dự kiến bởi hầu hết các nhà báo ở khách sạn Caravelle thay vì đi ăn trưa và sẽ lãnh trọn sức nổ của trái bom, thì họ lại bận rộn theo dõi và tường thuật vụ sinh viên đòi Nguyễn Khánh phải từ chức!” Đánh bom cả những nhà báo quốc tế, những người chỉ làm công việc của họ là đưa tin về những gì đang diễn ra? Như vậy mục đích thật sự là lấy tiếng, đồng thời gây tâm lý hoang mang xáo trộn trong người dân và phá hoại cuộc sống bình thường ở các đô thị miền Nam, bất chấp sinh mạng những người vô tội, không liên can.
Ai sống ở miền Nam thời hai miền Nam Bắc đánh nhau hẳn còn nhớ, những vụ đánh bom, ám sát…thường xuyên xảy ra tại Sài Gòn và các đô thị miền Nam, tại những nơi đông người như khách sạn, rạp hát, nhà hàng… Điển hình là vụ đánh bom Câu lạc bộ Gôn Sài Gòn năm 1960, vụ rạp hát Kinh Đô bị đánh bom năm 1964, khách sạn Caravelle bị đặt bom năm 1964, nhà hàng nổi Mỹ Cảnh trên sông Sài Gòn bị đặt bom năm 1965, vụ trường tiểu học Cai Lậy (Tiền Giang) bị trúng đạn pháo kích năm 1973…
Một số vụ ám sát như Nguyễn Văn Trỗi đặt bom trên cầu Công Lý, dự định ám sát Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ McNamara năm 1963, ám sát ký giả Từ Chung của tờ Chính Luận năm 1965, ám sát Nguyễn Xuân Chữ, Bộ trưởng Bộ Chiến tranh tâm lý năm 1966, ám sát Trần Văn Văn, Chủ tịch Quốc hội Sài Gòn năm 1966, ám sát giáo sư Nguyễn Văn Bông là Viện trưởng Học viện Quốc gia Hành chánh năm 1971... Ở nông thôn thì đặt mìn, giật sập cầu, phá đường…biết bao nhiêu dân thường phải chết oan. Những việc làm này có khác gì với những hành động khủng bố của các tổ chức Hồi giáo cực đoan bây giờ? Đừng viện lý do thời chiến tranh. Chiến tranh, hai bên nã súng, ném bom vào nhau ngoài chiến trường là chuyện khác, còn đặt bom, gài mìn, pháo kích vào những chỗ đông người giết hại cả dân thường là khủng bố. Nhưng nếu người miền Nam nói thì người dân miền Bắc hoặc các thế hệ sinh sau đẻ muộn lại không tin, chỉ khi báo chí chính thức hả hê kể lại chiến công như thế này “Những trận đánh nổi danh 'Biệt động Sài Gòn' (báo CAND), “Tôi ám sát người sắp làm thủ tướng Sài Gòn” (Dân Việt) hay bây giờ là bài này, “Đánh bom khách sạn Caravelle ghi dấu lịch sử” (Tuổi Trẻ) v.v… thì khỏi còn tranh cãi chuyện có thật hay không nữa!
Bài báo thứ hai “Có một hòa thượng… biệt động Sài Gòn” được báo Tiền Phong đăng lại ngày 19.2 theo nguồn báo An Ninh Thế Giới. Thật ra những loại bài viết ca tụng chiến công “cách mạng”, ca tụng những con người “cách mạng” này lúc nào cũng đầy dẫy trên những tờ báo đậm đặc tính đảng như báo Nhân Dân, Quân đội Nhân dân, Công an Nhân dân, Công An TP.HCM, An Ninh Thế Giới…Không sao kể xiết. Chỉ là nhân tiện đọc và có những suy nghĩ về hai bài báo này mà thôi.
Bài “Có một hòa thượng… biệt động Sài Gòn” viết về nhân vật Hòa thượng Thích Viên Hảo, từng là trụ trì tại chùa Tam Bảo ở đường Dương Công Trường, quận 10, SG, rồi trụ trì Chùa Thiện Hạnh, nằm trong con hẻm nhỏ trên đường Đinh Tiên Hoàng, quận 1, SG cho đến ngày viên tịch 15.7.2005. Theo bài báo, Hòa thượng Thích Viên Hảo là người tu hành, nhưng lại tham gia “cách mạng”, tham gia biệt động thành, một tổ chức của Việt Cộng trước đây chuyên hoạt động ngầm trong lòng chế độ VNCH từ dò la, do thám tin tức tình báo cho tới đặt bom, gài mìn, ám sát…các nhân vật có liên quan đến Mỹ và chính quyền VNCH nhưng thường cũng gây ra cái chết cho bao nhiêu dân thường vô tội như vừa nói trên. Nhân vật trong bài báo “đi đó đây hành phật sự, gặp các phật tử, đến các chùa… tụng kinh, niệm Phật và thuyết pháp nhưng đó chỉ là vỏ bọc bên ngoài. Thực chất ông đã trở thành chiến sĩ hoạt động cách mạng, có nhiệm vụ dò la địch tình, giao nhận tin tức tình báo…”, còn ngôi chùa Tam Bảo thì “đã trở thành nơi đi về, hội họp bí mật của đội biệt động thành trong một thời gian dài.”.Trong vụ Mậu Thân 1968, vị sư này ”vận chuyển vũ khí, đạn dược về cho cơ sở nội thành tập kết chuẩn bị cho cuộc tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân. Rất nhiều lần, nhà sư dùng xe gắn máy đi Củ Chi chở chất nổ, súng K54, súng và đạn cối 81 ly”…Đã đi tu, thấm nhuần tư tưởng triết lý của Phật giáo, thế nhưng Hòa thượng Thích Viên Hảo đã phạm luôn những giới luật hết sức nghiêm trọng của đạo Phật. Một là gian dối, khi dùng vỏ bọc tu hành để đi hoạt động tình báo, biến những hoạt động giảng giải Phật pháp thành chuyện khác, biến ngôi chùa thành nơi trú ẩn của biệt động thành…Hai là sát sanh, nhà sư tất thừa biết đạo Phật ngăn cấm sát sanh dù chỉ là một con kiến con muỗi, thế nhưng lại chở vũ khí, lên sơ đồ các trận đánh để giết người, cho dù lúc đó ông ta tin rằng đó là kẻ thù, là địch. Không chỉ thế, cả đời nhà sư hoạt động chính trị, được “thưởng nhiều huân chương cao quý của đảng cộng sản” cho đến tận ngày qua đời.
Bài báo này, cũng như bài báo trên Tuổi Trẻ nói trên và rất nhiều bài báo khác nữa, đã tự mình tố cáo những việc làm của đảng cộng sản VN trước đây, đó là đánh phá chế độ VNCH từ trong lòng phá ra, và không từ bất cứ một biện pháp nào từ đặt bom, gài mìn, ám sát, chuẩn bị cho vụ tấn công Tết Mậu Thân 1968, với âm mưu sẽ tổ chức tấn công bất ngờ vào dịp Tết là dịp mà trong nhiều năm hai bên đã có thỏa thuận không chính thức ngừng bắn 3 ngày Tết để đồng bào vui Xuân. Bài báo vẫn tiếp tục ca ngợi những “chiến công” trong cuộc chiến với Mỹ và với miền Nam VN, vẫn gọi địch, chúng…với giọng điệu căm thù.
Trong suốt thời gian chiến tranh và hơn 40 năm qua, năm nào đảng và nhà nước cộng sản VN cũng tổ chức kỷ niệm, ăn mừng tưng bừng, trọng thể những dịp có liên quan đến cuộc chiến, nhất là ngày 30.4. Báo chí truyền thông vẫn được huy động thường xuyên để nhắc nhớ đến chiến thắng của đảng, đến tội ác của “địch”, những cuốn sách, bộ phim về đề tài này vẫn tiếp tục ra đời…như muốn người dân đừng quên.
Một tỷ lệ khác biệt rất lớn cả về quy mô, số lượng và chất lượng tuyên truyền nếu so với việc nhắc nhở đến cuộc chiến tranh biên giới 1979, 1984, hải chiến Hoàng Sa 1974, Trường Sa 1988… với Trung Cộng. Trong khi trên thực tế chế độ VNCH đã “chết” từ lâu không còn là một mối đe đọa nữa, quan hệ Việt-Mỹ đã trở thành bình thường từ nhiều năm qua, thậm chí nhà nước VN còn đang phải trông cậy ở Mỹ rất nhiều để đối phó với mối nguy bị xâm phạm chủ quyền, độc lập toàn vẹn lãnh thổ lãnh hải từ phía Trung Cộng. Ngược lại, Trung Cộng trước đây và hiện nay vẫn luôn và đang là mối đe dọa lớn nhất, kẻ thù thường trực và thâm độc nhất của VN.
Nếu VN lại phải có một cuộc chiến tranh nào xảy ra trong tương lai thì chắc chắn sẽ là cuộc chiến tranh với Trung Quốc chứ không phải với Mỹ, càng không phải với VNCH đã chết. Vậy nhưng nhà nước cộng sản VN lại sử dụng rất ít công sức, nguồn lực cho sự tuyên truyền về những hành động của Trung Quốc trong quá khứ vả hiện tại. Cuộc chiến tranh biên giới 1979 trong rất nhiều năm không hề được nhắc tới một cách công khai, năm nay tuy báo chí đã nhắc tới nhưng vẫn không phải là nhiều, những hành động biểu tình tưởng niệm cuộc chiến này, tưởng niệm việc mất Hoàng Sa Trường Sa hay phản đối những hành độn hung hăng, xâm phạm chủ quyền, quân sự hóa biển Đông của Trung Quốc của người dân đều bị ngăn cấm, đàn áp, nhiều người còn bị bỏ tù, bị trù dập, xách nhiễu…Liệu có thể xem đó là những hành động khôn ngoan về mặt ngoại giao, bảo vệ chủ quyền của đảng và nhà nước cộng sản VN?
Và đối với mấy triệu người Việt rời nước ra đi vì lý do không chấp nhận chế độ cộng sản, liệu họ có tin tưởng nổi vào những lời nói ngon nói ngọt “xóa bỏ hận thù, hòa hợp hòa giải” của nhà cầm quyền khi báo chí nhà nước vẫn cứ ngùn ngụt căm thù chế độ VNCH như thế?
Còn đối với người dân trong nước, thời buổi bây giờ không phải như trước đây vài chục năm, mười năm, khi người dân hầu hết còn bị bịt mặt bịt tai tin vào những luận điệu tuyên truyền một chiều, bóp méo sự thật của đảng và nhà nước cộng sản. Khi báo chí nhà nước hồ hởi kể lại những hành động khủng bố thời xưa, hay tự thừa nhận những huyền thoại một thời từ Lê Văn Tám, Nguyễn Văn Bé, Nguyễn Văn Trỗi…là không có thật hoặc có những chi tiết không đúng, hoặc được tô vẽ quá nhiều… thì chính là nhà nước này đã tự vả vào mặt mình, củng cố những điều mà người dân đã không còn tin từ lâu. Trên bình diện quốc tế, chẳng có một quốc gia văn minh nào chấp nhận một nhà nước từng giành chiến thắng bằng mọi giá, mọi thủ đoạn, bất chấp sinh mạng con người cũng như áp dụng chính sách ngu dân, dối trá để giành và giữ quyền lực cả.
Cuối cùng, có lẽ đã đến lúc nhà nước này nên giành công sức tố cáo Trung Cộng-kẻ thù hiện tại và tương lai thay vì cứ say sưa hoài với quá khứ vàng… mã của đảng.
(iii) Mặc Lâm (RFA): Tiếng khóc của người văn công 37 năm sau
Ngày 17 tháng Hai mỗi năm gần đây Hà Nội, Sài Gòn đều tổ chức lễ tưởng niệm thắp nhang cho liệt sĩ đã hy sinh trong trận chiến chống Trung Quốc xâm lược ở các tỉnh phía bắc.
Trong khi tại Hà Nội buổi tưởng niệm diễn ra suôn sẻ mặc dù cơ quan an ninh cho người ra tượng đài Lý Thái Tổ để quan sát nhưng không có bất cứ cuộc phá hoại nào như từng xảy ra trước đây. Ngược lại tại Sài Gòn, từ mờ sáng công an canh giữ tại nhà một số lớn người, không cho họ ra khỏi nhà tham dự buổi thắp hương tưởng niệm liệt sĩ dưới chân tượng Trần Hưng Đạo tại bến Bạch Đằng. Tuy nhiên người dân vẫn tập trung gần trăm người để làm lễ. Ngay lập tức một nhóm an ninh đội lốt côn đồ, có cả những đoàn viên thanh niên cộng sản rất trẻ nhảy vào cướp phá, giật vòng hoa, chà đạp lên và khiêu khích người dân với những từ ngữ khó nghe nhất.
Trong buổi lễ này có mặt một phụ nữ đặc biệt có nghệ danh là Ánh Hồng, bà là một nữ văn công múa trong đoàn Hải Phòng có mặt và chứng kiến sự hy sinh vô cùng cảm động của bộ đội khi chống lại các đợt tấn công của kẻ thù vào tháng Hai năm 1979. Qua lời kể của bà chúng ta hy vọng sẽ thức tỉnh những người còn mê muội đưa ra những quyết định phản bội lịch sử và nhất là phản bội lại máu xương của gần 60 ngàn đồng bào liệt sĩ đã ngã xuống vì gìn giữ bờ cõi cho họ có chỗ đứng ngày nay trong chính quyền.
"Quân Trung Quốc nó ác lắm"
Nghệ sĩ Ánh Hồng kể lại buổi sáng bà có mặt tại tượng đài Trần Hưng Đạo cùng với nhiều người khác:
Nghệ sĩ Ánh Hồng: “Lúc ấy nói thật với anh là tôi bỡ ngỡ, tôi khóc. Tôi đứng lặng yên, tôi khóc. Tôi nghĩ tới cảnh tượng trước đây bao nhiêu chiến sĩ ngã xuống lúc ấy họ còn trẻ như mấy cô cậu này đây, cũng trẻ như các cô bây giờ chỉ 17 – 18, 20 trẻ lắm… thế mà chết cho tới ngày hôm nay khi thấp hương cho họ thì những người trẻ như thế này lại đi dập nát vòng hoa thì tôi chỉ biết đứng khóc anh ạ, tôi không cầm được nước mắt nữa tôi nghĩ tôi căm thù bọn nó quá.
Khi nhìn cảnh tượng như vậy tôi có nói với họ không nên làm như thế nữa bởi vì mọi người không biết đâu lúc ấy quân Trung Quốc nó ác lắm. Nó giết, nó hãm hiếp đồng bào mình, nó giết bao nhiêu chiến sĩ của mình, khổ lắm đừng làm như thế nữa. Nhưng tôi càng nói thì những con người này cứ lao vào giật vòng hoa, lao vào…cuối cùng tôi sợ ngã nên phải chạy ra đứng bên ngoài tôi không dám đứng ở đấy nữa.
Sau đó tôi về Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng tôi ngồi nói chuyện với các anh ấy tôi mới khóc. Tôi khóc khi nghĩ tới cảnh tượng hôm qua tôi không cầm được nước mắt nữa. Tôi nghĩ bao nhiêu chiến sĩ đã chết mà ngày hôm nay người ta để cho thế hệ trẻ này làm như vậy thì không hiểu thế nào nữa.”
Mặc Lâm: Tình cờ được biết bà từng ra chiến trường biên giới vào thời gian xảy ra cuộc chiến xin bà cho biết lúc ấy diễn tiến cuộc chiến như thế nào ạ?
Nghệ sĩ Ánh Hồng: “Tôi ở trong đoàn văn công anh ạ, thuộc đoàn ca múa Hải Phòng tôi là diễn viên múa. Lúc bấy giờ tôi còn trẻ mà. Đoàn văn công này hay đi phục vụ chiến đấu các đơn vị trong quân đội như trọng pháo hay bộ đội ở đâu có chiến tranh hay có cái gì đó thì đoàn văn công được gửi tới phục vụ. Mang tinh thần lời ca tiếng hát điệu múa làm vũ khí cổ vũ bộ đội ta đánh giặc.
Lúc đó vào tháng hai năm 79, tôi nhớ chắc chắn là năm 79 lúc ấy anh Hà Đức Hậu làm trưởng đoàn, anh nhận được lệnh đòan phải đi biểu diễn ngoài biên giới lúc ấy là Tiên Yên, Hà Cối, Quảng Ninh để phục vụ các chiến sĩ.
Đêm hôm ấy đoàn biểu diễn rất là đông bộ đội xem. Gần một tiếng sau đang khi trình diễn thì đột nhiên bộ đội cứ rút dần, rút dần đi… mình mới hỏi sao lại vằng chỉ còn vài chục người thế này thì các anh mới nói là họ phải đi bổ xung cho các chốt vì giặc nó tràn lên đông quá, nó giết nhiều quá bây giờ phải đi tải thương binh với liệt sĩ về cho nên tư tưởng như thế không thể ngồi xem được. Đến khi biểu diễn xong chúng tôi về mình mới thấy có câu thương binh rên rỉ, cậu ấy kêu “mẹ ơi, mẹ ơi” trong đêm hôm thanh vắng nghe tiếng kêu như thế. Tới sáng mai hỏi lại thì cậu ấy đã chết đêm qua rồi vì máu ra nhiều quá không kịp chuyển về tuyến sau nữa.
Hôm sau chúng tôi lại vào biểu diển ngay cho các thương binh ở trong trại. Họ chuyển về chỗ không phải là cái trại đâu mà nó là một khu nhà của Pháp ngày xưa người ta xây kiểu như doanh trại của Pháp hồi xưa, bị bỏ hoang lâu rồi. Cửa cung không có bây giờ mình che chắn để cho thương binh nằm thôi.
Lúc mình đi vào từng gường của thương binh tôi nói thật với anh là không thể cầm được nước mắt, tôi thương mà không dám nhìn chạy ra ngoài không dám nhìn. Lúc ấy thì không múa nữa chỉ hát với đàn thôi. Thương binh cụt chân cụt tay nằm la liệt mà không có thuốc men gì vì lúc ấy khó khăn lắm. Lúc đến bữa ăn mình chạy ra ngoài thì nhìn thấy một anh bộ đội trẻ lắm khoảng 19 -20 bị đạn nó vạt hết cả cái mông máu chảy ra nhiều mà cậu thương binh cứ cầm miếng vải kéo ra cho khỏi dính vào vết thương mà trên tay cậu ấy bê một bát cơm có mấy miếng đậu, một tí rau muống luộc và canh lỏng bỏng…tôi nhìn thấy mới hỏi, trời ơi ăn uống thế này thì làm sao chịu nỗi? lúc ấy người ta mới nói hoàn cảnh như thế này thì làm sao khác được. Biểu diễn xong thì đoàn văn công rút về vì cuộc chiến ngày càng ác liệt quá.”
Mặc Lâm: Chứng kiến sự việc như vậy rồi hôm nay lại trực tiếp thấy những kẻ hậu thế lại đập phá vòng hoa tưởng niệm, sỉ nhục người tới thắp hương và có những hành vi khác nữa, bà cảm thấy như thế nào?
Nghệ sĩ Ánh Hồng: “Không biết như thế nào nhưng tôi cứ nghĩ bộ đội mình chết nhiều quá, chết thảm quá, chết đau khổ quá… đã chết trận rồi mà về vật chất thuốc men lại càng khổ nữa thế mà bây giờ trong cái ngày thuộc về kỷ niệm mấy năm gần đây tôi biết là có làm lễ kỷ niệm thì tôi có tham gia thắp hương bởi vì nhìn cái cảnh người ta chết nên thắp hương cho người ta. Nhưng mình thấy những bọn trẻ thanh niên bây giờ nó ra nó tàn phá, nó đánh đập người ta, nó dằn xé tôi không thể tưởng tượng được tại sao như thế. Nòi thật với anh đã có lúc tôi nghĩ tôi có súng tôi bắn chết mẹ chúng mày! Nói thật với anh như thế. Tôi thấy chúng nó kinh khủng như một loại gì chứ không còn con người nữa mà nó hành động như thế?
Tôi nói anh nghe cái lúc mà ra chiến trận những lớp trẻ ra trận người ta vui lắm anh ạ. Người ta đi trên những đoàn xe ở dưới cứ vẫy tay: “Ở đâu đấy? Ở đâu đấy…”người bảo ở Nam Định, người bảo ở Thái Bình. Người ta vỗ tay “chào nha, đi chiến đấu nhé”… mọi người rất là vui vẻ tuy biết đi là chết mà mọi người vẫn vui vẻ khi ra chiến trường. Tại sao lúc ấy khí thế chiển đấu của người ta lại cao như thế hả anh? Tôi cũng nghĩ mãi những khuôn mặt rất trẻ ngồi trên ô tô để ra mặt trận như thế. Cho tới lúc mình chứng kiến đang biểu diễn mà bộ đội phải rút dần đi ra các chốt và hy sinh không về nữa, thế rồi chứng kiến cảnh thương binh máu me tay chân bị mất, chứng kiến bữa cơm của bộ đội người ta ăn sao mà đau lòng thế.
Đến hôm vừa rồi trong buổi lễ tưởng niệm lại bị chúng ra dập nát vòng hoa, tôi không thể tưởng tượng được tại làm sao lại như thế. Xã hội, chế độ này giáo dục cái loại người không còn ra người ra ngợm nữa. Tôi không bao giờ quên những kỷ niệm của thời chiến tranh đấy, chính mắt mình thấy chính mình tham gia phục vụ chiến trường đấy, tôi chỉ biết ngồi khóc không biết nói thế nào hơn vì thật sự mình quá xúc động. Mình thấy như thế và rất căm thù, tự nhiên nó nhói tim của mình vì nó đau cho những người bị chết quá. Họ hy sinh hôm trước mà hôm nay nó như thế này tự nhiên mình nhói trong tim quá.”
Hy vọng lời kể của người trực tiếp chứng kiến nỗi đau của các anh bộ đội trẻ trung năm xưa có thể lay động tới lớp người trẻ hôm nay vì họ không hề được biết có cuộc chiến tàn khốc như vậy trong sách giáo khoa. Họ cũng không biết rằng bia căm thù giặc Trung Quốc xâm lược tại cầu Khánh Khê Lạng Sơn đã bị đục bỏ hai chữ Trung Quốc, và họ cũng không biết nốt ngày 17 tháng Hai hằng năm là ngày gì.
Không ai nghĩ là những người phá hoại cuộc tưởng niệm tại Sài Gòn sẽ hồi tâm chuyển ý vì trước khi cầm vòng hoa đạp nát dưới chân, họ đã được định hướng rằng tới tượng đài ngày hôm ấy là những kẻ phản động, kể cả những người như nữ nghệ sĩ Ánh Hồng.

*** Mai Tú Ân: Bài học mà những người Cộng sản dạy cho nhau
Sau khi thống nhất đất nước 1975, Ban lãnh đạo chính quyền Việt Nam như đang bồng bềnh trên mây. Được sự khuyến khích hào phóng của các bậc đàn anh, mặc dù dân chúng đang đói khát triền miên sau khi đã thắt lưng buộc bụng dồn hết nhân tài vật lực cho cuộc nội chiến, nhưng vũ khí trang thiết bị chiến tranh thì lại thừa thãi và hiện đại vô cùng.
Cùng với suy nghĩ rằng, hành động bạo lực xâm lược các quốc gia yếu đuối để mở rộng khối Cộng sản như Liên Xô đang làm với Afghanistan, thì việc trước mắt là Việt Nam cần phải tạo ra thành tích ấn tượng với ông “anh cả” xứ Bạch Dương. Và thế là việc ông láng giềng Campuchia dân chủ đang gây rối nơi biên giới lại là một món quà đến đúng lúc với những nhà chính trị cùng các vị tướng hung hăng ở Bộ Tổng tham mưu. Thời của nước Campuchia dân chủ Cộng sản cùng số phận của Polpot cũng đã điểm khi cả bọn đã dại dột “mó dái ngựa”. Lúc này có là Cộng sản hay không Cộng sản thì cũng chẳng có giá trị gì, và thậm chí chính vì là các quốc gia Cộng sản với nhau mà họ mới đánh nhau tàn bạo như những phường thảo khấu lục lâm vậy. Nếu thực sự là những quốc gia dân chủ thì hẳn sẽ không có những đòn tận diệt, không có sự tàn sát, ghê gớm như thế.
Cuộc xung đột 17/2/1979, cũng như mười năm sau đó có thể đã không xảy ra, và hàng vạn nam thanh nữ tú của chúng ta có thể đã không phải bỏ mạng oan uổng trên chiến trường, nếu như chúng ta có được những người lãnh đạo xứng tầm. Ít nhất là những chính trị gia không như TBT Lê Duẩn với quan điểm sắt máu: “Chúng ta chiến đấu cho Liên Xô….” (?!). Nhưng chúng ta đã không có những nhà lãnh đạo có viễn kiến, yêu nước thương dân, mà chỉ là những ông tướng mặt sắt đen sì, coi chiến tranh như hoạn lộ để thăng quan tiến chức. Và thế là chiến cuộc đã xảy ra…
Cùng với với thời gian và nhiều nguồn tư liệu được giải mật, sự thật vốn luôn được Đảng giấu kín dần dần sáng tỏ. Ở thượng tầng kiến trúc thì toàn những âm mưu đen tối bẩn thỉu, những kế sách hành binh lạnh lùng trước bao mạng người. Còn nơi chiến trường ác liệt thì mọi biện pháp giết chóc khủng khiếp nhất đều được tung ra với những người vốn là đồng chí, là anh em trên tinh thần vô sản. Giết chóc, hãm hiếp, chôn sống, dùng mìn hủy diệt cả dân thường, không biện pháp nào, dù tàn bạo tới đâu mà các chiến binh cuồng tín của cả hai bên không làm. Và thật khủng khiếp khi đó mới chỉ là sự dạy và học giữa các quốc gia Cộng Sản với nhau.
Trở lại với cuộc chiến ở biên giới phía Bắc, nhìn qua bản đồ diễn tiến những tháng đầu năm 1979 ta thấy rõ ràng đây không phải là một cuộc chiến tranh với mục đích là xâm chiếm đất đai, lãnh thổ. Với lực lượng quân sự hoàn toàn áp đảo cùng với sự cung ứng đầy đủ của phần đất nhà mà quân xâm chiếm có được thì họ hoàn toàn thảnh thơi cho công việc chiến sự. Bởi lẽ phần hậu phương với phần tiền tuyến của kẻ thù chỉ vỏn vẹn vài chục km theo đường chim bay. Và với lực lượng quân sự hai bên như thế thì Trung Cộng có thể kéo chiến sự về tới Hà Nội nếu họ muốn.
Các lực lượng khác của Trung Cộng như hải quân, không quân cũng không tham gia để chứng tỏ vai trò đàn anh của mình, cũng như cho Hà Nội thấy đây chỉ là đòn trừng phạt không hơn không kém. Nó cũng cho thấy, đàn anh Trung Cộng ra đòn trừng phạt thằng em mất dạy Việt Nam là có kiểm soát, tăng giảm hay lên xuống tùy theo mức độ biết điều của đối tượng. Nhẹ nhàng thì chỉ là những đòn tấn công dọc biên giới, ăn sâu vào vài cây số. Còn ương bướng nặng nề thì là những cuộc tấn công vào sâu hơn trong lãnh thổ, nơi có các thị xã quan trọng của Việt Nam. Tóm lại thì Trung Cộng đã rất rõ ràng khi ra roi, và cái bàn tọa của thằng em Việt Nam sẽ lãnh đủ nhiều hay ít roi tùy theo thái độ biết điều hay không.
Gần một tháng chiến tranh, ngó lên phía Bắc thì ông “anh cả” chỉ giúp đỡ bằng mồm và hy vọng Liên Xô động binh vì mình thì chỉ là nằm mơ giữa ban ngày. Đến khi quân đội Trung Cộng đã bắt đầu tấn công và lấn chiếm nhiều vùng quan trọng trong đó có các thị xã lớn như Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn thì các vị “đỉnh cao trí tuệ” lúc ấy mới thấy hoảng hồn. Ba Đình rúng động chuẩn bị kế hoạch rời Kinh. Thi hài lãnh tụ Hồ Chí Minh cũng đã được bí mật đưa khỏi thủ đô Hà Nội để "hành phương Nam". Các cơ quan trọng yếu bắt đầu ùn ùn sơ tán. Trong khi ấy, các đơn vị thiện chiến được điều từ miền Nam và Campuchia về thì chỉ lập phòng tuyến cố thủ quanh Hà Nội. Nhiều chiến sĩ của các đơn vị quân chủ lực không bắn được một phát súng nào về phía kẻ thù. Các đơn vị quân sự địa phương và dân quân du kích mới là những người trực tiếp cầm súng chiến đấu, phần lớn hy sinh ngay từ những lần chạm súng đầu tiên. Cuộc chiến trong một tháng trời đó là một cuộc chiến lạ đời khi vừa chiến đấu, vừa làm sao cho kẻ thù biết rằng ta đã không chiến đấu hết mình để bảo vệ Tổ quốc. Về quy mô, không có cuộc chiến ở cấp độ sư đoàn. Lực lượng không quân, mặc dù vẫn bay đi tham chiến ở Campuchia nhưng lại không hề ném một quả bom nào xuống trận địa quân Trung Quốc xâm lược.
Thế rồi cuộc xung đột giữa hai người anh em cùng ý thức hệ cũng hạ màn. Trong khi, ông Tổng Bí thư Lê Duẩn đọc lời hiệu triệu toàn dân về việc “Tổ Quốc lâm nguy”, ông Đại tướng Võ Nguyên Giáp đọc lời Tổng động viên thì cùng ngày, ông Đặng Tiểu Bình tuyên bố đã “dạy xong bài học cho Việt Nam” và ra lệnh rút quân!
Vậy Việt Nam ta đã làm gì cho cái tình huống chiến tranh không giống ai đó? Một chiến lược gia quân sự người Đức đã nói: “Nếu một cuộc chiến tranh không có mục đích gì, không lợi lộc gì thì không nên có cuộc chiến tranh ấy”.
Rõ ràng cuộc chiến bắt đầu từ ngày 17/2/1979 và kéo dài 10 năm sau đó của Việt Nam với Trung Cộng chẳng có lợi ích gì. Nó chẳng chứng tỏ cái gì, chẳng cho ai cái gì mà thiệt hại thì không gì bù đắp nổi. Dù đã bao năm trôi qua thì những thiệt hại nhìn thấy được lẫn không nhìn thấy được vẫn ám ảnh chúng ta mãi. Chỉ vì những thói ngông nghênh, phản trắc của một vài nhà chính trị diều hâu mà quân đội và nhân dân Việt Nam lại vướng vào một cuộc chiến không tiền khoáng hậu, khiến cho người dân Việt Nam, vốn đã đau khổ vì 20 năm chiến tranh rồi, nay lại đau khổ tiếp vì 10 chiến tranh nữa. Biên giới phía Bắc lại đồng hành với biên giới phía Tây Nam rơi vào một cuộc tàn sát đẫm máu, kéo dài cả một thập niên khói lửa mịt mù. Một cuộc chiến tàn bạo đi trọn một thập niên để rồi lại trở vị trí cũ, tang thương và đau khổ.
Giờ đây thì ngay cả những vị tướng, những người tham chiến trong hai cuộc đụng đầu đó đều phải thừa nhận sự sai lầm, ngu xuẩn của nhà cầm quyền qua các cuốn hồi ký. Kết quả là hàng vạn người vô tội đã chết thảm vì chính sách phiêu lưu quân sự của những người Cộng sản Việt Nam cuồng tín. Oan hồn tử sĩ nằm rải rác khắp các nghĩa trang biên giới Tổ Quốc, chẳng những không được các nhà đương kim lãnh đạo tri ân thắp nén nhang tưởng niệm mà còn bị đục bia, xóa dấu tích…để lập công với quân bành trướng. Câu chuyện tang thương của lịch sử như mới xảy ra hôm qua. Kẻ thù ngày ấy cũng vẫn là ông bạn “mười sáu chữ vàng” ngày nay. Và trong mùa xuân này, có ai biết, hồn thiêng các nghĩa sĩ vẫn gào khóc trong gió ngàn mây trắng vùng biên ải xa xôi:
Trong đêm khuya ai gào trong gió, /Tiếng ai hờ nấc nghẹn cả dòng sông
Ai đi về trong đêm đông buốt giá / Để ai buồn với nỗi nhớ mênh mông...(Source: BVN)

2. Thơ từ Bạn bè
(i) Luân Hoán: Đạp đất Quê nhà
một mình lạng quạng đằng vân
bỗng nhiên vấp gió bâng khuâng đứng nhìn
vịn chùm mây trắng lung linh
đánh hơi mùi khói quê tình thơm xuân
      tôi bay trong nỗi ngập ngừng
      muốn thăm nhưng ngại không chừng chẳng ai
      đón người sức mẻ hình hài
      trái tim trôi giạt nước ngoài đã lâu
lo lo chưa dám về đâu
núi rừng Tiên Phước Tiên Châu lạ rồi
Hội An Xóm Mới Chùa Cầu
bụi bay cát chạy mù đầu chắc chi
      Liêm Lạc đâu có còn gì
      dòng sông gò mã bứng đi cõi nào
      La Qua Vĩnh Điện nao nao
      đất quê mẹ mấy khi vào nghỉ chân
Sông Hàn Đà Nẵng Hải Vân
liền đời mà bỗng đứt gân bất ngờ
Quảng Ngãi Thi Phổ máu trào
cỏ chết đất úng sầu vào cỏ cây
      Sài Gòn những luống gió bay
      chắc chi lưu lại dấu giày buồn tênh
      Đà Lạt Huế từng không thèm
      Qui Nhơn Phan Thiết mươi đêm ngủ vùi
nơi đâu đạp đất có người
tiếp tôi bằng những nụ cười bao dung
cân nhắc tự vấn cuối cùng
chọn ngọn cây để ngã lưng nằm nhìn
      gọi quê hương cho ấm tình
      cũng là đạp đất quê mình năm nay
      hồn trên cánh gió loay hoay
      đánh rơi chiếc dép tháng ngày lang thang. (L.H. - 8.02.2016)

(ii) Phan Đắc Lữ: Cơn say độc ẩm
Không em rượu vẫn rót tràn
Say sưa cùng với gió ngàn trăng suông
Gió trăng chia sớt nỗi buồn
Tiễn ta đi tiếp cuối đường ảo sinh .
      Chén nầy cụng với Lưu Linh
      Cùng đau thế thái nhân tình cổ kim
      Từ ta bảy nổi ba chìm
      Tấm thân phiêu bạt cánh chim giang hồ .
Chén nầy cụng với hư vô
Gọi hồn Thục Đế bên mồ Đỗ Quyên
Từ em quên hết lời nguyền
Rượu bầu thơ túi lạc miền phù vân .
      Chén nầy cụng với phàm trần
      Gẫm xem thế sự xoay vần đến đâu ?
      Trăm năm tiếp cuộc bể dâu
      Tang bồng hồ thỉ bạc đầu chưa xong .
 Chén nầy cụng giáp một vòng :
 Đông – Tây – Nam – Bắc tạ lòng cố tri
 Thưa rằng : Tại buổi ra đi
 Mất quê vỡ mộng lấy gì dung thân .
       Rượu còn hắt xuống sông Ngân
       Trăng tà gió lộng mây vần vũ trôi
       Ngàn năm non nước lở bồi
      Cơn say chợi tỉnh bồi hồi Nước non !
...........................................................................................................
Kính,
NNS

Không có nhận xét nào: