Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Bảy, 13 tháng 12, 2025

Việt Minh Tàn Sát Cao Ðài, Hòa Hảo, Giết Tạ Thu Thâu (1945-1948) - Hồ Văn Đồng


Năm 1997, nhà xuất bản Robert Laffont tại Pháp đã xuất bản cuốn biên khảo dày 840 trang với tựa đề “Hắc Thư về Chủ Nghĩa Cộng Sản – Tội ác, Khủng bố và Trấn áp”. Tác phẩm là công trình nghiên cứu của sáu học giả, với sự đóng góp của năm tác giả, qua phần biên tập của giáo sư Stéphane Courtois. Cuốn sách gây chấn động trong dư luận và tính tới năm 2011 thì đã được phiên dịch ra 26 thứ tiếng khác. Nhưng một nhược điểm của bộ biên khảo là thiếu nhiều chi tiết về tai họa cộng sản tại Việt Nam.
<!>
Ra khỏi nhà tù Cộng sản và vượt biên qua Hoa Kỳ vào năm 1989, nhà báo lão thành Hồ Văn Ðồng liên lạc cùng nhà xuất bản Robert Laffont để xin phép phiên dịch bộ sách sang Việt Ngữ, đồng thời bổ túc thêm phần tội ác Cộng Sản Việt Nam. Bộ sách “Hắc Thư về Chủ Nghĩa Cộng Sản” thêm phần bổ túc của dịch giả về “Tội ác của Cộng Sản Việt Nam, được ấn hành thành 2 tập bìa cứng, 1.200 trang.
Sau đây là một số trích đoạn từ phần bổ sung của bộ sách nói trên.

Hồ Văn Ðồng
Bất cứ một dân tộc nào, muốn thoát cảnh nô lệ cũng sẵn sàng hy sinh để chiến đấu chống lại kẻ thù. Nhưng sự hy sinh đó càng cần thiết hơn nữa khi phải chiến đấu để phục hồi nền độc lập và thống nhứt lãnh thổ. Nhưng đó không phải là trường hợp của Việt Nam khi chủ nghĩa Cộng Sản xuất hiện và nắm toàn bộ quyền hành trong tay từ Bắc chí Nam. Cho tới ngày nay, sau 25 năm thống nhứt được đất nước, người dân Việt Nam, chưa bao giờ khổ cực và bị áp bức còn hơn lúc sống dưới thời kỳ của thực dân Pháp thống trị. Ðó là ý kiến của ông Trần Văn Giàu, một lãnh tụ Cộng Sản khét tiếng, người đã tổ chức việc cướp chính quyền ở miền Nam cho Cộng Sản vào mùa thu năm 1945.

Thật vậy, nếu so sánh đời sống của công nhân và nông dân lúc bấy giờ với đời sống của họ hiện nay, thì ai ai cũng có thể nhận thấy rõ sự cách biệt quá xa. Còn thời kỳ nông dân miền Nam, một năm chỉ làm một mùa lúa, còn 9 tháng thong thả rong chơi. Còn đâu thời kỳ công nhân đồn điền cao su, không cần phải ăn trộm, ăn cắp để có đủ sống. Sự xuất hiện của đảng Cộng Sản Việt Nam vào những năm 1930 và từ mấy thập niên tiếp theo đã biến một đất nước trù phú thành một trong những đất nước nghèo mạt nhứt trên thế giới. Ðó là một tội ác không thể tha thứ được, vì hơn ai hết, đảng Cộng Sản Việt Nam phải chịu trách nhiệm về sự sa đọa tinh thần và vật chất hiện nay của 80 triệu đồng bào, khi đất nước bước vào thiên niên kỷ mới.

Vụ tàn sát Tín đồ Cao Ðài
Có lẽ chúng tôi phải bắt đầu với những tội ác của Cộng Sản Việt Nam theo thứ tự thời gian, từ khi chúng cướp được chính quyền vào mùa Thu năm 1945, hay ngay cả trước khi chúng cướp được chính quyền.

Vào tháng 8 năm 1945, khi có tin cho biết rằng Nhựt Bổn vì hai quả bom nguyên tử rơi xuống Hiroshima và Nagasaki phải đầu hàng thì Cộng Sản Việt Nam bắt đầu công khai đàn áp và diệt trừ đối lập. Theo thứ tự thời gian thì trước tiên chúng ta có thể đề cập tới vụ chúng sát hại đồng bào theo đạo Cao Ðài ở Quảng Ngãi, một trong những tỉnh nghèo nhứt của đất nước.

Trong Bạch Thư gửi cho Tổng Thư Ký LHQ, tổ chức Cao Ðài giáo Việt Nam ở hải ngoại nói: Trong suốt 3 tuần lễ, kể từ ngày 19 tháng 8 năm 1945, chỉ riêng tỉnh Quảng Ngãi đã có 2.791 chức sắc, chức việc và đạo hữu Cao Ðài bị những người Cộng Sản Việt Nam sát hạ bằng đủ cách. Như chém đầu, chôn sống, thả biển, và cả hình thức “tùng xẻo” như trong thời Trung cổ. Trong đó có những vị chức sắc cao cấp như Ðức Liễu Tâm Chơn Huỳnh ngọc Trác, Giáo sư Lê Ðường, Lê quang Viện, Nguyễn Sử, Nguyễn Kinh, Bùi Phụng, Nguyễn Tống, Trần lương Hiếu, v.v... tại Quảng Ngãi và giáo sư Nguyễn hồng Phong cùng 5 nhân sĩ khác bị giết tại làng Bầu ở Quảng Nam. Việc sát hại tập thể người Cao Ðài nầy vì có lẽ họ quyết không từ bỏ đức tin Thượng Ðế, tự do tôn giáo, và nhân quyền. Ðây là lịnh của Hồ Chí Minh ban ra cho Nguyễn Chánh, Phạm văn Ðồng, thi hành sự chém giết tại Quảng Ngãi và cho Hồ Nghinh, Hoàng minh Thắng tại Quảng Nam. Hơn nữa họ còn tiêu diệt nhà trí thức nổi tiếng Tạ thu Thâu, quý nhân sĩ chân chính quốc gia như các ông Cao văn Trung, Hồ Hóc, Hồ Nhân, Hồ Hồng, và hàng loạt những người bất đồng chính kiến khác cũng bị giết tại Quảng Ngãi vào tháng 8 năm 1945. Tất cả nhà cửa, tài sản các loại của nạn nhân đều bị những người Cộng Sản chiếm đoạt. Hiện nay, vẫn còn nhiều chứng nhân mục kích từng phần các vụ tàn sát nói trên, còn sống tại Việt Nam hoặc đang lưu vong rải rác khắp thế giới, và mỗi khi nhắc tới cuộc nỗi dậy cướp chính quyền của Việt Minh, mọi người đều kinh hoàng khiếp sợ sự tàn bạo đó.

“Tiếp đến, những năm 1949-1954, chính quyền cộng sản bắt bớ, cầm tù hàng trăm chức sắc, giáo sĩ, tu sĩ Cao Ðài miền Trung. Tại phiên tòa ở Bồng Sơn, thuộc tỉnh Bình Ðịnh, tháng 9 năm 1949, ba vị phối sư Nguyễn quang Châu, Nguyễn Ðán, Trần nguyên Chát bị kết án 10 năm tù và hầu hết 97 người khác bị kêu án từ 1 đến 8 năm tù ở về tội truyền Ðạo và hành Ðạo. Trong lúc bị giam cầm, có các vị sau đây chết trong các lao ngục bởi sự tra tấn và ngược đãi: 1) Phối sư Trần nguyên Chất, chết tại lao xá Quảng Nam, 2) Giáo sĩ Nguyễn đình Anh, chết tại lao xá Nghĩa Hành Quảng Ngãi, 1951, 3) giáo hữu Phạm Nghĩa, chết tại lao xá Ha Ra, Phú Yên, Giáo sư Cao hữu Chí bị xử tử hình tại Quế Sơn, Quảng Nam tháng 7 năm 1953”.

Bạch Thư đó cũng cho biết đến năm 1975, sau khi dùng bạo lực cưỡng chiếm trọn miền Nam, Cộng Sản đã đưa một trung đoàn đến chiếm đóng toàn bộ cơ sở rộng lớn của Tòa Thánh Tây Ninh, tịch biên toàn bộ cơ sở hành đạo, tài sản các loại của Tòa Thánh, và bắt giữ các chức sắc cao cấp đưa đi tập trung cải tạo... Không phải chỉ có Tòa Thánh Tây Ninh mà tất cả Hội Thánh, Thánh Tịnh, Thập Thất Cao Ðài khắp miền Nam, cùng mọi cơ sở phụ thuộc, kể cả các học đường, trung tâm văn hóa xã hội, Viện Ðại Học Cao Ðài đều nhất loạt bị tịch biên chiếm đoạt. Trong số các nhân vật danh tiếng Cao Ðài bị cộng sản thủ tiêu gồm có Phối sư Trần quang Vinh, đã có lần làm bộ trưởng Quốc Phòng trong chính phủ của Thiếu tướng Nguyễn văn Xuân, Hiền Tài Hồ thái Bạch, v.v...

Thanh That Cao DaiThánh Thất Cao Ðài Tây Ninh.
Một sự kiện khác mà tín đồ Cao Ðài ở Quảng Ngãi không bao giờ quên được là việc Cộng Sản trong chiến dịch tấn công để cưỡng chiếm miền Nam, đã phá hủy Linh tháp của Giáo Hội Cao Ðài xây lên từ năm 1956 tại huyện Tư Nghĩa, nằm dọc Quốc lộ 1, cách thị xã Quảng Ngãi 4 cây số, khi họ làm chủ được tình hình ở Quảng Ngãi hồi tháng 3 năm 1975. Linh tháp này được dựng lên để kỷ niệm sự hy sinh vì đạo của gần 3,000 tín đồ Cao Ðài năm 1945. Người ta cho rằng CSVN muốn thủ tiêu dấu vết của việc họ tàn sát tín đồ Cao Ðài trước lịch sử dân tộc, nhưng chính sự đập phá đó lại là một dữ kiện tố cáo sự tàn ác của chúng. Cũng theo một nhân chứng hiện còn sống ở Cali thì sau khi cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam tháng Tư năm 1975, CSVN đã giết hơn 500 cán bộ Quân Dân Cán Chánh và một số tu sĩ Phật giáo ở Quảng Ngãi, mà nhiều nhứt là tại các thị xã Hành Thịnh, Hành Thiện, Hành Phước, tại các nơi này hơn 300 người bị chôn vùi trong một hầm sâu của đồi núi La Hai, thôn Hòa Vinh, xã Hành Phước.

Không phải chỉ có các tín đồ Cao Ðài tại Quảng Ngãi bị sát hại tập thể như thế mà vẫn theo các nhân chứng còn sống, những chức sắc của Giáo hội Cao Ðài hải ngoại thì tổng kết có tới 30,000 tín đồ Cao Ðài ở các tỉnh Gò Công, Long An, Trà Vinh, Sa Ðéc, Mỹ Tho, Biên Hòa, Ðồng Tháp Mười... bị sát hại bằng cách chôn sống, bị bắn giết tập thể, vùi thây vào các ngôi mộ tập thể như tại Trảng Bàng, Tây Ninh, hàng 100 xác người vô tội, kể cả đàn bà và trẻ con.

Ðặc biệt, Bạch Thư của Cao Ðài giáo hải ngoại có kèm theo hai văn kiện có giá trị lịch sử: đó là danh sách của những nhân chứng còn sống tại Hoa Kỳ và một phần danh sách của những tín đồ Cao Ðài bị cộng sản giết vào mùa Thu 1945 tại Quảng Ngãi.

Các nhân chứng còn sống đó thường là bà con hay hàng xóm láng giềng của những người bị giết, may mắn thoát được qua Hoa Kỳ sau khi Cộng Sản cưỡng chiếm miền Nam năm 1975.

Tưởng cũng nên nhấn mạnh rằng trong khi tiến hành việc tàn sát tập thể tín đồ Cao Ðài tại hai tỉnh Quảng Ngãi và Quảng Nam, Cộng sản cũng không quên tiêu diệt những người mà họ cho là những phần tử tư sản, trí thức tại địa phương. Sau đây là trường hợp của gia đình ông Nguyễn vĩnh Phúc, hiện định cư tại Hoa Kỳ, thuật lại:

“Thân phụ tôi cùng người anh trai tôi đi thăm ruộng tại một cánh đồng cách nhà khoảng 20 cây số. Cộng sản đã bắt cha tôi và anh tôi, cột tay ra sau lưng và dẫn hai người tới một cái miếu thờ “Thổ” Thần tại một khu rừng dương liễu. Tối đến, chúng tập trung dân chúng lại, khoảng 100 người, tuyên đọc một bản án mà nạn nhân chưa bao giờ phạm tội. Cộng sản lên án rằng phụ thân tôi và anh trai tôi (lúc bây giờ mới 14 tuổi) là “Việt gian” từ thành phố Ðà Nẵng về vùng quê do thám và hợp tác với Pháp. Sau khi đọc bản án tóm tắt như trên, chúng đã đưa cha tôi và anh tôi tới trước một miệng hố đã đào sẵn, rộng hơn một thước, lấy cuốc đập vào đầu cho tới khi hai nạn nhân chết rồi xô thây hai người xuống hố và lấp đất lại.”

Chưa hết, sau khi sát hại thân phụ và anh trai tôi, chúng còn tìm mọi cách sát hại hai người em trai của nạn nhân là các ông Nguyễn phúc Giảng và Nguyễn phúc Minh. Ông Nguyễn phúc Giảng sống tại thành phố Ðà Nẵng, sau khi chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ, đã đóng cửa tiệm buôn lớn và mang một số vải về bán ở nông thôn. Ông cũng đã bị Cộng Sản bắn và giết, xác chôn vội vàng tại cồn cát trắng Nam Yên, thuộc xã Hòa Long, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam. Ông Nguyễn phúc Minh là một giáo sĩ Cao Ðài. Ông Minh đi giảng đạo tại Quảng Ngãi, bị Cộng Sản bắt và chôn sống cùng với khoảng 100 người khác gồm có giáo sĩ Cao Ðài, tín đồ tại Nghĩa Hành. Mồ chôn tập thể này đã gây kinh hoàng cho dân chúng. Các nạn nhân đều bị trói tay sau lưng và được cho xếp hàng đứng trên miệng hầm; sau đó chúng đạp nạn nhân xuống hầm và lấp đất. Khi đất được đổ xuống thì hàng trăm tiếng kêu than, vang động cả một vùng trời Nghĩa Hành. Vụ chôn sống tập thể này sau nhiều tháng còn nhận thấy qua lớp đất nứt nẻ trên miệng hầm, và mùi hôi thối của tử thi vẫn còn phảng phất chung quanh khu vực chôn người đó.

Vụ hạ sát Tạ Thu Thâu
Theo ông Hoàng hoa Khôi ở Ba Lê thì chưa có một sử gia nào đi sâu vào việc tìm hiểu về cái chết của ông Tạ thu Thâu bằng ông Daniel Helmery. Năm 1992 ông Khôi đã viết trên báo “Ngày Nay” ở Houston rằng ông Helmery đã đưa ra 3 giải thuyết về việc ai đã hạ lịnh bắt giết ông Tạ thu Thâu: thứ nhứt là Nguyễn Bình, vị tướng lãnh đã từng chỉ huy quân đội cộng sản ở Nam bộ; thứ hai là Trần văn Giàu và Dương bạch Mai, hai nhân vật cộng sản đã từng làm mưa làm gió ở miền Nam Việt Nam vào mùa Thu năm 1945, và thứ ba là chính Hồ chí Minh đã ra lịnh giết ông Tạ thu Thâu. Ông Helmery cho rằng cả ba giải thuyết đó đều không đúng. Cho tới nay vì các hồ sơ lưu trữ của Ðảng Cộng Sản Việt Nam còn được giữ kín, nên khó mà có thể biết rõ sự thật. Tuy nhiên, theo bài báo của ông Hoàng hoa Minh, một nhà lãnh đạo cộng sản triệt để ủng hộ Stalin, một người đã ghét phe Trốt kít đến độ Trotski đã bỏ trốn sang Mexico mà vẫn cho người theo ám sát. Ông cũng đề cập tới 3 bức thư mà ông Hồ Chí Minh năm 1939 từ Trung Quốc gởi về Việt Nam, theo gương Stalin thóa mạ tận cùng phe đảng Trốt kít mà ông cũng như Stalin cho rằng đó là những quân chó má. Ông viết: “Bọn Trốt kít Trung quốc cũng như nước ngoài... chúng là một lũ bất lương, những con chó săn của chủ nghĩa Phát xít Nhựt và chủ nghĩa Phát xít quốc tế”. Một đoạn khác trong 3 bức thư đó nói: chủ nghĩa Trốt kít dùng phương pháp đấu tranh hèn hạ nhứt, nhơ bẩn nhứt, khốn nạn nhứt. Chương trình của nó là tái thiết tư bản chủ nghĩa. Nấp sau bóng tối đàn chó Trốt kít tụ tập những kẻ đầu trâu mặt ngựa, những đứa không còn phẩm giá con người, những tên sẵn sàng gây mọi tội ác... Bọn chúng đã bán rẻ tổ quốc từng mảnh và toàn bộ cho kẻ thù phá loại...”

Với những lời lẽ như trên thì tại sao còn nghi ngờ gì về việc ai phải chịu trách nhiệm về cái chết của ông Tạ thu Thâu. Vả lại trong hồi ký của ông, Linh mục Bửu Dưỡng, sau này là Viện trưởng Viện Ðại HoÏc Minh Ðức có nói rằng năm 1946, khi qua Ba Lê và ký Thỏa hiệp án 14-9-1946 với Pháp, bị sinh viên Việt Nam chất vấn ráo riết về cái chết của Tạ thu Thâu, ông Hồ Chí Minh đã bực mình, mà nói trắng ra rằng: “Tất cả những ai đi sai với đường lối của tôi đều phải bị tiêu diệt”.

Tôi cũng còn nhớ khi đi học tập cải tạo trại Gia Trung, tôi có dịp được đọc một bài báo của tờ “Nghiên cứu Chính trị” của CSVN, trong đó có nói rằng trong cuộc chiến đấu để nắm được quyền lãnh đạo ở Việt Nam, Cộng Sản đã gặp phải nhiều khó khăn về phía phe Ðệ Tứ Quốc Tế, tức là phe do Tạ thu Thâu lãnh đạo, nên khi có cơ hội (cướp được chính quyền) thì việc đầu tiên của họ là phải tiêu diệt Ðệ Tứ quốc tế, có gì là lạ nữa. Chính vì thế mà không phải chỉ có Tạ thu Thâu, vị thủ lãnh của Ðệ Tứ Quốc Tế ở Việt Nam bị hãm hại mà gần như toàn thể các cấp lãnh đạo và đảng viên cao cấp Ðệ Tứ đều bị thủ tiêu ở miền Nam trong khi Tạ thu Thâu bị sát hại tại Quảng Ngãi và mùa thu 1945.

Theo hồi ký của bà Phương Lan thì Tạ thu Thâu vào mùa Xuân năm 1945 đã từ miền Nam ra Bắc với ý định sẽ từ đó qua Trung Quốc và từ Trung Quốc đi Âu Châu. Ông cũng có ý định liên lạc với các đoàn thể chính trị và các nhân sĩ miền Bắc thành lập một mặt trận chính trị rộng rãi, nhưng ý định chưa thành thì xảy ra vụ Nhựt Bổn đầu hàng, nên thấy cần phải trở về Nam gấp.

Theo tiểu thuyết “Thím Bảy Giỏi” của Ðỗ Bá Thế thì trên con đường trở về Sài Gòn, đã có những tin tức cho biết rằng cộng sản Việt Nam lúc bấy giờ đã cướp được chính quyền ở Hà Nội, ra lịnh bắt Thâu. Khi Tạ thu Thâu vào tới Vinh thì những dấu hiệu bị theo dõi hiện rõ dần, nhưng Thâu và người em út và đệ tử thân tín trẻ là Ðỗ bá Thế cũng đã vào được tới Huế.

Tại đây, vẫn theo bà Phương Lan thì Ðỗ bá Thế đề nghị Tạ thu Thâu đi xe lửa về Nam một mình và “Thế ở lại Huế giả bộ nghêu ngao trên đường phố, quán rượu, cà phê, tiệm ăn, gặp bạn bè hỏi Thâu thì Thế nói Thâu bị bịnh nghỉ dưới đò. Nói như thế để đánh lạc hướng.” Bà Phương Lan viết tiếp.

“Nào ngờ trên con đường trải qua để về Nam, người đã đã đánh điện cùng khắp nơi làng nhỏ, tỉnh gần hay xa, phải đón bắt cho được Thâu và thủ tiêu luôn đừng cho vượt khỏi biên giới miền Trung. Có phải chỉ mình Thâu mà thôi, do nhiều nơi gởi đến ra lịnh. Kẻ thì bảo mật điện nội dung chỉ bảo bắt giam lại thôi, chớ không hành quyết, nhưng cấp dưới người ta thừa hành tại chỗ đã làm lệch sự lịnh. Người thì nói có một đệ tam nhân ganh tài mà đệ tam nhân đó là người đã thọ ơn Thâu nhiều khi còn ở Pháp, trước kia là học trò của Thâu, đốc xuất hành quyết Thâu cho sớm chừng nào hay chừng nấy. Nhổ được cây đinh nhọn, một đối thủ lợi hại với họ càng tiện cho sự hành động của họ về sau.

Ta Thu Thau 2
Bà Phương Lan viết:
“Thế là Thâu bị bắt khi để chân xuống ga xe lửa Quảng Ngãi, lúc vào phòng nghỉ ở Bungalow. Trước khi bắt, họ làm sụp đổ một cây cầu để phao vu Thâu cho người phá hoại. Rồi ủy ban nhân dân cách mạng họp khẩn cấp để xử tội Thâu, do một người có tên là Tư Tỵ đứng lên buộc tội.”

Lẽ dĩ nhiên là trong việc xét xử đó, Thâu bị tuyên án tử hình và bị đem đi hành quyết gấp. Nhưng “hai lần đem ra hành quyết, mỗi lần một trung đội quân dân, tay cầm mã tấu dài thườn thượt, sắt bén như ngọn gươm trường. Lần đầu tiên họ chém người lính kín... rất dễ dàng như chém một cây chuối. Một người cầm mã tấu, chém một nhát ngọt vào cổ, bay đều liền, lăn lóc...

“Phiên chót đến Tạ thu Thâu, họ ngập ngừng sững sờ như trời trồng cả đám, khi Thâu lớn tiếng binh vực cho mình. Thâu la lớn hỏi gằn: “Thâu tội gì? Yêu nước, binh vực cho quyền lợi của dân là một tội phải không? Như vậy sau này các anh cũng phải đền tội như tôi, không sớm thì muộn, vì đã giết oan người vô tội.”

“Không một ai đành hạ thủ, chém Thâu cả... Ðến lần thứ hai cũng thế, bao nhiêu tội nhân khác, bị hành quyết một dao ngọt lịm, đến lượt Thâu, họ vẫn ngần ngừ, dừng tay đứng ngó Thâu. Có người mắt ven tròng rướm lệ là khác...

“Tức tối xử Thâu không được, họ thay nhóm quân dân khác, cùng một trung đội, lần này tên Tư Tỵ nhảy ra cầm đầu nhóm quân dân, tay Tư Tỵ cầm súng lục chỉ huy hành quyết Thâu. Dù sợ Tư Tỵ nhưng không một ai nhúc nhích khi Tư Tỵ ra lệnh chém Thâu, ba bốn lượt như thế. Ai mà nỡ giết người vô tội, khi biết rõ rằng người ấy vô tội, người ấy là một nhà đại ái quốc siêu nhân hơn người.

“Quá tức giận, Tư Tỵ sẵn cầm súng sáu trên tay, chính hắn xả đạn vào người Thâu như một con hổ khát mồi.

“Thâu ngã gục. Tư Tỵ truyền lịnh lấp cát lên thây Thâu. Nhưng nhiều người cảm kích người anh hùng cách mạng can trường Tạ thu Thâu, nên họ lén đào lỗ chôn riêng một chỗ làm dấu để dễ nhớ sau này.”

Trong việc Thâu bị bắt ở Quảng Ngãi cũng có một giả thuyết khác nữa là thay vì Thâu bị bắt khi định vào nghỉ tại Bungalow thì bị bắt ở phía Nam Sông Vệ, rồi giải ngay ra Ba La, ở phía Bắc Sông vệ thuộc huyện Tư Nghĩa để giao cho cấp lãnh đạo. Nhưng có một giả thuyết thứ ba do một nhân chứng còn sống kể lại cho chúng tôi thì khi vào tới Quảng Ngãi, Tạ thu Thâu ghé thăm bà vợ của ông Nguyễn an Ninh. Bà này có một người con tên là Nguyễn an Mỹ, lúc đó còn nhỏ tuổi chẳng biết gì, mới đem khoe chuyện này với bè bạn, nên tin ông Thâu có mặt tại Quảng Ngãi bị phác giác. Và vì thế mà ông bị bắt.

Cùng với chuyện ông Thâu bị hành quyết ở Quảng Ngãi thì tại miền Nam mấy chục nhà lãnh đạo và cán bộ cao cấp của Ðệ Tứ Quốc Tế cũng bị bắt và bị giết chết. Các tin tức lúc bấy giờ cho biết rằng các cán bộ lãnh đạo Ðệ Tứ đã tập trung tại Xuân Trường, cách phía Bắc Thủ Ðức mấy cây số. Dường như đã có một cuộc thảo luận sôi nổi giữa họ về vấn đề là nên trở về Thành – lúc bấy giờ Pháp đã làm chủ tình hình ở Sài Gòn – hay ở bên ngoài để tham gia cuộc kháng chiến. Ða số không chịu về Thành và lần lượt họ bị Cộng Sản Ðệ Tam bắt và đem ra Sông Lòng Sông (Phan Rí) thủ tiêu hết.

Theo ý chúng tôi thì vấn đề tàn sát Ðệ Tứ ở Việt Nam không nên đặt trách nhiệm ở bất cứ cá nhân nào. Ðó là một vấn đề tranh đấu sống còn giữa Ðệ Tam và Ðệ Tứ Quốc Tế, giữa hai kẻ thù bất cộng đái thiên, bên này còn thì bên kia phải mất. Ðến như ông Trotski đã chạy trốn sang Mexico rồi mà Stalin cũng không dung tha, huống hồ Tạ thu Thâu và những nhà lãnh đạo Ðệ Tứ khác có thể sống song song với Hồ chí Minh, trong khi họ được dân chúng miền Nam mến chuộng hơn phe Ðệ Tam. Nếu có ai phải trả lời về cái chết của Tạ Thu Thâu và các chiến sĩ Ðệ Tứ thì đó là toàn thể đảng cộng sản Việt Nam phải chịu trách nhiệm trước lịch sử dân tộc, mà trên hết là ông Hồ chí Minh, khi năm 1939, ông đã khẳng định, theo sự trích dẫn của Vũ thư Hiên, rằng “đối với bọn Trốt-kít không thể có một thỏa hiệp hay nhân nhượng nào cả. Phải lột mặt nạ chúng như là tay sai của Phát-xít, phải tiêu diệt chúng về chính trị.”

Chính vì thế mà Vũ thư Hiên còn cho rằng Dương bạch Mai, một lãnh tụ cộng sản miền nam đồng thời với Trần văn Giàu, đã chết cách rất bí mật, có thể là do bàn tay của Hồ Chí Minh, vì Dương bạch Mai từng tỏ ra chống Mao trạch Ðông và thân với các phần tử Trốt kít. Theo Vũ thư Hiên thì Dương bạch Mai đột tử ngay trước khi Ðại Hội Trung Ương Ðảng họp đề ra nghị quyết đầu năm 1964. Nghị quyết này chủ trương theo đường lối Mao, ngấm ngầm chống Krushchev.

Vụ bắt và giết Huỳnh phú Sổ
Sang năm 1946, tại miền Tây, tình hình cực kỳ căng thẳng khi xung đột giữa lực lượng vũ trang Hoà Hảo và Việt Minh ngày càng đẫm máu.

Trước không khí ngột ngạt này, một Uỷ ban Hoà giải đã thành hình với các thành viên gồm có ông Hoàng Du Khương (Việt Minh), Linh mục Nguyễn Bá Luật (Công Giáo) và Luật sư Mai Vân Dậu (Hoà Hảo).
Sau các phiên họp đều bất thành, cuối cùng, hai phía đồng thuận là Bửu Vinh, Uỷ viên Quân sự đại diện cho Việt Minh tại Long Xuyên, và Ðức Huỳnh giáo chủ, sẽ gặp nhau tại Tân Phú, Ðồng Tháp Mười vào đêm 16/4/1947 để giải quyết.

Diễn tiến của cuộc họp lịch sử này được tường thuật trong tác phẩm “Thất Sơn Mầu Nhiệm” của Dật Sĩ và Nguyễn Văn Hầu, xin được trích dẫn như sau:
“Y lời hẹn, Ðức Thầy xuống ghe ra văn phòng Bửu Vinh, có một liên lạc của Uỷ ban Hành chánh dẫn đường.

Trời tối như mực. Ði một đổi xa xa bỗng trên bờ có tiếng la: “Ghe ai đó? Tại sao giờ này đã thiết quân luật mà còn dám đi?”
“Ði ra văn phòng Ông Bửu Vinh”, người liên lạc trả lời.
“Ghe ghé lại”. Một tiếng khác tiếp theo.

Ðèn chói rọi xuống ghe và có người ra lệnh trình giấy tờ. Ông Thiện lật đật chạy lên cho coi giấy. Thì ra người hỏi đó là Bửu Vinh. Y hỏi ông Thiện “Ông Uỷ Viên Ðặc Biệt có dưới ghe không?
“Có, Ðức Thầy ở dưới ghe, vội vã trả lời.

Bửu Vinh mời Ðức Thầy lên văn phòng, Ngài liền đi với bốn tự vệ quân.
Văn phòng này đặt trong một ngôi nhà ngói. Ðức Thầy vào bàn giữa tiếp chuyện với Bửu Vinh, còn bốn tự vệ quân thì cầm súng đứng hai bên cửa, cách Ðức Thầy một thước tây.

Mười phút sau, lối 7 giời rưởi tối, bọn Việt Minh ở ngoài đi vô 8 người chia ra cặp nách bốn tự vệ quân của Ðức Thầy và đâm chết ba người. Người thứ tư, anh Phan Văn Tỷ, tức mười Tỷ nhờ giỏi vỏ và lanh trí nên thoát khỏi, chạy ra ngoài có bắn một loạt mi tray dết. Lúc anh mười Tỷ né khỏi mũi dao găm của một trong hai chiến sĩ Việt Minh cặp nách thì người chiến sĩ kia bị đồng chí của mình đâm trúng té quị.

Vừa lúc đó thì Ðức Thầy, từ trước đến giờ vẫn bình tỉnh, lẹ làng thổi tắt đèn. Trong văn phòng tối thui, không ai biết Ðức Thầy đi đâu cả. …

Vào lúc 12 giờ khuya, một người tín đồ PGHH ở gần chỗ xảy ra cuộc bạo hành, chạy ngựa mang đến Phú Thành một bức thư chính của Ðức Thầy trao tận tay cho ông ta. Bức thư ấy như vầy:

“Ông Trần Văn Soái và Ông Nguyễn Giác Ngộ.
Tôi vừa hội hiệp với ông Bửu Vinh bỗng có sự biến cố xảy ra, tôi và ông Bửu Vinh suýt chết, chưa rõ nguyên nhân, còn điều tra, trong mấy anh em phòng vệ không biết chết hay chạy đi, nếu có ai chạy về báo cáo rằng tôi bị bắt hay là mưu sát thì các ông đừng tin và đừng náo động.

Cấm chỉ đồn đãi, cấm chỉ kéo quân đi tiếp cứu, hãy đóng quân tại chổ.
Sáng ngày tôi sẽ cùng ông Bửu Vinh điều tra kỹ lưởng rồi sẽ về sau.
Phải triệt để tuân lịnh.
Ngày 16.4.1947, 9 giờ đêm.

Ký tên: Huỳnh Phú Sổ

… Thế là từ ngày 16. 4.1947 đến nay không ai biết Ðức Thầy lưu trú phương nào”. (Hết trích dẫn)

Luật sư Mai Văn Dậu có cho giảo nghiệm lá thư và chữ ký và xác nhận là đích thực của Ðức Thầy. Nhưng tại sao lại có việc thành hình lá thư này, về sau, có nhiều lối giải thích khác nhau.
Một là, Bửu Vinh sát hại Ðức Thầy ngay trong đêm này rồi viết thư giả và yêu cầu một tín đồ đến trao hai ông Soái và ông Ngộ.

Hai là, sau khi bị mưu sát, Ðức Thầy thoát nạn và lại bị Bửu Vinh bắt. Muốn tránh cảnh lực lượng vũ trang Hoà Hảo đến giải cứu, nên Bửu Vinh ép buộc hay thuyết phục Ðức Thầy viết thư và nhờ một tín đồ chuyển đi, rồi mới sát hại.

Ba là Ðức Thầy thoát nạn và tạm thời vắng mặt mà không ai biết nơi lưu trú. Giả thuyết này khó thuyết phục, vì khi thoát được thì không có lý do gì để Ðức Thầy cần đến lá thư và không xuất hiện.

Bốn là, Ðức Thầy không còn xuất hiện nửa là chuyện “thiên cơ bất khả lậu”, vì không thể giải thích theo lý trí thông thường mà theo niềm tin tôn giáo, thiên chức dựng Ðạo và cứu Ðời của Ðức Thầy đã chấm dứt trong hoàn cảnh này.
Cho đến ngày nay, nhiều tín đồ luôn luôn tin tưởng về giả thuyết này, cho là Ðức Thầy còn “vắng mặt“ hay “đi xa“ và hy vọng sẽ còn dịp “trở về để cứu độ chúng sinh“ trong một hoàn cảnh khác.

(Fwd: De : Kim Anh <kimanh42@gmail.com>, ven. 31 oct. 2025 à 15:30)
(Fwd: Long Nguyen <longn0029@gmail.com>, PSXH-2, Nov. 2, 2025, 7:03 AM)

Không có nhận xét nào: