Tưởng Niệm 50 Năm Tháng Tư Đen! Quốc Hận 2025!
-Bằng giây phút này 50 năm về trước, cả đất nước Việt Nam rơi vào tay Cộng Sản, 30 tháng 4 năm 1975, mãi mãi là vết thương đau đớn trong lòng hàng triệu người dân trong nước và ngoài nước. Không bao giờ quên!“Bên chiến thắng” là phe ác, chỉ biết quyền lợi của mình, của Đảng, “còn đảng còn mình!” đã nửa thế kỷ, đã đưa dân tộc Việt xuống tận đáy bùn đen, và còn có nguy cơ mất nước vào tay ngoại bang.
<!>
Ngày nào khi quê hương chưa có tự do dân chủ, ngày ấy, vẫn còn là Tháng Tư đau thương! Người Việt vẫn còn trách nhiệm đấu tranh để quê hương chóng có thay đổi, để tương lai Việt Nam được tươi sáng hơn, sánh vai với những quốc gia văn minh trên thế giới hiện nay.
Ngày đó, mới hết Tháng Tư Đen! bình minh thực sự, mới lại trở về trên quê hương yêu dấu!
Mong lắm thay.
Người Lính LV Hải
GIỚI THIỆU SINH HOẠT ĐẶC BIỆT: “30/4 BUỔI CHÀO CỜ THẾ HỆ TIẾP NỐI” TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC YERBA BUENA, NGÀY MAI!
Kính thưa quý vị,
-50 năm nhìn lại ta còn, hay mất những gì? Còn thì rất ít, và mất mát thì quá nhiều. Mất quê hương, mất tự do, mất gia tài, sự nghiệp. Có người mất cả gia đình cha mẹ, vợ chồng, con cái…
Trong cái ít ỏi của những gì gọi là CÒN, thì đó chính là thế hệ tương lai mà chúng ta đã tạo dựng, các cháu được sinh ra hay lớn lên, trưởng thành ở hải ngoại, nếu được khuyến khích, giữ tinh thần Quốc Gia, hầu hết đều thành công trong học vấn, cuộc đời và sự nghiệp. Đó là vi các cháu đã lắng nghe theo sự hướng dẫn của thế hệ đi trước. Hầu hết các cháu không biết gì sau tháng Tư, 1975. CS lại có chiến dịch tuyên truyền lôi kéo, nên chúng ta có bổn phận nhắc nhở, các cháu tham gia những sinh hoạt quý báu, nhất là những buổi chào cờ Vàng của VNCH, những sinh hoạt này, rất đáng được khuyến khích!
Thay mặt VTLV Và Nhóm "Tuổi Trẻ Hải Ngoại"
LV Hải
THƯ MỜI THAM DỰ LỄ TƯỞNG NIỆM 50 NĂM THÁNG TƯ ĐEN CỦA CÁC CHÁU TRƯỜNG TRUNG HỌC YERBA BUENA NGÀY THỨ BA 29 THÁNG TƯ
KÍNH THƯA QUÝ ĐỒNG HƯƠNG VÀ PHỤ HUYNH,
-CÁC CHÁU HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC YERBA BUENA SẼ TỔ CHỨC BUỔI LỄ THƯỢNG KỲ ĐỂ TƯỞNG NIỆM 50 NĂM THÁNG TƯ ĐEN 1975-2025
TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC YERBA BUENA 1855 LUCRETIA AVE, SAN JOSE 95122
VÀO NGÀY THỨ BA, 29 THÁNG 4 NĂM 2025 LÚC 10:30AM-11:30AM
CHÚNG TÔI CỘNG ĐỒNG VIỆT MỸ BẮC CALIFORNIA, KÊU GỌI QUÝ VỊ ĐẾN THAM DỰ ĐÔNG ĐẢO, ĐỂ KHUYẾN KHÍCH, NHẮC NHỞ CÁC CHÁU, TIẾP TỤC GIỮ NGỌN LỮA 30 THÁNG TƯ CHO ĐẾN MAI SAU VÀ CŨNG CÁM ƠN HIỆU TRƯỞNG HIỀN ĐOÀN ĐÃ GIÚP ĐỠ CÁC CHÁU TỔ CHỨC BUỔI LỄ THƯỢNG KỲ NÀY.
TRÂN TRỌNG,
HÀ TRIỆU
CHỦ TỊCH ỦY BAN CHẤP HÀNH CỘNG ĐỒNG VIỆT MỸ BẮC CALIFORNIA
THÔNG BÁO TỪ LIÊN HỘI CQN VNCH BẮC CALI: KÍNH MỜI THAM DỰ LỄ THƯỢNG KỲ VÀ RŨ KỲ TƯỞNG NIỆM 50 QUỐC HẬN TẠI TÒA THỊ CHÍNH THÀNH PHỐ SAN JOSE
Kính thưa quý đồng hương Việt Nam tỵ nạn Cộng sản,
-Năm mươi năm - 50 năm - nước chúng ta mất, nhà tan, dân tộc VN chúng ta bị Tàu cộng đồng hoá. Chúng ta phải sống lưu vong và nhìn về cố hương với thân phận con chim "quôc quốc" đau l òng.
Bởi đâu?
Do Việt cộng tay sai tham tàn xâm lăng, bán nước, hại dân.
Tưởng niệm ngày Quốc hận 30 tháng Tư năm nay; Liên Hội Cựu Quân Nhân trân trọng mời quý vị tham dự lễ Thượng Kỳ và lễ Kỳ Rũ tại hai địa điểm:
1.Tại City Hall, 200 Santa Clara St, theo nội dung thư mời đính kèm.
2.Địa điểm thứ 2 sẽ tổ chức lúc 1:30 PM cùng ngày tại
TRUNG TÂM PHỤC VỤ CỘNG ĐỒNG VIỆT MỸ
2410 Senter Rd, San Jose, CA 95111
Liên Hội Cựu Quân Nhân trân trọng kính mời bà con đồng hương đừng thờ ơ nữa; hãy cố gắng tham dự.
Chúc Mừng!
-Sau Thời Gian Dài Ngưng Sinh Hoạt, Hôm Qua, Khu Hội Cựu Tù Nhân CT/TB Hoa Kỳ Tổ Chức Lể Tưởng Niệm 50 Năm Quốc Hận 30/4/2025, Tại TP San Jose Bắc California, Thành Công Lớn! Dù Thời Tiết Khá Lạnh, Mưa! Mà Vẫn Đông Đảo, Có Trên 200 Quan Khách Tham Dự!
Khu Hội Cựu Tù Nhân CT/TB Hoa Kỳ Tưởng Niệm 50 Năm Quốc Hận 30/4/2025 tại TP San Jose Bắc California
|
Quên sao được, 50 năm! Hôm Nay, ngày 28 Tháng Tư, 1975: Tổng Thống Trần Văn Hương phải trao quyền hành cho tướng 4 sao Dương Văn Minh!, Sài Gòn trong cơn hấp hối!
(Phan Đức Minh)
Bằng Giây Phút Này, Lật Lại Trang Sử Đau Thương!
(Hình ảnh Ngã tư Trần Hưng Đạo – Cộng Hòa, bên phải là chợ Nancy, thủ đô Sài Gòn.)
-“Nhìn lai quá khứ gian lao để biết yêu quý hiện tại và tin tưởng ở tương lai.” (Một triết gia Tây Phương)
Ngày Quốc Hận 30 Tháng Tư lại đến. Chúng ta hãy cùng nhau nhìn lại, dù chỉ là thoáng qua, những diễn tiến đưa đến biến cố lịch sử đau thương, một mất mát lớn lao ở mức độ kinh hoàng cho Nam Việt Nam, mà tất nhiên, không thể nào nói lên hết bằng vài ba trang giấy….
-Ngày 6-1-1975: Tỉnh Phước Long và Thị Xã Phước Bình, cách Sài Gòn 60 dặm về phía Bắc, rơi vào tay quân cộng sản Bắc Việt. Sau “Mùa Hè đỏ lửa” từ vùng địa đầu giới tuyến Quảng Trị, năm 1972, Phước Bình là thị trấn đầu tiên của Nam Việt Nam bị quân cộng sản đánh chiếm. Không Quân VNCH thiệt hại 20 máy bay trong công cuộc bảo vệ Tỉnh Phước Long. Nhiều máy bay bị bắn hạ bằng hoả tiễn SA-7 của Liên Xô.
Sự thiếu vắng phản ứng quân sự của Hoa Kỳ càng xúi giục cộng sản làm tới vì các chiến lược gia của cộng sản biết rằng đã đến lúc Hoa Kỳ phải rời bỏ Việt Nam. Bộ Chính Trị của Đảng CSVN và Tổng Bí Thư Lê Duẩn lúc bấy giờ, quyết định tăng cường các cuộc tấn công trên tổng nổi dậy vào năm 1976. Cộng sản chỉ dám mong điều đó xẩy ra vào năm 1976 mà thôi.
-Ngày 28-1-1975: Tổng Thống Hoa Kỳ, Gerald Ford yêu cầu Quốc Hội tăng thêm quân viện cho Nam Việt Nam và Campuchia với ngân khoản 522 triệu Mỹ Kim vì lúc này Tổng Thống Ford được biết quân cộng sản Bắc Việt đã có mặt tại Nam Việt Nam tới mức 289,000 người. Xe tăng, trọng pháo, hoả lực phòng không, do Liên Xô và Trung Quốc chi viện rất hùng hậu. Để giữ vững “một tiền đồn chống cộng” ở Đông Nam Á Châu thì ngân khoản 522 triệu đôla có là bao so với những năm trước đó là vài tỉ đôla 1 năm. Thế nhưng cũng không xong. Người ta đã phải bỏ cuộc mà ra đi cho rồi…
-Ngày 5-2-1975: Đại Tướng Bắc Việt Văn Tiến Dũng vào Nam để chỉ huy quân đội cộng sản.
-Ngày 10-3-1975: Quân Bắc Việt, với những Sư Đoàn thiện chiến, với phương tiện chiến tranh hiện đại của Liên Xô và Trung Quốc , tấn công Ban Mê Thuột từ ngày 10-3. Ba ngày sau, quân cộng sản tràn ngập thị trấn này, trong khi những trận đánh lớn khác bùng nổ trên mặt trận Cao Nguyên Trung Phần.
-Ngày 14 -3 -1975: Sau khi họp bàn với một số Tướng Lãnh và nhân vật thân cận (?), Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút quân, bỏ vùng cao nguyên Trung Phần và các Tỉnh phía Bắc của Nam Việt Nam. Các Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn 2, Phạm Văn Phú, và Quân Đoàn I, Ngô Quang Trưởng, ngỡ ngàng, sửng sốt, không biết tại sao lại bỏ những vùng đất quan trọng, cửa ngõ, quyết định sự sống chết của Nam Việt Nam vào lúc này, chưa đánh nhau chi cả, trong khi các lực lượng chiến đấu của 2 Quân Đoàn (Army Corps) Việt Nam Cộng Hoà rất hùng mạnh, sẵn sàng đọ sức với quân đội cộng sản. Mất Ban Mê Thuột đâu có nghĩa là phải mất luôn cả Quân Khu I và Quân Khu 2! Ông Thiệu làm như thế để gây áp lực với chính phủ Mỹ: phải quyết tâm tăng cường viện trợ mọi mặt cho Nam Việt Nam, nếu không thì ” Tiền đồn chống cộng ở Đông Nam Á Châu của Mỹ” là Nam Việt Nam sẽ sụp đổ.
Một chiến sĩ VNCH đang ôm những đứa trẻ trên trong di tản hồi Tháng Tư 1975 tại Xuân Lộc. (Hình: TikTok)
Ông Thiệu không hiểu rõ về người bạn đồng minh khổng lồ của mình! Tại sao?
-Bởi vì người Mỹ đã tìm cách tháo lui khỏi cái “Vũng lầy Việt Nam” để ra đi một cách ít phũ phàng, ít mất mặt chừng nào hay chừng đó, sau khi ông Cố Vấn An Ninh Quốc Gia của Tổng Thống Mỹ, Henry Kissinger, đã cố dọn đường, mở lối cho Tổng Thống Richard Nixon sang Trung Cộng nói khéo với Mao Trạch Đông vào năm 1972, qua sự dàn xếp của Tổng Thống Hồi Quốc Yahya Khan. Mao Trạch Đông với sức mạnh đàn anh, từng viện trợ, cố vấn tích cực cho cộng sản Hà Nội, đã ép cộng sản Hà Nội bớt ương ngạnh, ngưng chơi trội và bắt bí Mỹ ở Hội Nghị Paris, diễn ra tại Salle de Conférence Kléber.
Trong vụ này, Mỹ được chút lợi lộc là ký được cái “Hiệp Định Ngưng Bắn – Agreement of Cease-Fire” để tháo lui có văn bản đàng hoàng, mà phe cộng sản coi như mớ giấy lộn, chẳng có giá trị gì cả, để tránh cái cảnh quân Mỹ tháo lui bỏ chạy vô tổ chức, nhưng trong đó Mỹ phải bấm bụng làm lơ, không được nói năng chi tới cái chuyện quân Bắc Việt đã vào Nam cả mấy chục Sư Đoàn (Divisions) rồi.
Tội vạ đổ lên đầu người bạn đồng minh VNCH hết cả. Phái đoàn VNCH phản đối mấy cũng hoài hơi mà thôi vì “Xếp” đã chơi đòn “tháu cáy” rồi thì ráng mà chịu cho quen. Dân nhược tiểu chơi với anh bạn khổng lồ là vậy!
Việc Mỹ làm cú đi đêm (Furtive Conspiracy) liên kết với Trung Cộng để chống Liên Xô thì kể như 2 bên cùng có lợi, nhưng riêng phần Trung Cộng thì lời to: Trung Cộng nhẩy vào ngồi cái ghế “Hội viên thường trực – Permanent Member” của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, với quyền phủ quyết (Veto) đáng giá cả… tỷ tỷ Mỹ kim, đánh văng ông Quốc Dân Đảng Trung Hoa ra Đài Loan mà chơi, mặc dầu Trung Cộng đánh thắng và đã kiểm soát lục địa Trung Hoa từ năm 1949.
Thêm cái lợi nữa là chính quyền Nixon phải lén lút, dấu diếm bán vũ khí tối tân cho Trung Cộng để chống Liên Xô mà không được cho ai biết hết, nhất là Liên Xô, kể cả Quốc Hội, Dân Chúng và Báo Chí Mỹ nữa.
Đó! Mỹ đã tìm cách tháo lui bằng mọi giá, với thế bị đánh bại rồi thì ông Thiệu bỏ 2 Quân Khu 1 và 2, chớ ông ó bỏ luôn cả Quân Khu 3, Quân Khu 4 và Biệt Khu Thủ Đô, bỏ hết miền Nam Việt Nam chăng nữa, Mỹ cũng chẳng bao giờ dại dột quay đầu trở lại để cứu Nam Việt Nam. Nếu nói là cứu thì cứu hết sức từ 1965 đến 1973, với 58 ngàn quân nhân Mỹ hy sinh, mấy ngàn người mất tích, hàng trăm ngàn bị thương, hàng triệu người đau khổ, tiền bạc tốn kém biết bao nhiêu tỉ, mà đâu có cứu nổi! Nay trong lúc đã tan hàng, bỏ chạy thì còn cứu cái nỗi gì nữa đây? Rút mau chừng nào hay chừng đó!
Đại quân cộng sản đã từng chiếm đóng thành phố Huế trong dịp Tết Mậu Thân 1968, đã từng đánh chiếm Quảng Trị và kiểm soát hoàn toàn Thị Trấn An Lộc trong “Mùa Hè đỏ lửa” 1972 mà có Quân Khu nào bị mất, phải bỏ chạy đâu? Trái lại, Quân Lực VNCH đã phản công một cách vô cùng anh dũng, để giành lại những địa điểm chiến lược đã rơi vào tay giặc. Thế thì tại sao mới mất có Ban Mê Thuột mà phải bỏ Quân Khu I, trong khi Danh Tướng Ngô Quang Trưởng của “Mùa Hè Đỏ Lửa” 1972, từng được thế giới biết đến và kính phục, luôn luôn nắm vững tình hình Quân Khu của ông, trong khi Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Khu 2, phải lớn tiếng cự lại Tổng Thống Thiệu trong hệ thống liên lạc Vô tuyến Siêu Tần Số, dù ông biết rằng làm như thế là có thể mất lon, phải ra trước Toà Án Quân Sự Mặt Trận. Tướng Phú đang sẵn sàng chờ địch tiến đánh Pleiku, vì ông biết rằng, đánh thì chưa chắc đã chết, nhưng tự dưng bỏ chạy thì chắc chắn cả lính lẫn dân đều phải chết bi thảm trong cảnh hỗn loạn, dưới những làn mưa bão pháo binh, hoả tiễn của cộng sản, tự do hoành hành mà không gặp sức chống trả.
Năm ngày sau, khi quân đội và dân chúng đang tháo chạy một cách thê thảm, hỗn loạn thì ông Thiệu lại ra lệnh cho Tướng Ngô Quang Trưởng là phải “Tử thủ thành phố Huế”. Tướng Ngô Quang Trưởng trả lời không thể nào làm được vì trước đó 5 ngày, ông Thiệu đã hạ lệnh rút bỏ Quân Khu I, quân đội và cả triệu dân chúng hỗn loạn rút chạy suốt 5 ngày rồi, làm sao mà trở lại vị trí cũ, tổ chức, phối trí lực lượng để mà “tử thủ Huế!”
-Ngày 24-3-1975: Thấy tình thế thuận lợi, cộng sản Hà Nội quyết định chính thức mở màn “Chiến dịch Hồ Chí Minh,” giao cho Tướng Văn Tiến Dũng một “thời khoá biểu” phải kịp thời đánh chiếm hoàn toàn Nam Việt Nam trước khi mùa mưa bắt đầu vào Tháng Năm. Muốn vậy, quân Bắc Việt phải vào chiếm Sài Gòn chậm nhất là tuần lễ cuối cùng của Tháng Tư, trước khi quân đội miền Nam có thể tái phối trí lực lượng hầu bảo vệ Sài Gòn và Quân Khu 4 ở miền Tây.
-Ngày 25-3-1975: Vào lúc này, dân chúng đông tới hàng triệu người. Họ không quên cảnh cộng sản tàn sát tập thể dân chúng cũng như viên chức chính quyền, nhân vật Đảng Phái vào dịp Tết Mậu Thân năm 1968, nên kéo nhau tràn xuống thành phố Đà Nẵng, lúc đó đang bị quân cộng sản tấn công từ xa bằng hoả tiễn 122 ly của Trung Cộng và đại bác 130 ly của Liên Xô.
Ông Thiệu còn ra lệnh: Không giữ được Huế thì cũng phải cố mà giữ lấy vùng duyên hải Đà Nẵng, coi như vị trí chiến lược làm đầu cầu cho quân đội Mỹ đổ bộ lên, một khi chính quyền Mỹ quyết định trở lại cứu vớt VNCH, đương đầu với cuộc xâm lăng đại quy mô của cộng sản. Tới lúc này mà còn hy vọng Mỹ trở lại cứu VNCH thì làm sao cho Tướng Ngô Quang Trưởng tuân lệnh được đây!
Hạ Viện Hoa Kỳ biểu quyết dự luật cấm các hoạt động quân sự của Hoa kỳ trên toàn lãnh thổ Đông Nam Á Châu. Dự luật này được lưỡng viện Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua ngày 21-9-1973. Kế theo đó, ngày 12-10-1973, Lưỡng Viện lại thông qua dự luật hạn chế quyền của Tổng Thống Mỹ trong việc đưa quân đội Hoa Kỳ ra ngoại quốc (sau bài học cay đắng tại Việt Nam).
-Ngày 29-4-1975: Cộng sản chiếm thành phố Đà Nẵng, đang rối loạn, mà chẳng tốn một viên đạn nào. Dân chúng tìm mọi cách thoát khỏi vùng này bằng mọi giá, chấp nhận chết chóc, đau đớn chia lìa trong máu và nước mắt…
Kẻ viết bài này kẹt lại Đà Nẵng, rồi cùng bạn bè đi tù cải tạo, vì trước đó phi đạo Đà Nẵng bị hoả tiễn Trung Cộng cầy nát, không sử dụng được nữa, trực thăng không có, tầu Hải Quân VNCH từ trong Nam kéo ra bãi biển Mỹ Khê, Quận 3 Đà Nẵng cứu nạn, nhưng đủ thứ người trốn chạy cộng sản giành nhau leo lên tầu bằng đủ mọi cách đã gây nên cảnh kinh hoàng, người già, trẻ con rơi xuống biển như những chiếc lá mùa thu.
Kẻ này phải vỗ vai Đại Úy Từ Khánh Sinh, Quản Đốc Quân Lao Đà Nẵng, cựu Đại Đội Trưởng nhẩy dù: “Không đi bằng cách này được! Mấy đứa trẻ này sẽ chết hết!“ Đại Úy Sinh kiếm được tay Nghĩa Quân, đàn em, hắn lôi cái thuyền nhỏ xíu dìm dưới nước lên và tính chuyện ra khơi, lên tầu Mỹ. Ngay tức khắc, hàng chục mũi súng AK của du kích địa phương đã chĩa vào cái thuyền: thuyền ra là bắn hết! Cả 2 chúng tôi cùng đi tù cải tạo với nhau nơi rừng sâu, núi thẳm ghê người!
Riêng phần mình, tôi làm luôn một lèo đi tù cải tạo 12 năm, 4 tháng 16 ngày, qua năm cái trại tù, trong khi bạn bè cùng cảnh ngộ thường chỉ bị giam giữ 5, 7, 9 năm là ra về…Thật là kinh khủng! Tôi đã từng sống trong nhà tù của Pháp, từng đi thanh tra trại tù của VNCH, coi trại tù của Mỹ qua truyền hình, báo in, báo điện tử, nhưng chưa thấy có thứ trại tù nào ghê gớm, kinh khủng, ác ôn, tàn bạo như nhà tù của cộng sản…
Điều an ủi cho tôi là trước đó chỉ non một ngày, nhân danh sĩ quan cấp chức cao nhất của 2 Tòa Án Quân Sự Mặt Trận Quân Khu I và Toà án Quân Sự Thường Trực Đà Nẵng còn có mặt, tôi ra lệnh mở cửa nhà tù, phóng thích vô điều kiện tất cả mọi quân phạm, bất kể sĩ quan hay hạ sĩ quan, binh sĩ, tiểu hay đại hình, xếp hàng, cứ 10 người một chạy ra khỏi Quân Lao, về lo chuyện gia đình trước họa cộng sản đang tràn đến… Ai cũng có thân nhân, gia đình, ai cũng là người cả!
-Ngày 6 đến 15-4-1975: Hai Trung Đoàn thuộc Sư Đoàn 2 Bộ Binh VNCH cùng với Lữ Đoàn nhẩy dù được đổ xuống phi trường Phan Rang vào ngày 6 để hy vọng đánh trận phản công. Cộng sản thấy hơi khó ăn vì ngán quân nhẩy dù nên để cho tình hình yên tĩnh ba ngày. Thế là Lữ Đoàn nhẩy dù được bốc đi Xuân Lộc là nơi đang có trận đánh lớn giữa Sư Đoàn 18 Bộ Binh VNCH dưới quyền chỉ huy của Tướng Lê Minh Đảo với hai Sư Đoàn quân Bắc Việt. Thay thế cho Lữ Đoàn nhẩy dù thiện chiến, người ta đưa tới đó một đơn vị Biệt Động Quân. Lập tức quân cộng sản cho xe tăng T-54 của Liên Xô ào ạt tiến vào, chọc thủng phòng tuyến Phan Rang và chiếm đóng vùng này không khó khăn.
-Ngày 7-4-1975: Lê Đức Thọ, Ủy viên Bộ Chính Trị Cộng Sản, tới tổng hành dinh quân cộng sản ở Miền Nam, đóng tại Lộc Ninh để xem xét tình hình và quyết định kế hoạch cho giai đoạn chót của cuộc đánh chiếm miền Nam. Lúc này, cộng sản đã kiểm soát được 2/3 lãnh thổ Nam Việt Nam.
-Ngày 8 đến 21-4-1975: Sư Đoàn 18 Bộ Binh VNCH do Tướng Lê Minh Đảo chỉ huy, chống giữ oanh liệt trước sức tấn công vũ bão của hai Sư Đoàn cộng sản nhằm tiến chiếm Sài Gòn bằng cách phá vỡ phòng tuyến cuối cùng này.
Một Trung Đoàn thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh và Lữ Đoàn nhẩy dù từ Phan Rang được đưa vào tăng viện. Tướng cộng sản Văn Tiến Dũng phải tung vào mặt trận này hai Sư Đoàn nữa là bốn Sư Đoàn tất cả để hòng dứt điểm càng sớm càng tốt. Đánh chiếm miền Nam mùa xuân năm 1975, đây là mặt trận duy nhất quân cộng sản gặp sức chiến đấu dũng mãnh, oanh liệt của quân đội VNCH. Cộng sản phải dùng số quân 4 đánh 1.
-Tướng Lê Minh Đảo chỉ huy trận đánh Xuân Lộc – trong lúc thế mạnh mọi mặt đang ở phía chính họ. Tướng Homer Smith, tùy viên Quốc Phòng Mỹ tại Sài Gòn, ngày 13, đã gửi 1 bức điện văn cho Tướng George S. Brown, tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham Mưu Hoa Kỳ ca ngợi ý chí và tinh thần chiến đấu can đảm, dũng mãnh tuyệt vời của Quân Đội VNCH, dù những bất lợi đang đè nặng lên vai họ. Tướng Smith, sau khi theo dõi cuộc chiến đấu tại Xuân Lộc, đã nói: “Sự dũng cảm và chiến đấu anh hùng của quân chính phủ Miền Nam, kể cả địa phương quân tỉnh Long Khánh đã chứng tỏ họ chiến đấu giỏi hơn đối phương của họ rất nhiều…” Nếu Ông Nguyễn Văn Thiệu không ra lệnh bỏ 2 Quân Khu 1 và 2 ngay từ lúc chưa đánh nhau chi cả thì quân đội miền Nam Việt Nam sẽ có biết bao nhiêu trận đánh oanh liệt như thế này, và nếu chính quyền Mỹ không cố ý bỏ chạy khỏi Việt Nam thì làm sao cộng sản chiếm nổi Nam Việt Nam một cách dễ dàng như đã xẩy ra để cho quân đội và dân chúng miền Nam phải lâm cảnh khốn cùng như đã thấy trên khắp mọi ngả đường đất nước.
Cuối cùng phòng tuyến Xuân Lộc chỉ rơi vào tay quân cộng sản, đông đảo và hỏa lực mạnh gấp 4 lần, vào ngày 21-4-1975, khi Tướng Tư Lệnh Quân Khu 3 VNCH không muốn hy sinh trong thế tuyệt vọng, cả 1 Sư Đoàn 18 Bộ Binh anh dũng, thiện chiến trong hoàn cảnh bất lợi về tất cả mọi mặt nên đã ra lệnh cho Sư Đoàn này rút khỏi phòng tuyến đang trấn giữ.
-Ngày 21 đến 25-4-1975: Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bị áp lực từ nhiều phía phải tuyên bố từ chức, chuyển giao quyền hành cho Phó Tổng Thống Nguyễn Văn Hương để ra ngoại quốc, bỏ lại đằng sau: quê hương, chiến hữu và đồng bào của ông, là những gì thiêng liêng mà ông đã từng long trọng tuyên đọc lời thề khi nhậm chức tổng thống, cũng như trong các dịp quốc lễ là sẽ sống chết bảo vệ đến hơi thở cuối cùng.
-Ngày 23-4-1975: Tại Hoa kỳ, Gerald Rudolph Ford – tổng thống thứ 38, người duy nhất không hề được dân chúng, cử tri bầu, dù là chỉ một phiếu) nói “Chiến tranh Việt Nam kể như chấm dứt.” Dư luận hiểu rằng chính quyền Mỹ lúc đó đã buông tay và… tháo chạy bằng mọi giá, trong khi Liên Xô và Trung Cộng hồ hởi, phấn khởi là đã hoàn thành nhiệm vụ “Dứt điểm tiền đồn chống cộng cuả Mỹ tại Á Châu.”
-Ngày 28-4-1975: Bị áp lực nặng nề cũng từ nhiều phía, Tổng Thống Trần Văn Hương phải trao quyền hành cho tướng 4 sao Dương Văn Minh, người đã đóng vai chính trong vụ đảo chính lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm Tháng Mười Một năm 1963, để cho chính quyền Mỹ đổ quân tác chiến vào Nam Việt Nam và lãnh đạo cuộc chiến tranh ở đây theo kiểu “chiến tranh nhà giầu của Mỹ” nhưng hoàn toàn vô hiệu đối với kiểu “chiến tranh nhân dân – People’s War” không có mục tiêu, không trận tuyến, lẫn lộn với nhân dân của cộng sản.
Cộng sản không mạnh bằng Mỹ về vũ khí chiến tranh nhưng với tinh thần cuồng tín, liều mạng và hầu như luôn giữ thế tấn công trên các mặt trận, trong khi Mỹ quá mạnh nhưng luôn ở trong thế thụ động với các mục tiêu, đồn bót, nên thế thuận lợi lại luôn nghiêng về phía cộng sản.
Có những chiến lược gia danh tiếng của thế giới đã nêu câu hỏi: Mỹ có muốn và dám thắng trong cuộc chiến tranh này không?
-Nếu muốn và dám thắng, không e sợ Liên Xô và Trung Cộng, thì tại sao không giành lấy thế tấn công từ tay cộng sản? Tại sao không vừa phòng thủ ở miền Nam và đồng thời dư sức tấn công ồ ạt ra vùng hậu phương Bắc Việt của cộng sản?
Sức mạnh không quân, hải quân vô địch của Mỹ, cùng các loại hỏa tiễn tối tân yểm trợ cho một lực lượng lục quân , gồm bộ binh, nhẩy dù, thủy quân lục chiến, biệt động quân, thiết giáp, pháo binh chọn lọc của Mỹ và VNCH là dư sức đánh phá tan hoang các căn cứ quân sự, cơ sở chính quyền, kho tàng… không phải toàn bộ thì cũng là khắp vùng phía Nam Bắc Việt, cái hậu phương đang nuôi sống lực lượng cộng sản đã tràn vào miền Nam, tiếp tế nguồn sức mạnh tinh thần cho đạo quân xâm lược này. Miền Bắc bị bỏ trống gần như hoàn toàn, giao cho bộ đội “chủ lực miền – regional forces” trấn giữ. Mất hậu phương miền Bắc, cơ quan lãnh đạo cộng sản cùng với dân chúng miền Bắc không ngờ, lâm cảnh rối loạn hơn cả miền Nam thì lúc đó Liên Xô, là chính yếu và Trung Quốc liệu có cứu nổi miền Bắc hay không?
Thêm nữa, sau này, nhiều cựu phi công Mỹ từng lái phản lực cơ chiến đấu, viết sách, viết trên báo chí để chia sẻ nỗi đau buồn là: họ như đã bị trói tay sau lưng khi chiến đấu tại Việt Nam, không được phép thắng trận: họ thấy rõ xe cộ của cộng sản từng đoàn trên đường mòn Hồ Chí Minh, chuyển chở quân lính, vũ khí nặng, tiếp tế quân nhu thiết yếu cho chiến trường miền Nam, mà không được phép tấn công tiêu diệt, để cho cộng sản dễ dàng tiếp tế sức mạnh vào miền Nam, tiêu diệt chính quân đội Hoa Kỳ và bạn đồng minh VNCH.
Năm 2000, trở về thăm quê hương, phố phường, làng xóm cũ ở miền Bắc một lần duy nhất, kể từ khi bắt đầu xa cách Tháng Mười Một, 1946, tôi có nhiều dịp trò chuyện tâm tình với người thân ruột thịt đã và đang giữ những chức vụ quan trọng trong Đảng, về chính trị, quân sự cộng sản thì được hiểu một sự thật là: sự đánh phá của không quân Hoa Kỳ và Nam Việt Nam chỉ mới xẩy ra trong thời gian ngắn, và ở mức độ như vậy, để làm áp lực bắt cộng sản Hà Nội giữ thái độ đàng hoàng, nghiêm chỉnh trong cuộc “Hòa đàm ở Paris” mà hàng ngũ lãnh đạo cộng sản cấp Trung ương, thành thị đã rối tinh, rối mù, chưa có định hướng rõ ràng để bảo vệ an toàn lãnh thổ cũng như dân chúng hoảng loạn, bất ngờ, rất nguy hại cho cuộc chiến đấu trường kỳ đã tăng tới điểm cao nhất, có thể nổ tung lên bất cứ lúc nào. Nếu việc tấn công bằng không lực Mỹ và Nam Việt Nam chỉ ở cường độ đó nhưng kéo dài liên tục 1 tháng nữa thì không ai biết được cục diện của miền Bắc sẽ đi đến đâu.
Trở lại vấn đề, Tướng Dương Văn Minh lên làm tổng thống theo đúng với sự sắp xếp của Hà Nội, qua trung gian của người em ruột Dương Văn Nhựt, sĩ quan cao cấp của cộng sản, đã có liên lạc với Dương Văn Minh từ hồi Tướng Minh được Ông Diệm cho thăng trung tướng sau khi Tướng Minh đánh tan các lực lượng giáo phái vũ trang ở miền Tây. Chuyện đó bại lộ. Tướng Minh, vì có công trạng, và Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ, người bà con, cùng quê quán xin cho, nên được hai ông Diệm, Nhu tha tội, chỉ bị mất chức cầm quân, ngồi ghế Tổng Thanh Tra hữu danh nhưng vô thực.
Tổng Thống “đầu hàng” Dương Văn Minh luôn luôn phải nhận lệnh qua điện thoại với Ông Thích Trí Quang, một nhân vật trong hàng lãnh đạo tôn giáo, người gốc Bắc Việt, đã được cộng sản sử dụng vào vị trí “chuyên viên tôn giáo vận tử năm 1946,” hai lần bị Tây bắt từ hồi chiến tranh Việt-Pháp vì tình nghi hoạt động cho Việt Minh cộng sản, người đã lãnh đạo dân chúng đấu tranh tôn giáo lật đổ Ông Ngô Đình Diệm, đấu tranh tôn giáo chống chính quyền Thiệu – Kỳ – Có hồi 1966 ở Miền Trung Việt Nam.
Cuối cùng ông bị Tướng Không Quân Nguyễn Cao Kỳ, với cương vị thủ tướng, cho quân đội và quân cảnh từ trong Nam ra dẹp tan, bắt ông Thích Trí Quang cùng nhóm thân cận, nhốt lại, dẹp yên chuyện đấu tranh rối loạn lung tung, làm nát bét xã hội miền Nam, hoàn toàn chỉ có lợi cho cộng sản.
Tướng Dương Văn Minh, một tướng đánh giặc giỏi nhưng hoàn toàn không biết gì về chính trị, lại nhẩy ra làm tổng thống trong giai đoạn nước sắp mất, với một cổ hai tròng, nhận lệnh từ hai nơi (cả ông Thích Trí Quang lẫn đại diện cộng sản Hà Nội đều hứa hẹn với ông những điều tốt đẹp) thì làm được cái gì đây? Ông Minh làm tổng thống chỉ làm được có mỗi một việc: theo lệnh của cộng sản, đã chiếm xong dinh Độc Lập, lên tiếng tuyên bố “đầu hàng vô điều kiện” mà thôi.
Ôi! Giây phút xót xa, đau đớn cho biết bao nhiêu tâm hồn, nhất là những người quốc gia đã bao năm quyết tâm chống cộng sản Hà Nội để giữ vững Nam Việt Nam. Tôi cùng nhiều sĩ quan thân thiết xung quanh, hai tay ôm lấy mặt, nén chặt trong lòng, trong tim cho tiếng khóc đau xót khỏi bật ra, trong lúc đang bị tạm giam tại trại tập trung Vĩnh-Điện, Quảng Nam cùng với hàng chục ngàn người trong hoàn cảnh tan hàng, thua trận, bị cầm tù một cách đau buồn và tủi nhục.
Năm 1951, với tuổi 20, đang đi kháng chiến chống Pháp, tôi bị Tây bắt ở Huyện Tiên Hưng, Thái Bình lần thứ hai, đem về tập trung ở sân vận động tĩnh Thái Bình, rồi đưa về giam ở Nhà Máy Rượu, thành phố Nam – Định mà có sao đâu, coi là chuyện thường vì đấu tranh cho đại cuộc là như thế, không thấy đau buồn tủi nhục bằng hơn 20 năm chống cộng sản, bị cộng sản cầm tù, đưa đi cải tạo, rồi phải theo lệnh bộ đội cộng sản, dí súng vào sau lưng, bắt vỗ tay hoan hô khi nghe Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng… Thế là nước mất, nhà tan, đau buồn, uất hận vì… mất hết! mất hết! mất cả thể xác lẫn tâm hồn.
Xin trở lại: Rạng sáng Ngày 30 Tháng Tư, quân cộng sản tiến vào Sài Gòn, vẫn còn gặp vài ổ kháng cự lẻ tẻ. Dương Văn Minh cứ yên trí theo bài bản đã nhận được từ “cấp trên” qua điện thoại, ra đón tiếp quân “giải phóng” và sau đó “xin bàn giao chính quyền.” Viên đại tá chỉ huy quân cộng sản lúc đó quát vào mặt Dương Văn Minh: “Các anh còn cái gì nữa vào lúc này mà đòi bàn giao? Chỉ có chấp nhận đầu hàng vô điều kiện mà thôi!” Đại Tá cộng sản Bùi Tín (sau bỏ đi Pháp) lúc đó giữ vai chính ủy bên cạnh viên đại tá chỉ huy quân giải phóng, vào Dinh Độc Lập. Bùi Tín khôn ngoan, nhỏ nhẹ hơn nên nói: ” húng tôi chấp nhận việc đầu hàng của các ông. Các ông không có chi phải sợ cả. Người Mỹ là kẻ xâm lăng đã bị đánh bại. Nếu các ông là những người yêu nước thì hãy coi giờ phút này là niềm vui chung của dân tộc, và trên đất nước của chúng ta, chiến tranh đã chấm dứt.”
Buổi sáng hôm đó, Dương Văn Minh bị dẫn giải đến đài phát thanh để tuyên bố đầu hàng.
Chiến tranhchấm dứt, đất nước thống nhất nhưng dân chúng miền Nam không vui mừng, sung sướng, hạnh phúc mà lại xô nhau chạy đi mọi ngả, tìm cách thoát chạy khỏi chính quê hương, đất nước của mình để tránh họa cộng sản, bất kể mọi gian nguy, bị giết chóc, cướp bóc, hải tặc hãm hiếp, quăng xác xuống biển.
Chính quyền mới truy lùng, tiêu diệt, bắt bớ những kẻ đã phục vụ cho chế độ cũ, nhân vật đảng phái chính trị, tống họ vào những trại tập trung cải tạo ở các vùng rừng núi âm u, hiểm hóc, cách biệt hẳn với xã hội loài người. Nam Bộ là cái túi đựng người quá đông đảo mà lại không có rừng núi thích hợp cho việc thiết lập các trại cải tạo, vừa an toàn lại tiện cho việc khai thác có lợi nhiều cho nên cộng sản mới phải đưa số đông “kẻ thù” của họ ra Bắc, tống lên các trại cải tạo vùng Thượng Du Bắc Việt.
Cán bộ cộng sản từ lớn đến nhỏ, ngơ ngáo nhìn Sài Gòn và Nam Việt Nam trong cảnh xác xơ, buồn thảm nhưng vẫn không làm mất, không che dấu được sự phồn thịnh, phát triển quá cao so với thiên đàng hay địa ngục Bắc Bộ.
Cộng sản lớn nhỏ thi nhau vơ vét tài sản của kẻ bỏ chạy, của nhân dân Miền Nam “tay sai Mỹ Ngụy” đem về Bắc như những chiến lợi phẩm của một cuộc chiến thắng oai hùng. Sau này, có cơ hội tiếp xúc với người thân ở Bắc Việt Nam, từng giữ chức vụ quan trọng trong bộ máy chính quyền cộng sản thời gian này, tôi được biết mật lệnh của cộng sản Hà Nội lúc đó có những điểm rất kinh khủng: bắt nhốt hết mọi kẻ có khả năng chống cự, nổi dậy sau này, tịch thâu mọi loại vũ khí có tầm sát hại tập thể hay cá nhân, khi có dấu hiệu hay mầm mống biến động thì tất cả những kẻ ít nguy hiểm nhất cũng phải tập trung cải tạo.
Vì thế khi Trung Cộng tràn vào đánh phá 6 Tỉnh miền Bắc Việt Nam ngày 27 Tháng Hai, 1979 để “dạy cho cộng sản Hà Nội một bài học” thì ngay ngày hôm sau, tất cả mọi sĩ quan giải ngũ lâu hay mau, không đi cải tạo sau 30-4-1975, cũng phải nhốt đầu lại hết. Cán bộ, nhất là công an phải tìm cách dụ dỗ vợ con, làm áp lực để phá tan các gia đình sĩ quan đã đi cải tạo để lấy hết, vét hết, không cho lực lượng sĩ quan khi trở về, còn có thể làm chi được nữa, chỉ còn lo miếng cơm ăn cũng không nổi.
10h30 sáng ngày 30-4-1975, những người lính VNCH cởi áo lính nhưng còn đeo thẻ bài trên cổ đang di chuyển về hướng trung tâm Sài Gòn. Tất cả đều là con của những người Mẹ Việt Nam sinh ra. Bây giờ các anh ở đâu? Làm gì? Cuộc sống ra sao? (Hình: Facebook “Nguyễn Đạt”
Thân phận của một đất nước nhỏ bé đã có “ngàn năm nô lệ giặc Tầu – Trăm năm nô lệ giặc Tây” nhưng cũng có 900 năm độc lập, tự chủ, sau trận đánh thắng lẫy lừng của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng, đánh bại đạo quân xâm lược khổng lồ của nhà Nam Hán, lúc này lại như thế đó!
Đất nước Việt Nam cuối cùng chỉ là bãi chiến trường để hai phe đối nghịch ý thức hệ quốc tế tiêu thụ vũ khí chiến tranh và thử nghiệm chính sách: chính sách ngăn chặn (containment policy) của Mỹ chống lại chủ nghĩa bành trướng (expansionism) của phong trào cộng sản quốc tế. Có bao giờ những nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dám nghĩ rằng: Một ngày nào đó Hoa Kỳ phải chịu sự thua trận đầu tiên trong lịch sử, với cái giá quá cao, thê thảm như vậy không? Thê thảm đến nỗi Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn, Graham Martin, suýt nữa thì không kịp ôm lá cờ “Bách chiến bách thắng” chui vào phi cơ trực thăng để tháo chạy hay không?
Thật là đau đớn! Tuy nhiên, ở đây tôi cũng xin nói lên lời ghi ơn ông Đại Sứ Martin đã cương quyết và khéo léo chống lại kế hoạch của Hoa Thịnh Đốn lúc đó muốn di tản 6 – 7 ngàn người Mỹ, bị kẹt lại ở Sài Gòn vào lúc quân cộng sản chuẩn bị vào làm chủ vùng đất này, theo phương cách: đưa Thủy Quân Lục Chiến Mỹ vào Sài Gòn giữ vòng đai an ninh quanh khu vực Tòa Đại Sứ để phi cơ trực thăng từ Hạm Đội Thái Bình Dương liên tục bốc người Mỹ và một số nhân viên làm việc cho Tòa Đại Sứ và các cơ sở phụ thuộc của Mỹ mà thôi, không cho dân chúng Sài Gòn, Nam Việt Nam dính ké vào vụ di tản kinh hoàng này.
Ông Đại Sứ Martin khôn ngoan và ít nhiều nhân đạo, chống lại quyết định của Hoa thịnh Đốn với lý luận: sĩ quan, quân lính Nam Việt Nam còn đông đảo tại Sài Gòn và vùng phụ cận với tâm trạng tức giận lẫn bàng hoàng, họ còn đủ các loại vũ khí lớn nhỏ trong tay. Nếu người Mỹ di tản theo cách ích kỷ và tàn nhẫn đó thì những chiếc trực thăng cất cánh bay lên lập tức sẽ bị bắn hạ như trái cây chín rụng và cuộc chiến đẫm máu, tàn khốc giữa những chiến binh Nam Việt Nam còn lại và thủy quân lục chiến Mỹ bắt buộc phải xẩy ra, Sài Gòn và dân chúng vô tội sẽ lãnh nhiều hậu quả không cách nào lường trước được.
Giới truyền thông của Mỹ, trước và sau ngày Miền Nam sụp đổ, đa số sa vào mê hồn trận của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản, bị ảnh hưởng của phong trào phản chiến do Đảng Cộng Sản cò con ở Mỹ chủ trương và lãnh đạo, đánh giá Quân Đội VNCH qua hình ảnh những ngày rút quân, bỏ chạy tán loạn do lệnh của ông Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
Báo chí và nhiều nhân vật chính quyền Mỹ bị mặc cảm lần đầu tiên thua trận, mặc dầu là quân đội hùng mạnh, vượt trội về mọi mặt hỏa lực, phương tiện chiến tranh, nhưng lâm vào cái thế khó khăn, rối loạn khi phải đối đầu với cái thứ chiến tranh không trận tuyến rõ ràng, quân địch lẫn lộn với dân chúng, mục tiêu tìm chẳng ra, cho nên đã không tiếc lời đổ hết mọi tội lên đầu Quân Đội VNCH là thiếu tinh thần chiến đấu.
Họ đâu có biết Quân Đội VNCH chiến đấu trong hoàn cảnh khắc nghiệt ra sao, chiến đấu không ngưng nghỉ, phương tiện thiếu thốn chớ đâu có được chiến đấu trong hoàn cảnh “nhà giầu” như quân đội Mỹ ở Việt Nam lúc đó, được bảo vệ, yểm trợ một cách gần như tuyệt đối.
Họ đâu có biết chính quyền của ông Johnson ở Hoa Thịnh Đốn đổ quân vào Việt Nam, hòng tiêu diệt cộng sản ở đây trong vòng ba năm, nhưng lại làm cái việc kỳ quái, mà chỉ có giới tài phiệt Mỹ mới hiểu được. Đó! Bán hoặc cho cộng sản Liên Sô và các nước cộng sản chư hầu thực phẩm, máy điện toán, dụng cụ, hoá chất, động cơ máy bay phản lực, máy Radar, nhà máy chế tạo xe cộ, súng đạn, để rồi tất cả những thứ đó lại đổ lên quân cảng Hải Phòng, đem vào chiến trường Miền Nam để giết lính Mỹ và VNCH! Chỉ có Trời mới hiểu nổi!
Quân Đội VNCH nói chung, đã chiến đấu rất anh dũng, kiên cường, bất chấp mọi trở ngại, khó khăn, thiếu thốn. Miền Nam sụp đổ, nhiều Tướng Lãnh: Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng… và nhiều sĩ quan cao cấp khác đã tự sát trong khung cảnh vô cùng oanh liệt, chưa từng có trong quân đội một quốc gia nào trên thế giới.
Họ không chịu đầu hàng hay để bị bắt làm tù binh. Hàng triệu quân nhân, viên chức chính phủ, nhân vật đảng phái chính trị bị nhốt vào các trại tù cải tạo khổng lồ nơi rừng thiêng, nước độc, dân chúng ồ ạt bỏ nước ra đi, bỏ hết tài sản, không kể sống chết, thảm họa kinh hoàng trên biển cả… là những vấn đề vượt quá khả năng và tầm tay của người Việt Miền Nam chúng ta. Chỉ có các Đấng thiêng liêng, chỉ có lịch sử mới hiểu được mà thôi!
***
Điều đáng mừng cho chúng ta là càng ngày, dân chúng Hoa Kỳ cũng như thế giới loài người càng hiểu ra sự thật của cuộc chiến tranh Việt Nam (mà có những nhà chính trị, giáo sư đại học lẩm cẩm kêu là cuộc nội chiến, tức là người Việt Nam đánh lộn với nhau) một bài học đắt giá, quý báu cho người Việt Nam, cho siêu cường quốc Hoa Kỳ và tất cả các quốc gia nhược tiểu khác trên thế giới. Nước nhỏ yếu mà chỉ biết trông cậy, giao tất cả vận mệnh dân tộc mình vào tay một nước lớn mạnh khác lo hộ hoàn toàn thì nhiều chuyện nguy hiểm bắt buộc sẽ phải đến.
Cho đến ít lâu sau, Tháng Ba, 2006, một số các nhân vật chính trị, các giáo sư sử học, chính trị học mới tụ họp nhau lại ở Boston để tìm ra phần nào những sai lầm, thiếu sót của chính quyền Mỹ trong cuộc chiến Việt Nam, như đã nói sơ lược ở trên, trong khuôn khổ hạn hẹp của một bài báo, không phải là một cuốn sách, hầu cải thiện tình trạng bế tắc, hiểm nghèo, sa lầy của cuộc chiến tranh tại Iraq giữa một siêu cường quốc (superpower) hàng đầu của thế giới loài người với một quốc gia nhỏ bé, tầm thường, đã bị thương nặng trong cuộc chinh phạt thần tốc (lighting-speed expedition) của lực lượng đồng minh, dân chủ, tự do mà chính yếu là Hoa Kỳ, vào năm 1991 trong vụ trừng phạt Iraq xâm lăng Kuwait, cái mỏ dầu hỏa béo bở của vùng Trung Đông.
Chúng ta có quyền hy vọng ở tương lai: thế hệ trẻ Việt Nam, những người yêu nước trong cũng như ngoài nước, với trình độ kiến thức, hiểu biết rộng rãi về “Tiến trình của nhân loại – Process of Human Society,” hiểu biết về khoa học, kỹ thuật, nhất là với niềm tự hào của một dân tộc tuy nhỏ bé, gần như suốt đời này qua đời khác, luôn luôn bị xâm lăng, thống trị dã man, tàn bạo, nhưng không bao giờ đánh mất niềm tin vào Tổ Quốc, từng có những trang sử oanh liệt của Ngô Quyền, Lê Lợi, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Quang Trung Nguyễn Huệ… sẽ mãi mãi muôn đời có mặt trong cộng đồng thế giới tự do, tiến bộ và thật sự văn minh.
QUỐC HẬN 50 NHỚ HAY QUÊN?
-Lại thêm một lần dân Việt ngậm ngùi tưởng niệm Quốc Hận 30 tháng 4! Thật buồn đến nghẹn lời, nhức buốt tâm can như Lương Trần đã thốt lên “ Hận lũ con hoang hận ngút trời. Hận này sao viết hết thành lời!”
Có người nghĩ rằng, nên quên quá khứ để hướng về tương lai. Thậm chí, có người còn lớn tiếng ca ngợi những thành quả của bên thắng cuộc trong nỗ lực dành lại độc lập và thống nhất đất nước. Thật mỉa mai! Xin hỏi Việt nam hôm nay có thật sự độc lập và thống nhất không? Ngày 30 tháng Tư có thật sự là ngày giải phóng, hay chỉ là ngày quốc nhục khi tự do rẫy chết và dân chủ bị nhận chìm trong địa ngục đỏ?
Hãy nghe Dương Thu Hương, người đã theo “đoàn quân chiến thắng” vào tiếp quản miền Nam, nghẹn ngào thốt lên khi nhìn thấy miền Nam bị cưỡng chiếm:
“Tôi khóc ngày 30 tháng Tư 1975 vì thấy nền văn minh đã thua chế độ man rợ”
Thêm nữa, làm sao quên được quá khứ? Làm sao quên được mối hận mất nước? Hình ảnh người chiến sĩ cộng hòa tức tưởi buông súng đầu hàng khi đạn đã lên nòng. Hình ảnh ngũ tướng anh hùng tuẫn tiết để bảo toàn danh dự. Hình ảnh người tù cải tạo vùi thân trong trại lao động khổ sai. Hình ảnh người thiếu nữ nhũn mềm trong tay hải tặc. Hình ảnh người mẹ cắt máu thay sữa cho con bú trên thuyền vượt biên…Tất cả còn đó như một tiếng nấc ngàn thu!
Năm mươi năm trôi qua, lịch sử vẫn chưa sang trang. Việt Nam tuy bên ngoài có vẻ hoành tráng với cao ốc, biệt phủ và những khu du lịch sang trọng hoa đèn rực sáng tại Đà Nẵng, Nha Trang, Phú Quốc.. Nhưng bên trong, tiếng nói dân chủ vẫn bị bóp nghẹt, lòng dân oán hận chất ngất trước những hành động đàn áp tự do và cướp đoạt tài sản của bạo quyền. Đất nước thống nhất mà lòng dân chia rẽ tột cùng. Chia rẽ Bắc Nam, chia rẽ giàu nghèo, chia rẽ giữa người dân bị trị xơ xác, đối lại với tập đoàn “con cháu Bác” ngồi mát ăn bát vàng, hưởng thụ trên xương máu mẹ già và thân xác những thiếu nữ trinh bạch! (Bùi Minh Quốc). Chế độ vẫn được gọi là chế độ của dân nghèo, nay nghiễm nhiên là chế độ của thiểu số tư bản đỏ, sống trên xương máu dân lành! Có thể nói Việt nam hôm nay tuy bên ngoài hoành tráng, nhưng bên trong đã thật sự bé lại trong tư duy và khí phách, như cô giáo Trần Thị Lam đã thổ lộ:
“Bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn
Bốn ngàn tuổi mà vẫn còn bú mớm
Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi..
Không phải chỉ có người dân bất mãn uất ức, mà chính những người cộng sản thức tỉnh cũng phải lên tiếng kết án chế độ bất nhân, như Bùi Tín, Trần Vàng Sao, Trần Đức Thạch:
Mới ngớ ra “Quân ta đánh dân mình!“
Miền nam giàu và dân sống văn minh
Không đói khát vật vờ như dân miền bắc…
Hận ngút trời đứa nào lừa tuổi xuân tôi coi dân mình là giặc!
Cũng tương tự, Phan Huy, người “bộ đội cụ Hồ” cũng đã nhận ra mình bị lừa, tiếp tay cho bọn xâm lăng:
Bây giờ miền Nam ta đã hiểu.
Người là xứ đất của Tự Do.
Chính ta mới kẻ cần giải phóng.
Ra khỏi xích xiềng họng Cộng nô !
Đặc biệt là Bùi Minh Quốc, thẳng thắn kêu gọi bộ đội cộng sản quay mũi súng chống lại bọn phản bội:
Các anh đâu rồi?
Những người tháng Tám
Chẳng nhẽ khoanh tay nhìn tấn trò bội phản
Dân tộc này bị vỡ nợ Tự Do?
Riêng những khuôn mặt trí thức thiên tả miền Nam đã phản bội chinh nghĩa quốc gia, “ăm cơm quốc gia thờ ma cộng sản” thì một số về cuối đã tỉnh ngộ, thú nhận mình đã lầm đường như Đoàn Văn Toại, Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Hiếu Đằng, chỉ tiếc cho Lý Chánh Trung, Trịnh Công Sơn, âm thầm ôm hận xuống tuyền đài..
Cũng cần nói thêm về hiểm họa đất nước bị Trung quốc xâm chiếm, với ý đồ biến Việt Nam thành một tỉnh bang của thiên triều! Nạn Hán hóa mỗi ngày một thâm độc và nguy hiểm hơn. Hoàng Sa Trường Sa Bản Giốc, Ải Nam Quan vẫn nằm trong tay ngoại tặc..Thái độ thân Trung cộng của nhà cầm quyền cộng sản bao năm qua thực đáng lên án, và lịch sử sẽ không tha thứ cho tập đoàn thái thú hôm nay..
Tại hải ngoại, tuy cờ vàng đã tung bay phất phới khắp nơi, nhưng công cuộc đấu tranh phục quốc của dân Việt không còn hứng khởi như buôi ban đầu, với quyệt tâm và nỗ lực kháng chiến mở đường về. Đáng buồn hơn, một số người Việt lưu vong lại bị tha hóa, quên cội xa nguồn, đánh mất căn cước tị nạn cộng sản của mình. Thậm chí, có những khuôn mặt trí thức khoa bảng, những cựu sĩ quan cao cấp Việt Nam Cộng Hòa, và những cơ quan truyền thông thiên tả, đã vô tình hay hữu ý cổ võ cho hòa hợp hòa giải với cộng sản, hay hơn nữa, kêu gọi “khúc ruột ngàn dặm” hợp tác với tà quyền xây dựng xã hội chủ nghĩa đúng theo tinh thần Nghị Quyết 36 của Hà Nội! Đó là chưa kể những doanh nhân về Việt Nam làm ăn với cộng sản, tiếp tay xây dựng chế độ, và hãy nhìn vào số tiền khổng lồ người Việt hải ngoại gửi về Việt Nam giúp gia đình hằng năm lên tới mấy chục tỷ Mỹ Kim và tính thử bao nhiêu phần trăm lọt vào tay tà quyền thì biết người Việt đã tiếp tay nuôi sống chế độ thế nào! Trách đồng minh phản bội, trách kẻ thù xâm lăng, nhưng cũng phải trách mình thiếu quyết tâm tranh đấu giải thể chế độ cộng sản, tà thuyết đã lỗi thời, đi ngược với trào lưu dân chủ toàn cầu và hướng tiến của nhân loại..
Trong bối cảnh không mấy thuận lợi đó, công cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ của dân Việt càng khó khăn hơn, đòi hỏi nhiều quyết tâm và nghị lực hơn. Đối đầu với thù trong giặc ngoài, thiết tưởng sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định trong cuộc vận động dân chủ hóa Việt Nam.
Câu hỏi căn bản là dân Việt phải làm gì? Hẳn nhiên, chúng ta không thể trông chờ người cộng sản thay đổi bản chất, hay hy vọng ngoại bang giúp đỡ giải thể chế độ cộng sản hiện nay. Dân Việt phải tự cứu lấy mình, phải tự đứng vững trên đôi chân của mình và vươn lên xứng với uy danh “Việt” là trổi vượt và vượt thắng không ngừng. Dân Việt đã chiến thắng kẻ thù phương Bắc với Trưng Triệu, Hưng Đạo Lê lợi Quang Trung. Dân Việt đã thắng kẻ thù phương Tây với Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Cường Để, Nguyễn Trường Tộ..Dân Việt cũng đã kiên cường chống lại kẻ nội thù là cộng sản Việt Nam với bao xương máu và tim óc với chính nghĩa sáng chói và tinh thần bất khuất, nhưng đã bị đồng minh bán đứng một cách oan uổng!
Thiết tưởng dân Việt cần nhìn vào Do Thái và Ukraine để học bài học tự lập tự cường. Do Thái, một quốc gia nhỏ bé giữa khối Ả rập thù nghịch bao la, và không thiếu những cường quốc muốn xóa bỏ Do Thái trên bản đồ thế giới, nhưng dân Do Thái đã kiên cường đứng lên bảo vệ chủ quyền và lãnh thổ. Do Thái tồn tại và đang vươn lên như ngọn hải đăng dân chủ tại Trung Đông.
Còn Ukraine, phải nói là một vết son lịch sử cận đại. Bị Nga xé bỏ hiệp ước Budapest, xâm lăng Uktaine trước thái độ khiếp nhược của Hoa Kỳ và Liên Âu, nhưng dân Ukraine đã cương quyết đứng lên bảo vệ đất tổ. Ukraine đang bẻ gãy gọng kìm của Nga và đang đánh thức thế giới, nhất là Liên Âu, trước mộng xâm lăng của bạo quyền Cẩm Linh với tội ác chống nhân loại..
Hôm nay, lịch sử vẫn chưa sang trang, nhưng cuộc chiến còn tiếp tục một cách quyết liệt cho đến khi cánh cửa dân chủ rộng mở và dân Việt vui hưởng tự do thái bình. Sức mạnh dân tộc tuy còn âm ĩ, nhưng ý chí quật cường của dân tộc với truyền thống anh hùng vẫn ngấm ngầm kết tụ. Một chân lý căn bản không thể lay chuyển, là dân tộc Việt mãi trường tồn và vươn lên với ý chí Phù Đổng, thần khí Diên Hồng, ngọn lửa Bến Nghé và con tim Lạc Hồng. Tiếng trống thúc quân và tiếng kèn nổi lửa sẽ vang vọng khắp mọi miền đất nước, thổi bùng cơn bão lửa cách mạng, đưa dân Việt tới thắng lợi cuối cùng. Cơn bão lửa Nguyễn Chí Thiện tiên báo đang âm ỉ châm ngòi. Ngày “tã trắng thắng cở hồng” sẽ không còn xa. Dân tộc Việt sẽ thay niềm đau Quốc Hận bằng niềm vui chiến thắng, cùng hân hoan chào đón dân chủ tự do thanh bình..Việt Nam minh châu trời Đông!
(Ngô Quốc Sĩ)
Chuyện Di Tản 1975
(Tiểu Tử)
-Tôi không có đi di tản hồi những ngày cuối tháng tư 1975 nên không biết cảnh di tản ở Sài gòn ra làm sao. Mãi đến sau nầy, khi đã định cư ở Pháp, nhờ xem truyền hình mới biết !
Sau đây là vài cảnh đã làm tôi xúc động, xin kể lại để cùng chia sẻ…
Chuyện 1
Ở bến tàu, thiên hạ bồng bế nhau, tay xách nách mang, kêu réo nhau ầm ĩ, hớt hơ hớt hải chạy về phía chiếc cầu thang dẫn lên bong một chiếc tàu cao nghều nghệu. Cầu thang đầy người, xô đẩy chen lấn nhau, kêu gọi nhau, gây gổ nhau… ồn ào. Trên bong tàu cũng đầy người lố nhố, giành nhau chồm lên be tàu để gọi người nhà còn kẹt dưới bến, miệng la tay quơ ra dấu chỉ trỏ… cũng ồn ào như dòng người trên cầu thang !
Giữa cầu thang, một bà già. Máy quay phim zoom ngay bà nên nhìn thấy rõ : bà mặc quần đen áo túi trắng đầu cột khăn rằn, không mang bao bị gì hết, bà đang bò nặng nhọc lên từng nấc thang. Bà không dáo dác nhìn trước ngó sau hay có cử chi tìm kiếm ai, có nghĩa là bà già đó đi một mình. Phía sau bà thiên hạ dồn lên, bị cản trở nên la ó ! Thấy vậy, một thanh niên tự động lòn lưng dưới người bà già cõng bà lên, xóc vài cái cho thăng bằng rồi trèo tiếp.
Chuyện chỉ có vậy, nhưng sao hình ảnh đó cứ đeo theo tôi từ bao nhiêu năm, để tôi cứ phải thắc mắc : bà già đó sợ gì mà phải đi di tản ? Con cháu bà đâu mà để bà đi một mình ? Rồi cuộc đời của bà trong chuỗi ngày còn lại trên xứ định cư ra sao ? Còn cậu thanh niên đã làm môt cử chỉ đẹp – quá đẹp – bây giờ ở đâu ?... Tôi muốn gởi đến người đó lời cám ơn chân thành của tôi, bởi vì anh ta đã cho tôi thấy cái tình người trên quê hương tôi nó vẫn là như vậy đó, cho dù ở trong một hoàn cảnh xô bồ hỗn loạn như những ngày cuối cùng của tháng tư 1975…
Chuyện 2
Cũng trên chiếc cầu thang dẫn lên tàu, một người đàn ông tay ôm bao đồ to trước ngực, cõng một bà già tóc bạc phếu lất phất bay theo từng cơn gió sông. Bà già ốm nhom, mặc quần đen áo bà ba màu cốt trầu, tay trái ôm cổ người đàn ông, tay mặt cầm cái nón lá. Bà nép má trái lên vai người đàn ông, mặt quay ra ngoài về phía máy quay phim. Nhờ máy zoom vào bà nên nhìn rõ nét mặt rất bình thản của bà, trái ngược hẳn với sự thất thanh sợ hãi ở chung quanh !
Lên gần đến bong tàu, bỗng bà già vuột tay làm rơi cái nón lá. Bà chồm người ra, hốt hoảng nhìn theo cái nón đang lộn qua chao lại trước khi mất hút về phía dưới. Rồi bà bật khóc thảm thiết…
Bà già đó chắc đã quyết định bỏ hết để ra đi, yên chí ra đi, vì bà mang theo một vật mà bà xem là quí giá nhứt, bởi nó quá gần gũi với cuộc đời của bà : cái nón lá ! Đến khi mất nó, có lẽ bà mới cảm nhận được rằng bà thật sự mất tất cả. Cái nón lá đã chứa đựng cả bầu trời quê hương của bà, hỏi sao bà không xót xa đau khổ ? Nghĩ như vậy nên tôi thấy thương bà già đó vô cùng. Tôi hy vọng, về sau trên xứ sở tạm dung, bà mua được một cái nón lá để mỗi lần đội lên bà sống lại với vài ba kỷ niệm nào đó, ở một góc trời nào đó của quê hương…
Chuyện 3
Cũng trên bến tàu nầy. Trong luồng người đi như chạy, một người đàn bà còn trẻ mang hai cái xắc trên vai, tay bồng một đứa nhỏ. Chắc đuối sức nên cô ta quị xuống. Thiên hạ quay đầu nhìn nhưng vẫn hối hả đi qua, còn tránh xa cô ta như tránh một chướng ngại vật nguy hiểm ! Trong sự ồn ào hỗn tạp đó, bỗng nghe tiếng được tiếng mất của người đàn bà vừa khóc la vừa làm cử chỉ cầu cứu. Đứa nhỏ trong tay cô ta ốm nhom, đầu chờ vờ mắt sâu hõm, đang lả người về một bên, tay chân xụi lơ. Người mẹ - chắc là người mẹ, bởi vì chỉ có người mẹ mới ôm đứa con quặt quẹo xấu xí như vậy để cùng đi di tản, và chỉ có người mẹ mới bất chấp cái nhìn bàng quan của thiên hạ mà khóc than thống thiết như vậy - người mẹ đó quýnh quáng ngước nhìn lên luồng người, tiếp tục van lạy cầu khẩn.
Bỗng, có hai thanh niên mang ba lô đi tới, nhìn thấy. Họ dừng lại, khom xuống hỏi. Rồi họ ngồi thụp xuống, một anh rờ đầu rờ tay vạch mắt đứa nhỏ, họ nói gì với nhau rồi nói gì với người đàn bà. Thấy cô ta trao đứa bé cho một anh thanh niên. Anh nầy bồng đứa nhỏ úp vào ngực mình rồi vén áo đưa lưng đứa nhỏ cho anh kia xem. Thằng nhỏ ốm đến nỗi cái xương sống lồi lên một đường dài…
Anh thứ hai đã lấy trong túi ra chai dầu từ lúc nào, bắt đầu thoa dầu rồi cạo gió bằng miếng thẻ bài của quân đội.
Thiên hạ vẫn rần rần hối hả đi qua. Hai thanh niên nhìn về hướng cái cầu thang, có vẻ hốt hoảng. Họ quay qua người đàn bà, nói gì đó rồi đứng lên, bồng đứa nhỏ, vừa chạy về phía cầu thang vừa cạo gió ! Người mẹ cố sức đứng lên, xiêu xiêu muốn quị xuống, vừa khóc vừa đưa tay vẫy về hướng đứa con. Một anh lính Mỹ chợt đi qua, dừng lại nhìn, rồi như hiểu ra, vội vã chạy lại đỡ người mẹ, bồng xóc lên đi nhanh nhanh theo hai chàng thanh niên, cây súng anh mang chéo trên lưng lắc la lắc lư theo từng nhịp bước….
Viết lại chuyện nầy, mặc dù đã hơn ba mươi năm, nhưng tôi vẫn cầu nguyện cho mẹ con thằng nhỏ được tai qua nạn khỏi, cầu nguyện cho hai anh thanh niên có một cuộc sống an vui tương xứng với nghĩa cử cao đẹp mà hai anh đã làm. Và dĩ nhiên, bây giờ, tôi nhìn mấy anh lính Mỹ với cái nhìn có thiện cảm
Chuyện 4
Cũng trên bến tàu. Cầu thang đã được kéo lên. Trên tàu đầy người, ồn ào. Dưới bến vẫn còn đầy người và cũng ồn ào. Ở dưới nói vói lên, ở trên nói vọng xuống, và vì thấy tàu sắp rời bến nên càng quýnh quáng tranh nhau vừa ra dấu vừa la lớn, mạnh ai nấy la nên không nghe được gì rõ rệt hết !
Máy quay phim zoom vào một người đàn ông đứng tuổi đang hướng lên trên ra dấu nói gì đó. Bên cạnh ông là một thằng nhỏ cỡ chín mười tuổi, nép vào chân của ông, mặt mày ngơ ngác. Một lúc sau, người đàn ông chắp tay hướng lên trên xá xá nhiều lần như van lạy người trên tàu, gương mặt sạm nắng của ông ta có vẻ rất thành khẩn. Bỗng trên tàu thòng xuống một sợi thừng cỡ nửa cườm tay, đầu dây đong đưa. Mấy người bên dưới tranh nhau chụp. Người đàn ông nắm được, mỉm cười sung sướng, vội vã cột ngang eo ếch thằng nhỏ. Xong, ông đưa tay ra dấu cho bên trên. Thằng nhỏ được từ từ kéo lên, tòn ten dọc theo hông tàu. Nó không la không khóc, hai tay nắm chặt sợi dây, ráng nghiêng người qua một bên để cúi đầu nhìn xuống. Người đàn ông ngước nhìn theo, đưa tay ra dấu như muốn nói : « Đi, đi ! Đi, đi ! ». Rồi, mặt ông bỗng nhăn nhúm lại, ông úp mặt vào hai tay khóc ngất ! Bấy giờ, tôi đoán ông ta là cha của thằng nhỏ đang tòn ten trên kia… Không có tiếng còi tàu hụ buồn thê thiết khi lìa bến, nhưng sao tôi cũng nghe ứa nước mắt
Không biết thằng nhỏ đó – bây giờ cũng đã trên bốn mươi tuổi -- ở đâu ? Cha con nó có gặp lại nhau không ? Nếu nó còn mạnh giỏi, tôi xin Ơn Trên xui khiến cho nó đọc được mấy dòng nầy…
Cảm Tạ Miền Nam
(bài thơ của một thi nhân Miền Bắc)
(Phan Huy)
Cảm Tạ Miền Nam
Đã từ lâu, tôi có điều muốn nói
Với Miền Nam , miền đất mới thân quen
Một lời cảm ơn tha thiết chân tình
Của Miền Bắc, xứ ngàn năm văn vật.
Tôi còn nhớ sau cái ngày "thống nhất"
Tôi đã vào một xứ sở thần tiên
Nếp sống văn minh, dân khí dịu hiền
Cơm áo no lành, con người hạnh phúc.
Tôi đã ngạc nhiên với lòng thán phục
Mở mắt to nhìn nửa nước anh em
Mà đảng bảo là bị lũ nguỵ quyền
Áp bức, đoạ đày, đói ăn, khát uống.
Trước mắt tôi, một Miền Nam sinh động
Đất nước con người dân chủ tự do
Tôi đã khóc ròng đứng giữa thủ đô
Giận đảng giận đoàn bao năm phỉnh gạt.
Sinh ra lớn lên sau bức màn sắt
Tôi chẳng biết gì ngoài bác, đảng "kính yêu"
Xã hội sơ khai, tẩy não, một chiều
Con người nói năng như là chim vẹt.
Mở miệng ra là: "Nhờ ơn bác đảng
Chế độ ta ưu việt nhất hành tinh
Đuốc soi đường chủ nghĩa Mac Lenin
Tiến nhanh tiến mạnh lên thiên đường vô sản."
Hai mươi mốt năm trên đường cách mạng
Xã hội thụt lùi người kéo thay trâu
Cuộc sống xuống thang tính bằng tem phiếu
Nhân phẩm con người chẳng khác bèo dâu.
Cảm tạ Miền Nam phá màn u tối
Để tôi được nhìn ánh sáng văn minh
Biết được nhân quyền, tự do dân chủ
Mà đảng từ lâu bưng bít dân mình.
Cảm tạ Miền Nam khai đường chỉ lối
Đưa tôi trở về tổ quốc thiêng liêng
Của Hùng Vương, quốc tổ giống Rồng Tiên
Chớ không là Cac Mac và Le nin ngoại tộc.
Cảm tạ Miền nam mở lòng khai sáng
Đưa tôi hội nhập cùng thế giới năm châu
Mà trước đây tôi có biết gì đâu
Ngoài Trung quốc và Liên xô đại vĩ
Cảm tạ Miền Nam đã một thời làm chiến sĩ
Chống lại Cộng nô cuồng vọng xâm lăng
Hầu giúp cả nước thoát bầy ác quỷ
Dù không thành công cũng đã thành nhân.
Chuyện người con gái có tên ‘Nguyễn Thị Di Tản’
(Hoàng Thị Tố Lang)
-Tôi là họ Nguyễn. Chỉ riêng họ Nguyễn đã chứng tỏ tôi là người Việt Nam. Nhưng lúc rời Việt Nam tôi chỉ là cái bào thai trong bụng mẹ, theo mẹ trên đường di tản và chào đời trên đảo Guam. Từ ngày ấy, tên tôi là Nguyễn Thị Di Tản.
Đến nay 50 năm qua, tôi đã trưởng thành nơi miền đất tạm dung của một tỉnh lỵ miền Tây Canada. Thành phố Winnipeg, buồn hắt hiu như tâm sự “Người Di Tản Buồn” - bản nhạc của nhạc sĩ Nam Lộc mà mẹ rất yêu thích. Ngày còn bé, bằng bài hát ấy mẹ đã ru tôi ngủ. Riết rồi tôi quen với từng lời ca tiếng nhạc. Mẹ nói đêm nào không nghe bài hát ấy thì tôi không ngủ.
Đến lúc tôi bập bẹ biết nói, mẹ dạy tôi hát. Tôi vừa quấn quít bên mẹ vừa đỏ đẻ hát những câu cuối cùng: “
Cho tôi xin lại một lần, ở nơi tôi dừng quân cũ.
Cho tôi xin lại bìa rừng, nơi từng chiến đấu bên nhau
Cho tôi xin một lời chào, chào bao nhiêu người đã khuất
Cho tôi xin một mộ phần, bên ngàn chiến hữu của tôi!”.
Bạn bè đến chơi, mẹ đem “con sáo” của mẹ ra khoe, bảo tôi hát. Mỗi lần hát xong các bạn của mẹ đều rơm rớm nước mắt. Có lần tôi thỏ thẻ hỏi: “Sao con hát hay mà mẹ với các bác lại khóc?” Mẹ ôm tôi vào lòng và nói: “Bao giờ lớn lên, con sẽ hiểu”.
Trí óc non nớt của tôi mơ hồ cảm nhận có điều khác thường ở mẹ, một sự mất mát lớn lao trong đời mẹ. Những lúc rảnh, sau giờ cơm chiều mẹ dạy tôi nói:
- Con là người nước nào?
- Dạ thưa, con là người Việt Nam.
- Con tên gì?
- Con tên là Di Tản.
- Con có yêu nước Việt Nam không?
- Con yêu Việt Nam lắm, vì đó là quê hương của con.
Tôi đã thuộc nằm lòng những câu mẹ dạy. Tôi đã quen với cái tên Di Tản, thấy nó ngồ ngộ, dễ thương làm sao á.
Khi tôi 5 tuổi, mẹ dắt tôi đến trường gần nhà ghi tên đi học.
Lần đầu tiên đến trường, một khung cảnh mới, người mới. Các học sinh cùng lớp với tôi hoàn toàn là những khuôn mặt xa lạ.Cô giáo cũng thế. Lúc mẹ chào cô ra về, tôi ở lại trường với tâm trạng thật lạc lõng, bơ vơ. Tôi muốn khóc. Tôi ngồi cô đơn trong góc lớp. Cô giáo rất trẻ, đến bên tôi nhỏ nhẹ hỏi:
“What is your name?” (Tên con là gì?)
Tôi cúi mặt, bặm môi chừng như rướm máu, lí nhí đáp bằng cái giọng Việt Nam đặc sệt: “Dạ .. Di Tản”.
Cô giáo chừng như không hiểu, xem lại quyển sổ và nói: “Your name is Đaithen”. Tôi lắc đầu và lặp lại “Di Tản”. (DiTan). Cả lớp rộ lên cười. Và tôi bật khóc!
Sau buổi học, mẹ đón tôi về. Suốt quãng đường về nhà tôi lặng thinh, không nói điều gì. Mẹ âu yếm hỏi:
- Con đi học có vui không?
Chừng như chỉ chờ mẹ hỏi, tôi òa lên khóc và nói:
- Sao mẹ không đặt cho con cái tên nào dễ kêu như Helen, Cindy hay Linda, như tụi nó mà lại đặt tên là Di Tản? Cô giáo đọc không được tên con, mấy đứa cùng lớp tụi nó chọc ghẹo con!
Mẹ tôi dịu dàng, từ tốn bảo:
- Con có biết cả nước Canada có biết bao nhiêu là Helen, là Cindy không? Còn tên Di Tản chỉ có mỗi mình con. Con không thấy con đặc biệt sao? Con phải hãnh diện vì cái tên rất là Việt Nam của con mới phải chứ!
Tôi nũng nịu pha chút hờn dỗi:
- Mà cô giáo đọc là Đaithen. Mẹ thấy có kỳ không?
Mẹ trìu mến đưa tay vuốt tóc tôi, hiền hòa khẽ bảo:
- Tại cô không biết cách phát âm của người Việt mình thôi. Con phải đọc lại cho cô biết, rồi từ từ cô sẽ đọc đúng mà!
Giọng mẹ thiết tha hơn, chùng xuống, sũng đầy nước mắt:
- Mẹ đã mất tất cả rồi, con ơi! Chỉ còn cái tên Việt Nam mà mẹ gởi cho con, con biết không?
Đầu óc của một đứa bé lên năm làm sao hiểu được hết những gì mẹ nói, song tôi biết mẹ buồn lắm. Có một cái gì làm mẹ khổ tâm lắm. Tôi cảm thấy ân hận. Tôi ôm mẹ hôn và nói:
- Con xin lỗi mẹ. Con làm mẹ buồn lắm phải không?
Tôi thấy mắt mẹ long lanh ngấn lệ:
- Không phải đâu, con của mẹ ngoan lắm!
Đó là chuyện ngày tôi 5 tuổi. Mãi cho đến những năm sau này, tên tôi vẫn là một đề tài cho lũ bạn chọc ghẹo. Nhưng chọc ghẹo cho vui chớ không có ác ý nào cả.
Lúc vào Highschool (Trung học) tôi đã lớn rồi. Tôi hiểu những u uất của đời mẹ và thương mẹ hơn bao giờ hết. Thấm thoát tôi đã là cô gái 18. Soi gương tôi cũng biết mình đẹp lắm. Mẹ không cho tôi cắt tóc ngắn. Cả trường con gái, mái tóc dài chấm lưng với khuôn mặt Á Đông của tôi vẫn là một đề tài nổi bật nhất. Lại thêm cái tên Di Tản nữa. Lúc này tôi không còn buồn mỗi lần bị giáo sư đọc trật tên. Bạn bè tôi, những đứa quen nhau từ lớp mẫu giáo đến giờ đã biết cách phát âm tên tôi đúng lắm. Tụi nó bỏ dấu còn lơ lớ nhưng tạm được.
Nhưng mỗi lần bắt đầu một niên học mới, tên tôi lại là một tràng cười cho lũ bạn cùng lớp mỗi khi giáo sư mới gọi tên tôi. Giáo sư nào cũng thế, ngập ngừng hồi lâu mới đọc. Tôi cũng không nín cười được cái giọng như ngọng nghịu của một giáo sư Canada, đọc cái tên lạ hoắc chưa bao giờ nghe thấy. Trên tay cầm bài test của tôi, ngập ngừng rồi thầy gọi: “Đai then”. Cả lớp ồ lên: “Oh, my god”. Giáo sư lúng túng, đảo mắt nhìn quanh. Cả lớp nhao nhao như bầy ong vỡ tổ. Chừng như tụi nó thích những dịp như thế để câu giờ, “nhứt quỉ, nhì ma, thứ ba học trò” mà. Con Linda ngồi cạnh hích cùi chỏ vào tôi khẽ bảo:
- Di Tản, ổng đọc sai tên mầy rồi kìa, sửa cho ổng đi.
Tôi đỏ mặt. Tôi chưa kịp nói gì cả thì tụi con trai ngồi sau lưng tôi ào ào lên như chợ nhóm:
- Di Tản, Di Tản not Đai then!
Vị giáo sư lúc đó mới vỡ lẽ, biết là mình phát âm sai, ông gục gặc đầu nói xin lỗi và lập lại: “Di Tản, Di Tản”…
Lúc nầy tôi không còn nhút nhát như ngày xưa nữa. Bạn bè tôi Tây, Tàu, Gia Nã Đại, đều “cứu bồ” mỗi lần có tình trạng như trên xảy ra. Dần dà, mọi người gọi tên tôi rất ư là dễ thương.
Đến giờ nhớ lại những lời mẹ nói ngày nào, tôi hãnh diện vô cùng về cái tên mẹ đã cho tôi. Tôi thương mẹ vô cùng. Quê hương Việt Nam gắn với mẹ tôi như hình với bóng trong cuộc đời lưu lạc xứ người hơn một phần tư thế kỷ. Một điều mà tôi có thể khẳng định rằng, “dù hoàn cảnh có thể tách rời mẹ ra khỏi quê hương, nhưng không thể nào tách rời quê hương ra khỏi tâm hồn mẹ được”.
Mẹ sống như chờ đợi, như mong mỏi một điều gì sẽ đến. Có lần tôi bắt gặp mẹ ngồi một mình trong đêm, tay mân mê, vuốt ve bức ảnh bán thân của cha tôi. Mẹ vẫn nuôi hy vọng cha còn sống và sẽ có ngày gia đình tôi đoàn tụ như xưa. Nhưng định mệnh đã an bài. Sau khi nhờ một người bạn làm ở USAID đưa mẹ con tôi di tản, cha hứa sẽ gặp lại mẹ sau.
Vậy là, mẹ bụng mang dạ chửa lên phi cơ theo đoàn người di tản và mong có ngày gặp lại. Nhưng niềm hy vọng đó vơi dần theo năm tháng, cho đến ngày mẹ được tin cha đã nằm xuống nơi trại tập trung cải tạo. Cuộc sống của mẹ đã thầm lặng từ bấy lâu, nay càng thầm lặng hơn.
Ngoài giờ ở sở, về nhà cơm nước xong, trò chuyện với tôi đôi lát rồi mẹ vào phòng. Cái khoảng đời quá khứ ngày xưa. Những kỷ niệm ngọc ngà ngày nào của cha và mẹ như chút dấu yêu còn sót lại. Mỗi lần nhắc tới cha, mẹ như trẻ lại, mắt long lanh ngời sáng. Mẹ kể cho tôi chuyện tình của cô sinh viên Văn khoa với chàng sĩ quan hải quân.
Tôi thuộc nhiều bài hát Việt lắm nên ghẹo: “Mẹ và cha giống em hậu phương và anh nơi tiền tuyến quá!”.
Ngoài tình mẹ con, tôi như người bạn nhỏ để Mẹ tâm sự, để mẹ trang trải nỗi niềm. Nào là “con biết không, cha con hào hoa, đẹp trai lắm"… v.v… và v..v…
Tôi nịnh Mẹ: “Cha không đẹp trai làm sao cua được mẹ!”. Mẹ cười thật dễ thương.
Một điều mà tôi biết chắc chắn rằng không ai có thể thay thế hình bóng cha trong tim mẹ. Tôi muốn cùng mẹ nâng niu, gìn giữ những kỷ niệm dấu yêu, ngọc ngà của mẹ và cha đến suốt cuộc đời.
Hôm nay, nhân ngày giỗ lần thứ 44 của cha, con muốn thưa với cha một điều: Con cám ơn cha mẹ đã tạo cho con nên vóc nên hình. Dù chưa một lần gặp mặt, cha đã nằm xuống, đã đi thật xa, không trở lại với mẹ với con. Song với con, cha vẫn hiện hữu bên con từng giờ, từng phút. Con nghĩ cha đã che chở mẹ con và con hơn một phần tư thế kỷ này. Xin cha hãy giữ gìn, che chở mẹ trong suốt quãng đời còn lại. Con mong ngày nào đất nước thật sự thanh bình, mẹ sẽ đưa con về thăm lại quê hương. Con sông xưa sẽ trở về bờ bến cũ. Ngày ấy, ở một phía trời nào đó của quê hương, con sẽ thấy cha mỉm cười và nói với con: “Cha sung sướng lắm, con biết không? Con yêu dấu...!”
50 NĂM QUỐC HẬN!
Giữa Tháng Ba lệnh bỏ Vùng Hai*
Rút quân về bảo vệ Duyên Hải
Dân hốt hoảng chạy theo sau lính
Cảnh đau thương chết chóc thật kinh
Địch nã pháo đoàn người di tản
Nổ súng giết bất kể là dân
Tiếng la hét kêu gào tuyệt vọng
Tấn thãm kịch tan nát cõi lòng
Bao thi thể không còn nguyên vẹn
Địa ngục trần gian chính nơi này!?
Cuối Tháng Ba thêm lệnh bỏ Huế **
Tử thủ Huế…rồi Rút…nhập nhằng
Dân theo lính…lòng người náo loạn
Quảng Trị có Đại Lộ Kinh Hoàng
Phú Yên bỗng thành Hành Lang Máu
Đà Nẳng đang hấp hối nháo nhào
Dân, Lính không thể nào tách biệt
Vận “Nước” đã đến hồi cáo chung
Dù Tướng Đảo với Sư Đoàn 18,
Lữ Đoàn Dù và Biệt Động Quân,
Địa Phương Quân, Kỵ Binh chống giữ
Vẫn không sao giải thoát hiểm nguy
Lịch Sử sang trang…Miền Nam mất
Cả “Nước” chia nhau niềm khóc hận
Cuộc trả thù tắm Máu oan khiên
Trại”cải tạo”…rừng sâu ổ kiến
Quân Cán Chính đón nhận đòn thù
Trong đớn đau xiết bao hận nhục
Dân vượt biên, vượt biển tìm đường
Mong chạy thoát “thiên đường cộng sản”
Máu, thịt, xương đẫm cõi ta bà
Thây bón núi rừng, vào bụng cá
Bị hải tặc hãm hiếp, chặt đầu
Đó chính nhờ công ơn “giải phóng”
Của bạo tàn cộng sản tạo nên
Xin hãy nhớ…hãy nhớ… đừng quên!!!
(Hoàng Mai Nhất 17/3/2025)
Thế giới hôm nay 28 tháng 4, 2025
(Đỗ Đặng Nhật Huy)
•Tổng thống Mỹ Donald Trump nói ông tin Volodymyr Zelensky sẵn sàng từ bỏ Crimea cho Nga như một phần của thỏa thuận hòa bình — mặc dù tổng thống Ukraine đã nhiều lần bác bỏ ý tưởng này. Trong khi đó, Sergey Lavrov tuyên bố nhà máy điện hạt nhân Zaporizhia do Nga kiểm soát ở Ukraine đang “được kiểm soát rất tốt.” Ngoại trưởng Nga đưa ra phát biểu này khi đang phản hồi về đề xuất của ông Trump rằng Ukraine và Mỹ có thể cùng quản lý nhà máy sau một lệnh ngừng bắn.
•Các công tố viên Canada đã buộc tội Kai-Ji Adam Lo, một cư dân 30 tuổi ở Vancouver, với cáo buộc giết ít nhất 11 người và làm hàng chục người khác bị thương sau khi anh ta lái xe lao vào đám đông tại một lễ hội đường phố của cộng đồng Philippines. Cảnh sát cho biết đây “không phải là hành động khủng bố” và rằng tài xế có tiền sử bệnh tâm thần.
•Trung Quốc cho biết họ “hoàn toàn tự tin” đạt được mục tiêu tăng trưởng 5% trong năm nay bất chấp cuộc chiến thương mại với Mỹ. Cơ quan kế hoạch hàng đầu của nước này cho biết sẽ đưa ra thêm các biện pháp để củng cố nền kinh tế. GDP của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới đã tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước trong quý một. Hồi đầu tháng Mỹ đã tăng thuế đối với hàng nhập từ Trung Quốc lên 145%.
•Mỹ cho biết họ đang kêu gọi Ấn Độ và Pakistan tìm kiếm một “giải pháp có trách nhiệm” khi căng thẳng gia tăng giữa hai nước, vốn đều sở hữu vũ khí hạt nhân. Hôm 22 tháng 4, một vụ tấn công của các phần tử Hồi giáo cực đoan đã giết chết 26 khách du lịch ở khu vực Kashmir do Ấn Độ kiểm soát, nơi cả hai nước đều tuyên bố chủ quyền. Ấn Độ cáo buộc Pakistan có liên quan, song Islamabad phủ nhận. Pakistan kêu gọi một cuộc điều tra trung lập.
•Jens-Frederick Nielsen, thủ tướng Greenland, một lần nữa bác bỏ đề nghị mua lại lãnh thổ của ông Trump, nói rằng Greenland không phải “một món tài sản.” Ông Nielsen đang thăm Đan Mạch, quốc gia có chủ quyền đối với hòn đảo tự trị này, để gặp thủ tướng Mette Frederiksen. Vào thứ Hai, Quốc vương Frederik của Đan Mạch sẽ bắt đầu chuyến thăm Greenland kéo dài bốn ngày.
•Binyamin Netanyahu cáo buộc Ronen Bar, người đứng đầu cơ quan an ninh nội địa Israel, có “những lời nói dối và mâu thuẫn” sau khi ông Bar tuyên bố ông Netanyahu yêu cầu sự trung thành cá nhân và ra lệnh cho ông theo dõi những người biểu tình chống chính phủ. Thủ tướng Israel đã tìm cách sa thải ông Bar vào tháng 3 nhưng bị Tòa án Tối cao chặn lại. Cơ quan của ông Bar đang điều tra các cáo buộc tham nhũng liên quan đến các trợ lý của ông Netanyahu.
•Con số trong ngày: có 5.000 người gốc Phi sinh sống ở Scotland vào năm 2001. Con số này của năm 2022 đã tăng hơn 11 lần.
TIÊU ĐIỂM
Liệu có bước ngoặt nào trong đàm phán hoà bình ở Ukraine
Cuộc gặp hôm thứ Bảy giữa tổng thống Donald Trump và tổng thống Volodymyr Zelensky, chỉ cách linh cữu của Giáo hoàng Francis vài bước chân trong Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô, đã làm dấy lên hy vọng về một thỏa thuận ngừng bắn giữa Ukraine và Nga. Sau cuộc gặp, ông Trump đã chỉ trích Nga vì các cuộc tấn công tên lửa gần đây vào Ukraine. Các bước đàm phán tiếp theo dự kiến sẽ là thương lượng trực tiếp giữa quan chức Ukraine và Nga.
Song không rõ các cuộc đàm phán có đạt được kết quả hay không. Nhiều người coi “thỏa thuận” mà ông Trump ủng hộ là một sự phản bội đối với Ukraine. Thỏa thuận này công nhận chính thức yêu sách của Nga đối với Crimea, mặc nhiên thừa nhận quyền kiểm soát của Nga đối với các lãnh thổ Ukraine bị chiếm đóng khác và loại trừ khả năng Ukraine gia nhập NATO. Trong khi đó, Ukraine kiên quyết đòi không có bất kỳ hạn chế nào đối với quy mô quân đội của mình và yêu cầu có một lực lượng gìn giữ hòa bình châu Âu, được Mỹ hậu thuẫn, triển khai trên lãnh thổ của họ — những điều kiện mà Nga bác bỏ. Cả Mỹ và Ukraine đều không muốn bị đổ lỗi nếu đàm phán thất bại.
Một tuần thử thách cho “Bảy kỳ quan” chứng khoán Mỹ
Sau khi đưa thị trường chứng khoán Mỹ lên những đỉnh cao chóng mặt trong năm 2024, các ông lớn công nghệ Mỹ đã bắt đầu chững lại. Đầu tiên họ bị DeepSeek, một mô hình trí tuệ nhân tạo của Trung Quốc, làm suy yếu. Sau đó, các mức thuế quan toàn diện của ông Trump đã đe dọa đến chuỗi cung ứng quốc tế mà họ phụ thuộc vào. Trung bình giá cổ phiếu cân bằng của “Bảy kỳ quan” — gồm Alphabet, Amazon, Apple, Meta, Microsoft, Nvidia và Tesla — đã giảm 25% kể từ tháng 12.
Tuần này sẽ là một thử thách nữa. Meta và Microsoft sẽ công bố kết quả kinh doanh vào thứ Tư, tiếp theo là Amazon và Apple vào thứ Năm. Triển vọng kinh tế toàn cầu xấu đi đã khiến giới đầu tư tập trung nhiều hơn vào các rủi ro riêng biệt của từng công ty, chẳng hạn như sự phụ thuộc của Apple vào sản xuất tại Trung Quốc — một điểm nóng trong chính sách của ông Trump. Tăng trưởng lợi nhuận của “Bảy kỳ quan” cũng đang chậm lại. Đối với các công ty có định giá cao ngất trời dựa trên kỳ vọng thu nhập lớn trong tương lai, điều đó là một mối lo đáng kể. Nó cũng rất đáng ngại cho các nhà đầu tư vào cổ phiếu Mỹ – vì “Bảy kỳ quan” chiếm tới hơn một phần tư giá trị thị trường của chỉ số S&P 500.
Trump phủ bóng lên bầu cử Canada
Vào thứ Hai, người dân Canada sẽ đi bỏ phiếu trong một cuộc tổng tuyển cử toàn quốc. Việc Donald Trump quay trở lại Nhà Trắng đã làm thay đổi hoàn toàn chiến dịch tranh cử ở nước này. Ông đã đe dọa Canada bằng các mức thuế quan và còn hăm he biến nước này thành bang thứ 51 của Mỹ. Những lời đe dọa của ông Trump đã đảo ngược vị thế của hai đảng lớn ở Canada trong suốt năm tuần vận động. Đảng Tự do cầm quyền, do ông Mark Carney lãnh đạo, đã vượt qua Đảng Bảo thủ của Pierre Poilievre trong các cuộc thăm dò dư luận.
Ông Carney, một cựu thống đốc ngân hàng trung ương, cam kết sẽ đứng lên chống lại ông Trump. Ông muốn đa dạng hóa các mối quan hệ thương mại của Canada để nước này có thể đối phó tốt hơn với bức tường thuế quan của Mỹ. Trong khi đó, ông Poilievre tập trung chiến dịch vào chi phí sinh hoạt và tội phạm. Mô hình dự báo của Economist cho thấy Đảng Tự do có khả năng chiến thắng áp đảo, bất chấp khoảng cách sít sao trong các cuộc thăm dò; do cử tri của Đảng Bảo thủ tập trung quá nhiều tại các thành trì phía tây, khiến phiếu bầu của họ kém hiệu quả hơn.
Lo ngại trước những lời đe dọa của ông Trump cũng đã khiến nhiều cử tri vốn ủng hộ Đảng Dân chủ Mới (NDP) ngả sang Đảng Tự do.
Vài Tin Đáng Chú Ý
400 ngàn tín đồ đến đưa tiễn giáo hoàng Phanxicô tại Roma
(Chi Phương)
-Sau buổi thánh lễ tại quảng trưởng Thánh Phêrô với sự hiện diện của nhiều nguyên thủ quốc gia, hôm qua, 26/04/2025, một biển người đã đến đưa tiễn linh cữu của giáo hoàng, an nghỉ tại Vương cung thánh đường Đức bà cả (Basilica Papale di Santa Maria Maggiore), tại Roma, Ý, nơi ngài, sinh thời, thường đến cầu nguyện sau mỗi chuyến công du nước ngoài.
Sáng nay, nhiều tín đồ tiếp tục đến để thăm viếng linh cữu của giáo hoàng, được chở từ Vatican đến Vương cung thánh đường Đức bà cả. Vatican trước đó đã thông báo để tang cho vị giáo hoàng người Nam Mỹ trong 9 ngày, và thánh lễ sẽ được tổ chức hàng ngày tại Nhà thờ Thánh Phêrô cho đến ngày 04/05. Phanxicô cũng là vị giáo hoàng đầu tiên trong lịch sử không lựa chọn an táng tại Vatican, mà chọn một nhà thờ được đặt ở trung tâm thủ đô Ý.
Vatican cũng sẽ sớm tổ chức mật nghị, quy tụ các hồng y từ khắp nơi trên thế giới để bầu ra tân giáo hoàng theo quy tắc có từ lâu đời tại Nhà nguyện Sistina. Theo AFP, có khả năng Vatican sẽ thông báo lịch cụ thể vào thứ Hai 28/04.
Giới trẻ mong đợi gì từ vị tân giáo hoàng, đặc phái viên Murielle Paradon cho biết thêm thông tin :
« Tang lễ của giáo hoàng đã kết thúc. Những tín đồ đã tự hỏi ai sẽ là người kế vị ngài. Nhiều thanh niên có mặt tại tang lễ bày tỏ lòng kính trọng đối với vị giáo hoàng Phanxicô vì tính nhân văn của ngài, như cô Laura : « Cần phải thúc đẩy các giá trị và nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau của giáo hoàng, cũng như là việc chào đón và bác ái với tất cả mọi người ».
Cô Blanca, đến từ thành phố Brest miền tây nước Pháp, thì bày tỏ mong muốn vị giáo hoàng tương lai sẽ tiếp tục công cuộc « mở cửa » mà ngài Phanxicô đã bắt đầu, về những vấn đề xã hội. Cô nói : « Tôi cho rằng giáo hoàng Phanxicô đã đặt chút nền tảng cho mọi thứ, đặc biệt là cho phép giáo hội cởi mở hơn, chẳng hạn như việc ban phước cho các cặp đôi đồng tính. Tôi nghĩ đó là bước đầu tiên của giáo hội, và cũng là hướng đi của cộng đồng. Tôi hy vọng rằng tân giáo hoàng sẽ tiếp tục đi theo hướng đó và có thể tiếp tục xây dựng những gì mà giáo hoàng Phanxicô đã khởi xướng ».
Về phần mình, cô Elsa tỏ ra dè dặt về việc lựa chọn giáo hoàng tương lai, và để cho cuộc mật nghị các hồng y quyết định.
Cuộc mật nghị (conclave) sẽ sớm diễn ra. Hiện đã có nhiều tranh luận giữa việc lựa chọn một giáo hoàng theo chủ nghĩa truyền thống hơn, mà một số người cho rằng đó sẽ là một bước thụt lụt của giáo hội, hay chọn một giáo hoàng theo chủ nghĩa tiến bộ, có thể sẽ tiếp tục các đường hướng tương tự như giáo hoàng Phanxicô. Đó cũng là những câu hỏi mà chúng tôi tự đặt ra và tất mong chờ kết quả từ cuộc mật nghị này ».
Cuộc mật nghị hồng y sẽ diễn ra trong khoảng 10 ngày nữa để bầu ra giáo hoàng tương lai.
Achentina : Hàng ngàn người tiễn biệt giáo hoàng tại quê hương ngài
Còn tại quê hương của giáo hoàng, hàng ngàn người Achentina đã đến tiễn biệt ngài ở thủ đô Buenos Aires, thông tín viên Théo Conscience tường trình :
« Phút mặc niệm đã kết thúc trong tiếng reo hò, tổng giám mục Buenos Aires, cha Cuerva, nghẹn ngào, tưởng nhớ về giáo hoàng. « Ngài đã lên thiên đàng, và khuấy động từ trên cao ».
Sự khuấy động đó tương tự như cách mà ngài đã kêu gọi những người trẻ trong Ngày giới trẻ thế giới 2013. « Trong một trong những lá thư gửi giới trẻ, giáo hoàng đã viết rằng : Đừng trở thành khách du lịch, mà hãy dấn thân, và đừng tỏ ra thờ ơ
Anh Danilo, 24 tuổi cho biết : « Tôi nghĩ rằng đó là thách thức lớn nhất của chúng tôi, « gây náo loạn » là điều mà ngài muốn nói đến : « Hãy thay đổi thực tế đi, hãy đi ngược lại xu hướng. Trong một thế giới thường đề cao chủ nghĩa cá nhân, Đức giáo hoàng kêu gọi chúng ta đoàn kết, tỏ ra dấn thân hơn vì người khác, và « gây náo động trên đường phố ».
Đối với cha xứ Pedro Baya, Đức giáo hoàng Phanxicô khi thành công trong việc kêu gọi, chất vấn giới trẻ, đã đưa Giáo hội tiến vào thế kỷ 21.
Cha Baya nói : « Ngài đã đưa người nghèo, người di cư, môi trường và nền kinh tế nhân văn hơn trở thành mối quan tâm chính. Ngài đã để lại một giáo hội trong quá trình đổi mới liên tục, hướng tới tương lai ».
Một ngày kết thúc trong không khí náo động vui tươi, vì không thể khác hơn được, với một cuộc hành hương, bước theo dấu chân của Đức Phanxicô tại thủ đô Achentina.
Hiếm Ai Có Máu Lạnh Như Thế: Thí Nghiệm Trái Phép Và Hành Hạ Thi Thể, Phụ Nữ Gốc Việt Ở Texas Bị Truy Tố!
AUSTIN, TEXAS – Một vụ việc kinh hoàng vừa bị phanh phui tại một nhà xác ở phía Bắc thành phố Austin, khi một nhân viên bị cáo buộc dùng thi thể để “thí nghiệm” và làm giả hàng loạt giấy chứng tử. Vụ việc đã gây sốc trong cộng đồng địa phương.
Theo tin từ ABC7, người bị cáo buộc là Adeline Ngan-Binh Bui, 50 tuổi, hiện đang đối mặt với 6 tội danh hình sự nghiêm trọng, gồm một tội lạm dụng thi thể (state-jail felony) và năm tội làm giả giấy tờ của chính quyền với mục đích lừa đảo hoặc gây hại (tampering with governmental records – felony cấp hai).
Bui đã tự đến trình diện tại nhà tù hạt Travis vào ngày 18/4, với số tiền bảo lãnh được ấn định là $27,500. Hồ sơ nhà tù hiện không cho thấy bà vẫn bị giam giữ.
Theo hồ sơ tòa án, vụ việc bắt đầu lộ diện từ tháng 3/2024, khi một nhân viên ướp xác cũ của Capital Mortuary Services gửi đơn tố cáo lên Ủy ban Dịch vụ Tang lễ Texas (TFSC), cáo buộc Bui lạm dụng danh tính chuyên môn của ông để làm giả ít nhất 10 giấy chứng tử, dù ông này không hề ký tên hay ủy quyền.
Cùng lúc, người tố cáo tiết lộ Bui đã thực hiện những “thí nghiệm” trên các bộ phận cơ thể rời rạc – cụ thể là cánh tay của một người chết không rõ danh tính. Tài liệu điều tra cho biết bà đã bơm formaldehyde vào tay người chết và theo dõi quá trình phân hủy qua thời gian, ghi lại bằng hình ảnh.
Những bức ảnh này sau đó được gửi đi trong một chuỗi tin nhắn, trong đó Bui viết: “Let’s use this update to monitor our experiment.”
Không dừng lại ở đó, TSFC còn phát hiện Capital Mortuary Services không hề đăng ký như một cơ sở giải phẫu y học, nhưng lại thực hiện hành vi giống như đang tiến hành nghiên cứu mô học. Cơ quan này ra lệnh ngừng hoạt động ngay lập tức vào ngày 10/4, đồng thời khẳng định nhà xác đã vi phạm nghiêm trọng các tiêu chuẩn an toàn và y tế.
Hồ sơ từ Sở Cảnh sát Austin (APD) tiết lộ một chuỗi vi phạm kéo dài từ tháng 8/2022. Bằng chứng cho thấy tên và chữ ký của người ướp xác bị sử dụng bất hợp pháp trên ít nhất 9 giấy chứng tử, bao gồm cả một mẫu đơn chỉnh sửa có chữ ký giả với Bui đóng vai trò công chứng viên.
Đi xa hơn, APD còn phát hiện ít nhất 128 trường hợp tên người ướp xác bị sử dụng để hợp thức hóa giấy tờ tang lễ, gợi mở một hệ thống gian lận có tổ chức.
Bên cạnh việc làm giả giấy tờ, tài liệu điều tra còn ghi nhận vi phạm trong quy trình hỏa táng, bao gồm việc thiêu các bộ phận thi thể đã bị mổ xẻ trong điều kiện không hợp chuẩn.
Luật sư của Bui, bà Jessica Hunh, khẳng định thân chủ của mình vô tội và cho biết: “Hệ thống pháp luật Hoa Kỳ dựa trên nguyên tắc vô tội cho đến khi chứng minh ngược lại. Vụ việc này phức tạp và không nên bị giật gân hóa.”
California Soán Ngôi Nhật Bổn, Trở Thành Nền Kinh Tế Thứ 4 Thế Giới!
California – tiểu bang vàng của nước Mỹ – vừa ghi thêm một dấu mốc lịch sử: vượt qua Nhật Bản để trở thành nền kinh tế lớn thứ tư toàn cầu, theo thông báo của Thống đốc Gavin Newsom hôm 24 Tháng Tư.
Dữ liệu mới nhất từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Cục Phân tích Kinh tế Mỹ xác nhận: tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của California hiện đạt 4.100 tỷ USD, chỉ đứng sau toàn nước Mỹ (29.180 tỷ USD), Trung Quốc (18.740 tỷ USD) và Đức (4.650 tỷ USD).
Tuy bảng xếp hạng toàn cầu thường chỉ liệt kê các quốc gia, vùng lãnh thổ, nhưng nếu xét riêng California như một thực thể kinh tế độc lập, tiểu bang này đã vượt xa nhiều cường quốc, xác lập vị thế trung tâm công nghệ, giải trí, sản xuất hàng hóa và nông sản số 1 của Hoa Kỳ.
“Chúng ta phát triển bởi vì chúng ta đầu tư vào con người, ưu tiên sự bền vững và tin vào sức mạnh đổi mới,” ông Newsom tự hào phát biểu, nhấn mạnh công thức thành công của California.
Năm 2024, bất chấp những biến động địa chính trị toàn cầu, California đạt mức tăng trưởng 6%, bỏ xa tốc độ của toàn nước Mỹ, Trung Quốc và Đức. Thành tựu này đến chỉ sáu năm sau khi tiểu bang này từng vượt qua Anh để vươn lên hạng năm thế giới
Thế nhưng, trong lúc ăn mừng, Thống đốc Newsom không quên bắn tiếng cảnh báo: nghị trình hiện tại của chính quyền Tổng thống Donald Trump – đặc biệt là các chính sách thuế quan – đang âm thầm đe dọa lợi ích kinh tế của California.
“California là động cơ tăng trưởng của nước Mỹ. Và nó cần phải được bảo vệ,” ông nhấn mạnh, đồng thời lên tiếng chỉ trích rằng những hành động của ông Trump là trái luật, vì theo Hiến pháp Mỹ, quyền áp thuế chỉ thuộc về Quốc hội.
Tuần trước, California đã trở thành tiểu bang đầu tiên nộp đơn kiện chính quyền liên bang về các chính sách thuế, quyết liệt bảo vệ quyền lợi kinh tế khổng lồ của mình – mỗi năm tiểu bang này đóng góp cho Washington nhiều hơn khoản nhận lại tới 83 tỷ USD.
Với đà bứt phá hiện nay, California không chỉ khẳng định vị thế đầu tàu nước Mỹ, mà còn cho thấy một sự thật không thể chối cãi: khi con người, sáng tạo và sự đầu tư bền vững được đặt lên hàng đầu, kinh tế có thể cất cánh mạnh mẽ vượt qua mọi giới hạn quốc gia.
BỘ NGOẠI GIAO VIỆT NAM LẠI “VUỐT VE” KHI TỔNG THỐNG TRUMP NỔI GIẬN
-Trước thông tin chính quyền Tổng thống Donald Trump yêu cầu các quan chức Hoa Kỳ không dự các sự kiện kỷ niệm 30/4 tại TP.HCM, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, bà Phạm Thu Hằng, đã có bài phát biểu với báo chí thể hiện “thiện chí”. Đáng chú ý là đoạn:
“Kỷ niệm 30/4 là dịp để tôn vinh những giá trị bất diệt của lòng vị tha, của hòa bình, của hòa giải và hàn gắn, của tinh thần ‘gác lại quá khứ, hướng tới tương lai’.”
Thế nhưng, những ngày qua, lực lượng thân đảng lại ồ ạt ra quân, trưng bày sự ngạo nghễ, tự hào về cái gọi là “chiến thắng 30/4” bằng các hình ảnh giễu cợt nước Mỹ, chửi rủa quá khứ, cùng hàng loạt banner, pano giăng đầy khắp đường phố – điển hình như tấm “Việt Nam toàn thắng”.
Họ chẳng thể hiện nổi một chút gì gọi là “hòa hợp, hòa giải” như lời bà Hằng rao giảng.
Thế mới thấy, nói một đằng, làm một nẻo đã trở thành bản chất cố hữu. Tưởng rằng có thể vuốt mặt người Mỹ như cách họ bịt miệng dân trong nước. Nhưng chỉ với một chỉ thị từ chính quyền Trump, cấm các nhà ngoại giao Mỹ tại Việt Nam – bao gồm cả Đại sứ Marc Knapper – tham gia bất kỳ hoạt động nào nhân ngày 30/4, thì Bộ Ngoại giao Việt Nam lập tức co rúm lại, vội vàng ra lệnh tháo gỡ các pano phản cảm, rồi vuốt ve báo chí bằng những lời lẽ hoa mỹ về quan hệ đối tác chiến lược Việt – Mỹ.
Câu chuyện này vừa phơi bày sự lươn lẹo và giả tạo, vừa cho thấy một tâm thế hèn hạ – dám làm nhưng không dám nhận.
Và không biết sau cú “vả mặt ngoại giao” này, họ sẽ lấy mặt mũi đâu để ngồi vào bàn đàm phán thuế quan với Hoa Kỳ?
Mẹ đơn thân năm con bị cấm xuất cảnh vì phản đối diễn binh”
HÀ NỘI – Một văn bản được dư luận viên Cộng Sản Việt Nam tung ra trên mạng hôm 26 Tháng Tư cho thấy, bà Hoàng Thị Hồng Thái, 45 tuổi, chủ tài khoản Facebook Hong Thai Hoang với gần 80,000 người theo dõi, vừa bị Công An Hà Nội áp lệnh cấm xuất cảnh với lý do “phục vụ điều tra tin báo về tội phạm.”
Bà Thái, quê Hưng Yên, nổi bật gần đây nhờ những phát ngôn thẳng thắn trên mạng xã hội. Bà viết: “Tôi phản đối việc tổ chức diễn binh tiêu tốn hàng ngàn tỷ tiền thuế của dân. Thay vì phô trương, hãy xây bệnh viện, trường học cho vùng cao.” Không dừng lại ở đó, bà cũng tuyên bố coi ngày 30 Tháng Tư là “ngày đau thương của dân tộc,” chứ không phải là dịp để tự hào hay hân hoan.
Những dòng chia sẻ này lập tức trở thành cái gai trong mắt bộ máy dư luận viên. Chúng nhanh chóng gạch chéo hình ảnh thông điệp của bà, bêu riếu bà là “kẻ vô ơn,” thậm chí mỉa mai rằng bà chỉ nổi tiếng nhờ “diễn sâu quá mức cho phép,” chứ chẳng có đóng góp gì cho xã hội.
Không chỉ phản đối diễn binh, bà Thái còn chia sẻ những video lay động lòng người, như cảnh một người cha nghèo nuôi ba đứa con sau cái chết của vợ vì tự tử. Dưới đoạn video ấy, bà bình luận: “Có ở đâu mà đứa trẻ không có nổi miếng cơm ăn như thế này? Sao không dùng tiền diễn binh để lo cho các em?”
Sau những phát ngôn và hành động trên, Công An Hà Nội ra tay. Lệnh cấm xuất cảnh giáng xuống trong lúc bà đang gồng gánh nuôi năm đứa con nhỏ, đứa út mới sáu tuổi và mắc chứng tự kỷ. Theo những chia sẻ trước đó trên Facebook cá nhân, bà Thái khẳng định mình tự tay nuôi con bằng mồ hôi công sức, “chưa một lần được hưởng dịch vụ miễn phí,” và thậm chí còn bị tước quyền được bảo vệ bởi chính hệ thống pháp luật mà đáng ra phải bảo vệ công dân.
Bà từng tâm sự: nếu chọn im lặng, có lẽ các con bà sẽ có cuộc sống đầy đủ vật chất hơn, “nhưng chúng sẽ lớn lên như những con chim trong lồng, không bao giờ thoát khỏi tư duy nô lệ.”
Trong bối cảnh nhà cầm quyền Việt Nam gia tăng kiểm soát mạng xã hội và đàn áp những tiếng nói đối lập, câu chuyện của bà Hoàng Thị Hồng Thái không chỉ là nỗi buồn cá nhân, mà còn là tấm gương phản chiếu một xã hội mà tự do ngôn luận đang ngày càng bị bóp nghẹt.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét