Phút Mặc Niệm Hôm Nay: 50 Năm Tưởng Niệm Tháng Tư Đen! Hay Quốc Hận Thứ 50! (1975-2025-Cùng Thứ Tư!)Bằng giây phút này, 50 năm về trước, Sài Gòn, Thủ đô miền Nam Việt Nam, sắp thoi thóp thở những phút giây cuối cùng! Vĩnh biệt tự do, dân chủ, no ấm, hạnh phúc trên 20 năm Trước giây phút hấp hối, trong hành trình đi vào cõi chết, bắt đầu với Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên, quân dân di tản, kẹt cứng trên Tỉnh Lộ 7B, Cộng Sản pháo kích vào đoàn người di tản, hàng ngàn người chết, Tỉnh Lộ 7B đi vào lịch sử với tên mới: Tỉnh Lộ Máu!
- Bằng giây phút này, các tỉnh Miền Trung dần dần thất thủ, quân dân chạy về phía Nam, Cộng sản đuổi theo bắn giết, xác phơi xếp như cá hộp trên Đại Lộ Kinh Hoàng, trên Đèo Hải Vân và các cửa biển Miền Trung.
- Bằng giây phút này, 5 vị tướng và hàng trăm người Lính VNCH, đã dùng súng bắn vào đầu mình, trái tim mình, hay dùng lựu đạn nổ tan thân xác, vì không chịu nổi cái nhục đầu hàng, và thế giới đều biết, ngậm ngùi, chua xót, kẻ Ác đã thắng cuộc chiến!
- Bằng giây phút này, hàng trăm ngàn, hàng triệu người Con Đất Việt, sắp sửa phải rời nơi “chôn nhau cắt rốn,” bỏ Nước ra đi. Sau đó hàng nửa triệu người, các Thuyền Nhân đã lấy đại dương làm mồ chôn, trên đường chạy trốn độc tài Cộng Sản.
Tháng Tư Đen lại về! lần thứ 50! Xin cúi đầu, nghiêng mình, thắp nén nhang tưởng niệm, những cái chết trong ngày tang thương, đen tối nhất trong lịch sử của Người Dân Việt. Mất Quê Hương là mất tất cả! Còn Quê Hương là còn tất cả những gì mình Dấu Yêu!
Người Lính Lê Văn Hải
CÁO TRẠNG 50 NĂM!
(HUY VĂN)
50 năm! Triệu mảnh đời biệt xứ
nén đau thương, se sắt tận đáy lòng
Hiển linh nào phiêu dạt khắp non sông
Hởi xương trắng, máu đào mùa hận sử?!
Khói lửa chiến tranh đã thành quá khứ
nhưng nỗi hờn vong quốc vẫn chưa nguôi
Dù bước chân luân lạc cuối phương trời
viễn khách vẫn quan hoài về cố quận.
50 năm! 50 mùa Quốc Hận!
Đất nước còn quằn quại dưới cùm gông
Trăm triệu người đang sống dưới bất công
cùng ngược đãi, đọa đày và áp bức!
Thời mạt vận được tô son, trét mực
thành bức tranh vân cẩu chốn nhân gian
Kẻ quyền uy vênh váo hưởng lộc vàng
Người cô thế xuôi tay nuôi hy vọng.
Hồn sông núi ngày đêm còn hiển lộng
mà cháu con nay an phận, cúi đầu
Vết nghiệt oan rướm máu tận ngàn sau
nên chim Lạc đành thiên di biệt dạng!
Chiếc bánh vẽ của thiên đường Cộng Sản
chính là viên thuốc độc bọc thêm đường
Bấy lâu nay Hà Nội cố khoa trương
nhằm che đậy cốt nô tài vô sỉ!
Tô trét cỡ nào cũng lòi đuôi cộng phỉ!
Ma giáo tới đâu cũng lộ mặt tham tàn
Đã 80 năm mà bè lũ việt gian
vẫn tận tụy đội sao vàng, cờ đỏ!
Chúng chẳng màng biên cương đang bỏ ngỏ
chỉ biết vinh thân, ấm cật, phì gia
80 năm toàn cõi nước non nhà
vẫn lâm cảnh lất lây trong cuộc sống!
Lũ ngông cuồng dưới chiêu bài giải phóng
( "giải phóng" con .. gì! Chỉ mị dân!) (*)
như sài lang vượt tuyến xuống Nam phần
gây máu loạn, cướp đất đai trù phú.
Sau bao năm bạo tàn như thái thú
chúng hiện nguyên hình là một bọn ngoại lai
theo gót Nga - Hoa, chấp nhận kiếp nô tài
dâng đất nước cho đại đồng Cộng Sản!
50 năm! 50 mùa khổ nạn!
50 năm sâu mọt bám dân tình
Đến khi nào đất nước hết điêu linh
để toàn quốc tưng bừng vui quốc thái?!
HV
TUYÊN BỐ QUỐC HẬN THỨ 50!
Nhận định rằng:
1. Trong 50 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam và nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là một chế độ độc tài đảng trị, đàn áp đối lập, kềm hãm sự phát triển của Việt Nam. Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã bắt giam tù nhân chính trị, xử tử trên 300 tù nhân chính trị và Tôn giáo Việt Nam và đồng bào dân oan trên toàn quốc.
2. Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam mời TBT Đảng Cộng sản Trung Quốc kiêm CT nhà nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa thăm Việt Nam và mời đội quân Trung Quốc xâm lược Việt Nam tham dự diễn hành ngày 30-4-2025.
3. Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là chư hầu của Đế quốc mới Trung Cộng, đi ngược lại nguyện vọng của toàn dân.
Nhân danh quyền lợi của dân tộc, sự sống còn của đất nước Việt Nam, Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo Việt Nam tuyên bố:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam phải trả tự do cho toàn thể tù nhân lương tâm Việt Nam, chấp nhận đa nguyên chính trị để cùng xây dựng và phát triển đất nước.
2. Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam phải hủy bỏ việc mời đội quân Trung Quốc xâm lược diễn hành ngày 30-4-2025.
3. Toàn dân Việt Nam Cực lực phản đối việc trở thành chư hầu, một khu tự trị của Trung Quốc. Toàn dân toàn quân quyết tâm giải thể bạo quyền Cộng sản để mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc.
Việt Nam ngày 19-4-2025
Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo Việt Nam.
Thiên Đàng XHCN, Những Thứ Nhất! “50 Năm Giải Phóng Như Vầy, Phải Không Anh?”
-Ngày xưa Sài Gòn là Hòn Ngọc Viễn Đông, giờ thì Việt nam là một trong những nước nghèo nhất Thế giới và không chịu phát triển.Trong khi người dân còn quá khổ và nghèo, đất nước Việt nam thì liên tiếp xảy ra những vụ việc, khiến đất nước ngày càng thêm rối ren. Dưới đây thống kê những việc, giật giải, đứng "nhất" ở Việt Nam, đến Thế giới cũng không thể theo kịp!
1- Việt Nam có cá (nước mặn + nước ngọt) chết nhiều nhất.
2- Việt Nam nhiều tượng đài nghìn tỉ nhất.
3- Việt Nam nhiều người chết trong đồn công an nhất.
4- Việt Nam nhiều người có ruộng đất, trở thành dân oan nhất.
5- Việt Nam nhiều ngư dân bị thất nghiệp nhất.
6- Việt Nam nhiều ngư dân bị nước ngoài bắt nhất.
7- Việt Nam bị nhiều 'tầu lạ' xâm chiếm biển nhất.
8- Việt Nam cứ cán bộ chết, là dân mừng nhất.
9- Việt Nam có nhiều công an nhất (theo tỉ lệ dân số).
10- Việt Nam có nhiều tiến sĩ nhất (theo tỉ lệ dân số).
11- Việt Nam dân chửi chế độ nhiều nhất.
12- Việt Nam có cán bộ đi điều trị nước ngoài nhiều nhất.
13- Việt Nam uống bia nhiều nhất.
14- Việt Nam đi làm từ thiện là khó nhất.
15- Việt Nam có công an giỏi nhất.
16- Việt Nam có nạn án oan nhiều nhất.
17- Việt Nam có gia đình cùng làm quan nhiều nhất.
18- Việt Nam có người chết lâu nhất chưa chôn.
19- Việt Nam hôi của nhanh nhất.
20- Việt Nam lãnh đạo nhiều nhất.
21- Việt Nam lãnh đạo ngu nhất
22- Việt Nam có nhiều lãnh đạo phát ngôn đần độn nhất.
23- Việt Nam có nhiều lãnh đạo hành xử lưu manh nhất.
24- Việt Nam có nhiều lãnh đạo tham ô nhất.
25- Việt Nam có nhiều cấp tướng nhất.
26- Việt Nam ăn chất độc từ Trung quốc nhiều nhất.
27- Việt Nam bị ung thư nhiều nhất
28- Việt Nam cán bộ giầu nhất.
29- Việt Nam cán bộ ác với dân nhất.
30- Việt Nam cán bộ hèn với giặc nhất.
31- Việt Nam có nhiều trẻ em bị bắt cóc sang Trung Quốc nhất.
32- Việt Nam kiên định theo chủ nghĩa cộng sản nhất.
33- Việt Nam uống rượu bia trong giờ hành chính nhiều nhất.
34- Việt Nam học tập tư tưởng hồ chí minh nhiều nhất.
35- Việt Nam cán bộ chơi gái nhiều nhất .
36- Việt Nam chà đạp nhân quyền nhất.
37- Việt Nam nhiều ăn xin ngoài đường nhất.
38- Việt Nam nhiều người bán vé số nhất.
39- Việt Nam nhiều đánh giầy nhất.
40- Việt Nam nhiều lũ lụt nhất.
41- Việt Nam nhiều thủy điện nhất.
42- Việt Nam thủy điện xả lũ hại dân nhiều nhất.
43- Việt Nam quan chức ăn cắp giờ nhiều nhất.
44- Việt Nam công an "quơ tay" kiếm tiền, nhiều nhất.
45- Việt Nam nạn trộm chó nhiều nhất.
46- Việt Nam có cảnh sát giao thông ăn mãi lộ nhiều nhất.
47- Việt Nam có dân cãi nhau với công an nhiều nhất.
48- Việt Nam xuất khẩu nhiều cô dâu nhất.
49- Việt Nam có trai bao nhiều nhất.
50- Việt Nam quan chức có bồ nhí nhiều nhất.
51- Việt Nam học sinh đánh nhau nhiều nhật
52- Việt Nam nhiều xe công nhất.
53- Việt Nam chuẩn đoán bệnh sai nhiều nhất.
54- Việt Nam có nhiều thủ tục rườm rà nhất.
55- Việt Nam giáo dục dở nhất.
56- Việt Nam được bằng khen cháu ngoan bác hồ nhiều nhất. 57-
57- Việt Nam nhiều xe máy nhất.
58- Việt Nam chết vì tai nạn giao thông nhiều nhất
59- Việt Nam có du học sinh không về nhiều nhất.
60- Việt Nam có anh hùng bàn phím nhiều nhất.
61- Việt Nam vứt rác ra đường nhiều nhất.
62- Việt Nam chặt cây xanh trong thành phố nhiều nhất.
63- Việt Nam phá rừng nhanh nhất.
64- Việt Nam làm đường giá cao nhất.
65- Việt Nam ngập nước trong thành phố nhiều nhất thế giới.
66- Việt Nam có nạn học sinh gái đánh bạn nhiều nhất.
67- Việt Nam xuất khẩu nhiều lao động nhất
68- Việt Nam cán bộ ăn hối lộ có hệ thống nhất.
69- Việt Nam sử dụng từ 'đúng quy trình' nhiều nhất.
70- Việt Nam nhiều nghị gật nhất.
71- Việt Nam nhiều nghị ngủ gật trong khi họp nhất.
72- Bợ đít Trung Quốc giỏi nhất.
73- Việt Nam có đảng viên bị kỷ luật nhiều nhất.
74- Việt Nam có học sinh đu dây giỏi nhất.
75- Việt Nam lãnh đạo đu dây trong ngoại giao nhiều nhất.
76- Việt Nam đi xin viên trợ nước ngoài nhiều nhất
77- Việt Nam làm đường nhanh hỏng nhất.
78- Việt Nam đối xử với trẻ em tệ nhất.
79- Việt Nam đối xử với phụ nữ tệ nhất.
80- Việt Nam bị bắt vì tội ăn cắp ở nước ngoài nhiều nhất.
81- Việt Nam có phản động nhiều nhất.
82- Việt Nam có Trung Quốc trúng thầu nhiều nhất.
83- Việt Nam công ty nhà nước thua lỗ nhiều nhất.
84- Việt Nam mất tiền trong sổ tiết kiệm nhanh nhất.
85- Việt Nam xâm chiếm đất phi trường nhiều nhất.
86- Việt Nam giao thông tắc nghẽn nhất.
87- Việt Nam nhiều trại thu phí nhất.
88- Việt Nam nhiều loại thuế nhất.
89- Việt Nam cướp giật ngoài đường nhiều nhất.
90- Việt Nam cướp tiệm vàng nhiều nhất.
91- Việt Nam cán bộ dại gái nhiều nhất.
92- Việt Nam cướp tiệm vàng nhiều nhất.
93- Việt Nam thực phẩm bẩn nhiều nhất.
94- Việt Nam nói tục, chửi bậy nhất.
95- Việt Nam đối xử với người già tàn nhẫn nhất.
96- Việt Nam vô cảm nhiều nhất.
97- Việt Nam kỳ thị và tàn nhẫn với nhau nhất.
98- Việt Nam chuyển tiền mua nhà nước ngoài nhiều/ nhanh nhất.
99- Việt Nam học cái xấu nhanh nhất.
100- Việt Nam nhiều cán bộ dùng bằng giả nhất.
101- Việt Nam nhiều nón (mũ) cối nhất.
102- Việt Nam nhiều dép lốp nhất.
103- Việt Nam ăn cắp đồ ở sân bay nhiều nhất.
……………
Nếu kể ra những cái nhất, của VN, thì có đến cả ngàn! Kỷ lục đoạt giải nhất! vậy mà vẫn đứng chót, về những quốc gia nghèo đói nhất thế giới!
Tô Lâm bị dư luận viên chỉ trích dữ dội, vì nói dân Singapore ‘mơ ước sang Chợ Rẫy’ 60 năm trước!
– Ông Tô Lâm, tổng bí thư đảng CSVN, bất ngờ bị giới dư luận viên chỉ trích gay gắt về phát ngôn cho rằng, khoảng 50, 60 năm trước, người Singapore “mơ ước sang bệnh viện Chợ Rẫy chữa bệnh!”
Trang Facebook “Tifosi” có hơn 300,000 lượt follow, chuyên định hướng thông tin và tuyên truyền theo ý đảng, hôm 15 Tháng Hai bỗng nhiên đăng một bài dài phản bác phát ngôn nêu trên là “không chính xác.”
Bài đăng trên trang này liệt kê rằng trong giai đoạn cuối thập niên 1960, Singapore có tới tám bệnh viện lớn và lượng bác sĩ tính bình quân trên đầu người lớn nhất Đông Nam Á.
“Trong giai đoạn 1969-1972, Singapore là quốc gia có ít trẻ sơ sinh thiệt mạng nhất ở Đông Nam Á với chỉ khoảng 15 trên 1,000 trẻ em, chi tiêu y tế bình quân đầu người lớn nhất Đông Nam Á, số giường bệnh bình quân cao nhất…,” trang “Tifosi” viết.
Việc một trang của giới dư luận viên dám bình luận rằng phát ngôn của ông Tô Lâm “không chính xác” khiến công luận ngạc nhiên.
Đáng nói, bên dưới bài đăng có nhiều ý kiến tranh cãi, tán đồng bình luận cho rằng các phát ngôn gần đây của ông Tô Lâm “có vấn đề” và khen Facebook “Tifosi” “rất can đảm.”
Facebooker “Đinh Dôn” đặt câu hỏi: “Page nay ‘chơi lớn’ thế. Muốn bị bế [bắt] à?”
Facebooker “Tran Van Tuan” thì nói dạo gần đây thấy ông Tô Lâm “phát biểu nhiều cái khiến mình không thích lắm,” như “đem một số tỉnh thành của Trung Quốc ra so sánh với Việt Nam” và sau vụ trao huân chương [Sao Vàng] cho “đồng chí X” [Nguyễn Tấn Dũng, cựu thủ tướng].
Facebooker này nhấn mạnh rằng nếu được bầu tổng bí thư thì “mình sẽ bầu cho bác [Phạm Minh] Chính vì ông này thực sự là người nghĩ cho đất nước.”
Facebooker Trần Khoa nói: “Chuẩn luôn. Đôi lúc chả hiểu lãnh đạo mình đang bị nhét chữ hay là đúng không hiểu về lịch sử đất nước thật. Thấy có những tít rất mị dân!”
Bệnh viện Chợ Rẫy tại Sài Gòn. (Hình: Tài Nguyên và Môi Trường)
Một số ý kiến khác thì bày tỏ sự nghi ngờ về trình độ “không tới đâu” của các thư ký, trợ lý của ông Tô Lâm.
Ngoài phát ngôn liên quan Singapore, ông Tô Lâm cũng gây tranh luận khi thừa nhận Sài Gòn trước đây là thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa, là “Hòn Ngọc Viễn Đông,” khái niệm mà giới dư luận viên thường tỏ vẻ bực tức mỗi khi có ai đó nhắc đến để so sánh với thực trạng của TP.HCM sau 1975.
NGÀY QUỐC HẬN PHẢI LÀ NGÀY QUỐC HẬN
(Ngô Minh Hằng)
Trong trái tim, trong sách sử loài người
Để ghi lại ngày đau thương chất ngất
Cộng cướp miền Nam, cộng giết cuộc đời
*
NGÀY QUỐC HẬN PHẢI LÀ NGÀY QUỐC HẬN
Bởi BA MƯƠI, một cuối THÁNG TƯ xưa
Ngày Việt cộng gây hờn oan vô tận
Bức tử miền Nam, qủy quyệt, gạt lừa
NGÀY QUỐC HẬN PHẢI LÀ NGÀY QUỐC HẬN
Bởi đảng trả thù dân chúng miền Nam
Nào "cải tạo", lớp chết vì bất khuất
Chết bịnh, chết oan, roi, súng, bạo tàn
Lớp bị đảng lừa đi kinh tế mới
Để đảng cướp nhà, cướp của, chia nhau
Mặc dân chết bên luống mì đang xới
Chết bởi muỗi rừng, nắng vội mưa mau
Lớp chết biển khơi trên đường tị nạn
Bị sóng vùi ôm hận đáy trùng dương
Hay hải tặc chặn đầu, không cách thoát
Hoặc tàu hư, lạc lối giữa đêm trường
NGÀY QUỐC HẬN PHẢI LÀ NGÀY QUỐC HẬN
Ngày đau thương của nước Việt Nam mà!
Vì đảng đã coi người như thú vật
Cũi sắt, dùi cui thống trị sơn hà!
NGÀY QUỐC HẬN PHẢI LÀ NGÀY QUỐC HẬN
Thôi chớ vẽ vời thay chữ, đổi tên
Thay đổi thế nào vẫn kìa, sự thật
Sự thật kinh hoàng là THÁNG TƯ ĐEN!
Sự thật dã tâm của bày ác thú
Biến Việt Nam thành quận, hạt của Tàu
Bắt dân tộc sống nhục nhằn đói khổ
Để bạc tiền, ngôi vị đảng chia nhau...
Này hỡi đảng và những con tương cận
Ván cờ vào phút chót, tỉnh đi thôi!
NGÀY QUỐC HẬN PHẢI LÀ NGÀY QUỐC HẬN
Lương tâm đâu, sao chối bỏ tiếng người???
NMH
Bằng Giây Phút Này 50 Năm Về Trước, Mảnh Ký Ức, Không Bao Giờ Quên!
Chiến Dịch “Gió Lốc” Cuộc Di Tản Bằng Trực Thăng, Quy Mô, Lớn Nhất Trong Lịch Sử Loài Người!
-Câu chuyện về cuộc tháo chạy của Mỹ và những người Việt liên quan khi quân giải phóng tiến vào Sài Gòn những ngày cuối tháng 4/1975.
Bức ảnh đi vào lịch sử: đám đông tranh nhau lên trực thăng trên 1 nóc nhà Sài Gòn
Sài Gòn những ngày cuối cùng của tháng 4 năm 1975. Gần 15 vạn quân giải phóng từ khắp các ngả đường đang rầm rập áp sát thành phố.
Trước đó, Mỹ đã bắt đầu di tản dần công dân nước mình ra khỏi Sài Gòn. Tuy nhiên, khi quân giải phóng đã ngấp nghé ngoài cửa, vẫn còn hàng ngàn người Mỹ kẹt lại trong thành phố. Đấy là còn chưa kể gia đình, vợ con, và cả bồ bịch ở Việt Nam của họ. Rồi đám đồng minh của Mỹ, cả cánh phóng viên. Còn rất nhiều người Việt làm việc cho Mỹ hoặc cho chính quyền Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), và cả những kẻ mua giấy tờ để được ra đi. Nếu di tản hết thì phải lên đến cả trăm ngàn con người.
Cục Tình báo Liên bang Mỹ (CIA) đã ra sức đồn thổi về những cuộc tắm máu, những trại tù cải tạo đày ải khi “cộng sản” vào tiếp quản thành phố. Giờ thì không chỉ những người làm cho quân đội và chính quyền VNCH (mà miền Bắc thường gọi là ngụy quân và ngụy quyền) và thân quyến của họ lo sợ muốn ra đi, mà một bộ phận dân chúng cũng hoang mang. Giá tiền để mua một giấy chứng nhận kết hôn với người Mỹ đã tăng chóng mặt trong những ngày cuối.
Chính quyền Mỹ đứng trước một bài toán vô cùng hóc búa. Đưa những ai đi? Bằng cách nào? Và khi nào? Làm sao để vẫn giữ được thể diện cho nước Mỹ?
Từng giờ trôi qua căng thẳng. Cả thế giới nhìn vào.
*****
Từ chập tối ngày 28/4, quân giải phóng bắt đầu ném bom và nã pháo vào sân bay Tân Sơn Nhất. Mới đó đã 40 tháng từ ngày kí Hiệp định Paris, giờ người Sài Gòn mới lại nghe tiếng pháo. Con đường sơ tán chủ chốt bằng đường hàng không tại sân bay thế là đã bị cắt đứt, giờ sẽ đi bằng đường nào đây? Sự hoang mang như vết dầu loang ra khắp thành phố. Người Mỹ và những người Việt liên quan không ai còn có thể ngồi yên. Chỉ còn cách chuyển sang phương án dự phòng mạo hiểm cuối cùng: di tản toàn bộ những người còn lại bằng trực thăng, cái mà người Mỹ gọi là Chiến dịch Gió lốc (Operation Frequent Wind).
CHUẨN BỊ
Những người sẽ di tản (bao gồm người Mỹ, người nước ngoài, và những người Việt được lựa chọn) được phát 1 cuốn sách hướng dẫn nhỏ. Theo đó, ám hiệu bắt đầu chiến dịch là bài hát White Christmas được phát trên Đài Phát thanh Quân đội Hoa Kỳ. Khi nghe hiệu lệnh này, người di tản phải ngay lập tức tập trung tại 1 trong 28 điểm tập kết đã định khắp thành phố. Tại đây, các chuyến xe bus theo 4 tuyến đường khác nhau sẽ đưa họ đến Văn phòng Tùy viên Quân sự Hoa Kỳ (DAO) cạnh sân bay. Từ căn cứ này, trực thăng sẽ chở người di tản ra các tàu của Hạm đội 7 Hải quân Mỹ đợi sẵn ở ngoài khơi biển Vũng Tàu.
Tòa đại sứ cùng nhiều nóc nhà khác ở trong thành phố cũng đã được Mỹ khảo sát và chọn làm điểm hạ cánh, nơi trực thăng sẽ đón người di tản ra căn cứ DAO.
Sáng sớm ngày 29/4, đích thân đại sứ Mỹ ra sân bay giữa tiếng nổ ùng oàng của của đạn pháo để chắc chắn rằng không thể di tản bằng đường hàng không được nữa. Tới 10h48, khi không còn có thể chần chừ thêm được nữa, ông liên lạc về Mỹ xin khởi động Chiến dịch Gió lốc. Chỉ 3 phút sau, đề nghị nhanh chóng được chấp thuận. Giai điệu bài hát White Christmas vang lên trên sóng phát thanh. Cuộc di tản bằng trực thăng lớn nhất trong lịch sử loài người chính thức bắt đầu.
HỖN LOẠN
Thế nhưng, chẳng mấy chốc, mọi việc trở nên hỗn loạn. Số người muốn di tản quá nhiều, đến mức mà các chuyến xe bus và trực thăng chỉ như muối bỏ biển. Cái “hiệu lệnh bí mật” là bài hát White Chrismas kia được rỉ tai nhau đến mức dường như cả thành phố đều biết. Người ta đổ dồn đến các điểm chờ xe bus, các tòa nhà cao tầng nơi có điểm đỗ trực thăng, các bến tàu trên sông Sài Gòn, và đặc biệt là bủa vây tòa đại sứ, hòng mong chen lấn được một chỗ để ra đi.
Hoàng Thị Oanh Oanh năm đó 12 tuổi đi cùng mẹ và các anh chị em. Cha cô bé là một trung tá VNCH đã mất liên lạc với gia đình. Cô hồi tưởng lại cái ngày 29 tháng 4 điên đảo ấy. Đầu tiên, cả nhà đến phi trường và bắt gặp một khung cảnh vô cùng hỗn loạn – người chạy tứ tán, kêu gào trong cơn hoảng loạn, rượt theo những chiếc xe chạy qua, van xin để được lên máy bay. Rồi cả nhà đi ra bến tàu. “Khi chúng tôi đến đó, cảnh tượng còn ghê hơn.” Oanh Oanh kể. “Người ta nhảy lên thuyền và rớt xuống nước. Có người bị thuyền nghiến lên; người thì khóc, kẻ kêu gào; trẻ con chạy tan tác vì lạc cha mẹ. Cảnh tượng như trong phim. Khói bốc lên khắp nơi. Chúng tôi nghe tiếng súng nổ … nên mẹ tôi quay đầu xe và lái về Tòa Đại Sứ Hoa kỳ.”
TRÊN CÁC NÓC NHÀ
Air America, hãng hàng không dân sự thuộc sở hữu bí mật của CIA, được giao nhiệm vụ đón người di tản tụ tập trên các nóc nhà khắp thành phố. Phi công Tony Coalson vẫn còn nhớ như in: “Có quá nhiều nóc nhà và chúng tôi thực sự không biết cái nào ra cái nào. Chúng tôi chỉ còn biết chọn bừa 1 cái và đáp xuống.”
Nhiều quan chức và sỹ quan của VNCH, dù liên lạc và được trưởng chi nhánh CIA Tom Polgar tìm cách bố trí, cũng không thể chen chân giữa biển người bao quanh tòa đại sứ Mỹ. Trong số đó có cả phó thủ tướng kiêm tổng trưởng quốc phòng Trần Văn Đôn và con trai ông - một bác sỹ nhi khoa trẻ tuổi. Sau một hồi lòng vòng vô vọng giữa các điểm tập kết đông đặc, liên tục khản cổ gọi điện cho các nhân viên CIA, cuối cùng ông được chỉ điểm đến tòa nhà Pittman, số 22 Gia Long, nơi trước đó không được dự kiến là điểm đỗ trực thăng. Phi công Bob Caron của Air America được giao nhiệm vụ đi đón “ngài phó thủ tướng và gia đình”. Khi hạ cánh xuống nóc thang máy tòa nhà 6 tầng này, vẫn giữ quạt quay để trực thăng không đè nặng xuống nền vốn không được thiết kế để chịu lực lớn, nhìn qua cửa máy bay viên phi công la lên khi thấy phải đến 50 người đang leo lên thang. “Sao cái ông phó thủ tướng này có cái gia đình khủng vậy?!”
Không ai trong số những người trên nóc tòa nhà Pittman hôm đó biết mình là nhân vật của 1 trong những bức ảnh mang tính biểu tượng nhất thời đại.
Bức ảnh ở góc nhìn rộng hơn
Phóng viên ảnh người Hà Lan Hubert Van Es, tác giả bức ảnh, hồi tưởng trên tờ New York Times.
"Vào khoảng 2:30 chiều, khi tôi đang làm việc trong phòng tối, đột nhiên nghe Bert Okuley hét lên “Van Es, ra đây mau, có chiếc trực thăng trên nóc nhà kia!”. Tôi vớ vội chiếc máy ảnh và cái ống kính dài nhất trong phòng - nó chỉ là cái ống kính 300mm nhưng không còn cái nào hơn - và nhào ra ban công.
Nhìn sang tòa nhà Pittman, có khoảng 20 đến 30 người trên nóc đang trèo thang về phía chiếc trực thăng Huey của Air America. Ở phía trên, một người Mỹ trong bộ đồ dân sự, kéo từng người lên và đẩy họ vào trong trực thăng. Tất nhiên, không có cách nào nhồi nhét hết từng ấy người, vì thế máy bay cất cánh với khoảng 12 hoặc 14 người trên boong (số chỗ quy định của loại máy bay này chỉ là 8). Những người còn lại trên nóc đợi thêm hàng tiếng, hy vọng có chuyến trực thăng khác tới. Nhưng chẳng còn chuyến nào."
Người đứng trên nóc và kéo những người khác lên là nhân viên CIA Oren B. Harnage. Do đây là trực thăng “đi đón gia đình phó thủ tướng” nên mới có người hỗ trợ như vậy. Rất nhiều phi công khác trong cái ngày lịch sử đó phải bay mà không có cả lái phụ. Việc “đón khách” khi đó thật không dễ dàng, vì bạn không được rời buồng lái. Phi công Coalson, người đã bay một mình liên tục hơn 10 tiếng đồng hồ hôm đó kể lại “bạn phải để ý cánh quạt phía sau, phòng trường hợp có ai đó không biết chẳng may đi vào”. Khó nhất là khi cất cánh, vì luồng người vẫn trèo lên trực thằng không ngừng nghỉ. “Bạn phải bay lên thật từ từ chậm rãi, và dòng người sẽ nhận ra và tự ngắt”.
Cũng có những người vẫn cố "bám càng" máy bay dù biết nó đang cất cánh, và phi công chỉ còn cách lắc trực thăng cho đến khi họ buông ra.
Cứ như vậy, các phi công bay đi bay lại liên tục không nghỉ trong tình trạng đói mệt và căng thẳng tột cùng.
Trời tối dần, bắt đầu có mưa và sấm chớp, tầm nhìn giảm, các nóc nhà thì tối thui. Ở phía dưới, thỉnh thoảng súng lại nổ đì đùng.
Tới 9 giờ tối thì các chuyến bay đón người từ các nóc nhà dừng lại. Từ sau đó, việc di tản chỉ còn tập trung ở tòa đại sứ.
Ở TÒA ĐẠI SỨ
Nằm cách tòa nhà Pittman vài khu phố là tòa đại sứ Mỹ, nơi có thể coi là “mắt bão”, trung tâm của sự hỗn loạn. Theo kế hoạch ban đầu, đây cũng chỉ là một điểm tập kết thông thường, xe bus sẽ chở những người di tản ra căn cứ DAO trước, sau đó 2 trực thăng sẽ đón vị đại sứ, đám tùy tùng và lính gác từ nóc nhà. Thế nhưng, biển người kéo đến vây quanh khiến kế hoạch sớm bị phá sản. Khốn nỗi, khác với căn cứ DAO nơi có tới 6 điểm đỗ trực thăng, tòa đại sứ chỉ có 1 điểm duy nhất trên nóc vốn chỉ chịu được sức nặng của trực thăng vận tải hạng trung. Vì thế, đám lính gác nhanh chóng chặt hạ “cây me của ngài đại sứ” ở bãi đỗ xe trong sân sau để lấy chỗ cho trực thăng lớn hơn đáp xuống. Cây me lớn này trước đó được vị đại sứ ví “vững chắc như thỏa thuận giữa Mỹ và VNCH”.
Khung cảnh tòa đại sứ (mặt cổng chính ở đường lớn phía ngoài cùng bên trái). Hai điểm đỗ trực thăng trên nóc tòa nhà chính và dưới bãi đậu xe (hình chụp khi cây me vẫn còn). Ở phía sau (không thấy trong hình) vẫn còn rộng, có cả hồ bơi.
3 loại trực thăng chính tham gia chiến dịch là Huey (nhỏ, có thể đậu trên các nóc nhà trong thành phố), CH-46 (trực thăng vận tải hạng trung, đậu được trên nóc tòa đại sứ) và CH-53 (trực thăng vận tải hạng nặng, chỉ đậu được dưới sân tòa đại sứ). Huey được lái bởi phi công Air America (CIA) còn CH-46 và CH-53 là của thủy quân lục chiến Hoa Kỳ.
*****
Mẹ của Oanh Oanh bỏ ra một ít vàng để mua giấy tờ giả từ một người bán dọc đường. Khi họ đến tòa đại sứ, đám đông hung hãn đang trèo qua các cánh cổng. Bà mẹ cầm nắm giấy tờ vẫy những người lính gác. “Hai người lính đi ra, tách đám đông, cố để cho chúng tôi đi qua. Dù vậy, người ta nắm, kéo và đạp vào chúng tôi. Mẹ ráng lôi được chúng tôi qua cổng, đi vào bên trong tòa đại sứ.”
Đám đông trèo tường vào tòa đại sứ
Các lính Mỹ đứng gác trên tường, đẩy người này xuống, kéo người kia lên. Những người được kéo vào có thể do người lính gác biết mặt, hoặc họ có giấy tờ hay thư tay gì đó. Đôi khi mọi thứ không rõ ràng, và tùy gã lính gác quyết định. Quyền sinh quyền sát trong tay, chẳng khác gì người soát vé ở một sân vận động bát nháo.
Một chiếc CH-46 trên nóc tòa đại sứ
Tướng Richard E. Carey, người chịu trách nhiệm điều hành cuộc di tản, lúc đó ở trên tàu chỉ huy USS Blue Ridge. Mãi đến chiều, ông mới được biết về tình trạng rối ren ở tòa đại sứ. Kế hoạch lấp tức phải thay đổi, cần rất nhiều trực thăng tới ngay đó. Tuy nhiên, cần phải giải quyết đống người lổn nhổn ở căn cứ DAO trước, nên mãi tới gần 6 giờ chiều, 4 chiếc trực thăng CH-46 đầu tiên đáp mới xuống tòa đại sứ. Từ đó cho đến gần mờ sáng hôm sau, các chuyến trực thăng liên tục đi đi về về chở người di tản ra các tàu ngoài khơi, mặc cho trời đã tối và mưa sấm chớp làm giảm tầm nhìn, và cả nỗi lo lắng bị bắn hạ bởi quân đội các phía.
Phi công 30 tuổi Gerry Berry của thủy quân lục chiến Hoa Kỳ hôm đó lái chiếc CH-46 biệt hiệu Lady Ace 09. Anh được giao 1 nhiệm vụ khá “giản dị”: đón đại sứ Graham Martin ra tàu chỉ huy USS Blue Ridge ngoài khơi. Nhưng việc đó hóa ra không hề đơn giản: vị đại sứ quyết chỉ ra đi khi tất cả những người trong tòa nhà được di tản hết. Berry nhớ lại lần nào đáp xuống nóc nhà, anh cũng hét to ‘tôi đến đây để đón ngài đại sứ’. Và lần nào cũng như nhau, đám lính Mỹ ở đó chẳng thèm đếm xỉa, lạnh lùng sắp xếp những người khác đầy máy bay. Chẳng còn cách nào khác, gã phi công trẻ đành cất cánh chở họ ra các tàu ở biển. Hết lần này đến lần khác. Vậy mà lượng người dường như không hề thuyên giảm.
Một chiếc CH-53 đang cất cánh từ bãi đỗ xe. Đến buổi tối thì đám lính gác phải huy động tất cả xe hơi bật đèn để chiếu sáng ở đây.
Ngồi ở Nhà Trắng, tổng thống Mỹ Gerald Ford và ngoại trưởng Henry Kissinger theo dõi vô cùng sốt ruột. Ai cũng tự hỏi đến bao giờ bao giờ cuộc di tản căng thẳng ở tòa đại sứ này mới kết thúc?
2h10 rạng sáng ngày 30/4, đại sứ quán đưa ra con số ước tính là cần khoảng 19 chuyến nữa. Rõ ràng là con số này là không đủ. Người đã vào sân tòa nhà còn rất nhiều, và bất chấp lực lượng bảo vệ, người ta vẫn đang trèo tường trốn vào thêm. Một nhóm người của Sứ quán Hàn Quốc trong lúc đợi đến lượt đã lấy rượu trong quầy uống đến say xỉn.
3h27 sáng, tổng thống Ford yêu cầu không được đón thêm quá 19 chuyến nữa, và đại sứ Martin phải rời đi trên chuyến cuối cùng.
4h30 sáng, con số 19 chuyến đã vượt quá, vẫn còn gần 500 người nữa. Phía đại sứ quán vẫn cố gắng tiếp tục đón đến người cuối cùng. Nhưng phía quân đội thì chỉ muốn dừng. Các phi công đã quá mệt mỏi, còn các chỉ huy thì lo lắng sợ điều gì tệ hại có thể xảy ra. Tướng Carey, người chỉ huy chiến dịch, chỉ thị dứt khoát: từ giờ chỉ được phép đón nốt những người Mỹ còn lại!
Khoảng 20 phút sau, Berry lại đáp chiếc Lady Ace 09 xuống nóc tòa đại sứ. Không biết đó là lần thứ bao nhiêu trong ngày. Như thường lệ người lại được nhét đầy. Thật điên tiết, Berry gọi gã thượng sỹ lại gần buồng lái. “Cho những người này xuống hết! Tôi sẽ không cất cánh khi không có đại sứ trên boong!”, viên phi công hét lên. “Đây là mệnh lệnh của tổng thống”, Berry thêm vào.
Câu thêm vào đó lập tức tỏ ra có hiệu quả. Gã lính đi xuống và một lúc sau đại sứ Martin cùng những người tùy tùng xuất hiện. Vị đại sứ trông mệt mỏi phờ phạc.
“Hổ đã rời chuồng”, Berry nói vào bộ đàm sau khi trực thăng cất cánh cùng với vị đại sứ trên boong. Lúc đó là 4 giờ 58 phút sáng.
Còn khoảng hơn 60 lính gác Mỹ đang ở khắp nơi: trên tường, ở cổng, trên nóc tòa nhà chính. Dưới sân là khoảng 420 người đang chờ đến lượt – những người đã được hứa chắc nịch bởi người Mỹ là “đã vào tòa đại sứ là vào lãnh thổ Mỹ và yên tâm là sẽ được đi”. Ở phía ngoài tường tòa đại sứ, biển người mênh mông vẫn hy vọng sẽ đến lượt được vào trong.
Thiếu tá Jim Kean, chỉ huy đội lính gác, bí mật lệnh cho đám lính rời vị trí và xếp thành 3 vòng bán nguyệt, từ từ đi lùi rút từ ngoài sân vào trong tòa nhà chính. Đám người trong sân hiểu ngay ra chuyện gì, cũng xếp thành vòng theo sát. Họ nhìn chằm chằm vào nhau, đám lính chĩa súng ra, lùi vào 1 bước, đám người tiến theo 1 bước, nhịp nhàng. Không gian căng thẳng như dây đàn. Khi khoảng hơn nửa số lính đã vào được trong thì rầm 1 tiếng. Ai đó hét lên “họ vào rồi!”. Đám đông bên ngoài đã phá được cổng ngoài và ùa vào sân như dòng nước.
Chị Nguyễn Thu Minh cùng 6 đứa con cũng có mặt tại tòa đại sứ lúc đó. “Lính Mỹ xếp thành một hàng, chĩa súng về phía chúng tôi, rồi lui dần vào trong nhà.”, chị Minh nhớ lại, “Trước khi vào hết bên trong, tên lính cuối cùng bắn lựu đạn cay vô chúng tôi, rồi họ đóng cửa lại. Chúng tôi không thấy đường và không thở được. Người ta chạy tứ tán, kêu gào, và đạp lên những người ngã.”
Sau khi đã chốt chặt cửa tòa nhà chính, lính Mỹ khóa thang máy, rút lên nóc theo đường thang bộ, qua mỗi tầng lại cẩn thận khóa cửa song sắt dẫn lên tầng trên.
Dưới mặt đất, đám đông giận dữ lái một xe bồn nước húc sập cửa tòa nhà chính, rồi ùa vào, túa lên cầu thang theo.
Cần khoảng 3 chuyến CH-46 nữa mới có thể di tản hết đám lính còn lại. Ở dưới cầu thang, đám đông nổi giận lần lượt phá cửa từng tầng một, tiếng răng rắc vang lên ở nóc nhà cũng có thể nghe thấy. Tiếng súng đùng đoàng từ dưới đất hoặc các nóc nhà gần đó chốc chốc lại vang lên.
Trên tàu chỉ huy USS Blue Ridge, tướng Carey giật mình nhận ra một sai lầm chết người. Mọi người đã hiểu nhầm thông báo “Hổ đã rời chuồng” của Berry, và tất cả các trực thăng đang bay đều đã quay về và hạ cánh trên các con tàu. Các phi công đã hoàn thành và nghỉ ngơi. Không ai quay lại đón toán lính còn trên nóc.
Tàu đã đi ra xa ngoài khơi hơn, thời gian bay đến tòa đại sứ cũng dài hơn.
Nhưng Berry và phi công yểm trợ của mình thì chưa nghỉ, họ biết đám lính còn ở đó. Hai người liền lái 2 chiếc CH-46 lại quay trở lại. Nhưng 2 chiếc không đủ chỗ cho hơn 60 còn lại. Khi chiếc Lady Ace 09 rời đi, vẫn còn 11 lính Mỹ cuối cùng trên nóc. Lúc đó đã là 7 giờ sáng.
Đám đông đã lên đến thang bộ tầng trên cùng, ở ngay lối lên nóc. Toán lính dùng lựu đạn hơi cay để ngăn cản, vớ lấy các thiết bị chữa cháy và bất kì thứ gì có ở đó để chặn cửa.
Tại Washington, ngoại trưởng Henry Kissinger họp báo, thông báo chiến dịch đã hoàn thành, người Mỹ đã được sơ tán hết. Bỗng một phóng viên hỏi. “Thưa ngoại trưởng, có báo cáo là vẫn còn lính Mỹ trên nóc tòa đại sứ, xin ông xác nhận và giải thích tại sao?”. Kissinger chết trân trong giây lát.
Cách đó nửa vòng trái đất, tại tòa đại sứ, đã gần 1 tiếng trôi qua, những người lính Mỹ còn lại trên nóc nhà đã nghĩ là mình bị bỏ rơi. Họ bắt đầu tuyệt vọng và nghĩ đến viễn cảnh khi quân giải phóng tấn công lên nóc thì sẽ chiến đấu hay đầu hàng… Bỗng 1 lính gác chỉ tay lên nền trời. Từ xa, hình 1 chiếc CH-46 dần dần hiện rõ. Đó là chiếc CH-46 biệt hiệu Swift 22, lần này thậm chí được dẫn đường bởi 4 trực thăng chiến đấu Cobra. Tiếng động cơ máy bay kích thích đám đông người đang mắc ở trong thang bộ. Họ lại ra sức phá. Cánh cửa lên sân thượng cong lên chực vỡ. Đám lính Mỹ vội vàng lên leo máy bay. Một tên luống cuống ném vội 2 quả lựu đạn cay. Ngay sau đó, gã này đã nhận ra đó là 1 sai lầm ngu xuẩn. Hơi cay bị động cơ hút vào trong trực thăng, cay xè mắt. Máy bay lảo đảo, nâng lên hạ xuống mấy lần. Một lính Mỹ lăn ra ngoài nhưng trèo vào lại được.
Rồi cuối cùng, chiếc Swift 22 vẫn cất cánh thành công. Lúc đó là 7h53 sáng. Chừng 40 phút sau, nó hạ cánh an toàn xuống tàu USS Okinawa.
Đám đông ngay sau đó ùa lên nóc nhà, rồi kiên nhẫn chờ nhưng chẳng còn chuyến nào. Họ dần giải tán.
Chỉ tầm 3 tiếng sau, cách đó chưa đầy 1 cây số, những chiếc xe tăng đầu tiên của quân giải phóng húc đổ cánh cửa sắt của dinh Độc lập, chính thức đặt dấu chấm hết cho chế độ VNCH.
NGOÀI BIỂN
Không thể trông chờ gì vào các chuyến trực thăng của Mỹ, rất nhiều người Việt phải tự lo cho mình và gia đình.
KHÔNG QUÂN. Khi Berry đến đón toán lính cuối cùng trên nóc tòa đại sứ vào bình minh ngày 30/4, từ trên máy bay nhìn về phía xa, ông thấy chi chít các đốm nhỏ nhìn rõ trên nền trời hửng sáng, trông như đàn chuồn chuồn rời tổ. Đó là các trực thăng của không quân VNCH đang tìm đường ra các tàu của Mỹ ngoài khơi. Từ tối ngày 28/4, không quân VNCH đã bắt đầu mạnh ai nấy chạy từ cấp chỉ huy. Thậm chí họ còn cướp 6 máy bay đang đỗ trong căn cứ của Air America. Ai có máy bay đi được xa thì mang gia đình bay sang căn cứ không quân của Mỹ tại Thái Lan, còn không thì ra biển tìm các con tàu để đáp.
Hải quân Mỹ đã không lường trước việc này. Do không có đủ chỗ trên các boong tàu cho đống trực thăng ngoài dự kiến này nên thủy thủ đoàn phải cùng nhau đẩy nhiều chiếc xuống nước để lấy chỗ. Các chuyến đến sau, phi công được yêu cầu nhảy ra ngoài và cho máy bay đâm xuống nước, sẽ được vớt lên tàu. Bởi không phải ai cũng thạo món này nên đã có trực thăng bị va chạm với thành tàu.
2025! Tưởng Niệm 50 Năm Sau, Tháng Tư Đen Và Chiến Dịch Gió Lốc Trên Hàng Không Mẫu Hạm USS Midway!
(Văn Lan/NV)
-Hàng ngàn người tham dự lễ tưởng niệm 50 năm Tháng Tư Đen và kỷ niệm Chiến Dịch Gió Lốc tại bảo tàng hàng không mẫu hạm USS Midway ở San Diego hôm Chủ Nhật, 27 Tháng Tư, do USS Midway Museum và Viện Bảo Tàng Di Sản Người Việt đồng tổ chức.
Đoàn trống Thiên Ân trong nhạc kịch “Con Rồng Cháu Tiên.”
Buổi lễ long trọng đánh dấu sau nửa thế kỷ chấm dứt chiến tranh Việt Nam, để tưởng niệm các chiến sĩ Hoa Kỳ và đồng minh, cùng các chiến sĩ VNCH đã hy sinh hiến đấu vì lý tưởng tự do cho miền Nam Việt Nam.
Trong không khí trang nghiêm và xúc động, từng phái đoàn quân dân cán chính VNCH đã đến thắp hương trước bàn thờ tổ quốc và đài tưởng niệm các chiến sĩ Hoa Kỳ và đồng minh, do CLB Hùng Sử Việt San Diego thiết kế thật trang trọng, lần đầu được đặt trên USS Midway sau 50 năm.
Buổi lễ bắt đầu với đoàn trống Thiên Ân trình diễn tiết mục “Con Rồng Cháu Tiên,” cho thấy người Việt đã hình thành hơn bốn ngàn năm lịch sử hào hùng, từ thời lập quốc luôn chống chọi với trước các thế lực xâm chiếm đất nước.
(Đề Đốc Lawrence Chambers, cựu hạm trưởng USS Midway, phát biểu trong lễ tưởng niệm và kỷ niệm 50 năm Chiến Dịch Gió Lốc.)
Tiếp đến, lễ thượng cờ VNCH và Hoa Kỳ do toán quốc kỳ và quân kỳ của Liên Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH và Hội Cựu Chiến Binh VNCH Hải Ngoại, cùng toán quốc kỳ và quân kỳ Hoa Kỳ do Navy Medicine Readiness Training Command San Diego Color Guard thực hiện.
Trong khi quốc ca VNCH và quốc ca Hoa Kỳ hùng hồn trỗi lên, mọi người cùng trang nghiêm trước nghi thức phút mặc niệm do ông Paul “Chappie” Ward và Hải Quân Đinh Quang Truật điều khiển.
Tiếp đến, nghi thức long trọng với bốn vòng hoa tưởng niệm được thả xuống biển, do ông Tsu A Cầu (cố vấn đại diện Trung Tâm Điều Hợp Tây Nam Hoa Kỳ-Tập Thể Chiến Sĩ VNCH Hải Ngoại) và ông Nguyễn Văn Lực (chủ tịch CLB Hùng Sử Việt San Diego) cùng hai cựu chiến binh USS Midway, Pence Parsons và Rob Boyd, thực hiện.
(Cựu Trung Tá Không Quân VNCH, ông Nguyễn Văn Ức, phát biểu cám ơn Đề Đốc Lawrence Chambers, chỉ huy USS Midway trong Chiến Dịch Gió Lốc.)
Lần lượt, các vị anh hùng trên chiến hạm USS Midway được mời lên phát biểu và nhận bằng vinh danh từ các đơn vị, gồm có cựu Đề Đốc Lawrence Chambers, chỉ huy hàng không mẫu hạm USS Midway trong Chiến Dịch Gió Lốc; cựu Thiếu Tá Lý Bửng, phi công lái L.19 chở vợ và năm con nhỏ, đáp xuống thành công trên phi đạo ngắn của USS Midway; và ông Vern Jumper, cựu chỉ huy trưởng, giám đốc phi đạo USS Midway.
Dân Biểu Liên Bang Derek Trần, Địa Hạt 45, nói rằng hôm nay không đơn thuần là một buổi lễ tưởng niệm, mà là sự tôn vinh lòng kiên cường, đức hy sinh và tinh thần nhân bản đã soi sáng trong thời khắc đen tối nhất, là ngày dành cho sự tưởng nhớ, suy niệm và tri ân Chiến Dịch Gió Lốc là biểu tượng của lòng can đảm và nhân đạo trong lịch sử Hoa Kỳ, hơn 6,000 công dân Mỹ và người Việt Nam đã được không vận đến nơi an toàn.
(Nghi thức thả vòng hoa tưởng niệm các chiến sĩ VNCH và Hoa Kỳ đã hy sinh trong cuộc chiến Việt Nam.)
Ông tiếp: “Cá nhân tôi, cũng như hàng trăm ngàn người Mỹ gốc Việt khác, mang trong lòng câu chuyện của cha mẹ chúng tôi, những thuyền nhân Việt Nam đã rời bỏ quê hương với hai bàn tay trắng. Trên đất Mỹ, chúng ta đã gây dựng nên những cộng đồng vững mạnh, thịnh vượng, kiên cường, và không bao giờ quên cội nguồn lịch sử.”
Ông tiếp: “Chúng ta tôn vinh những người trong số đó là con cháu của những người tị nạn, hoặc chính họ là thuyền nhân, trở thành những vị tướng, đô đốc trong quân đội Hoa Kỳ, những nhà khoa học đoạt giải thưởng, doanh nhân thành đạt, nhà giáo dục, bác sĩ, nghệ sĩ… Những người đã biến nghịch cảnh thành cơ hội chỉ trong nửa thế kỷ ngắn ngủi. Hành trình từ bi kịch đến thành công của chúng ta mới chỉ là bước khởi đầu.”
(Dân Biểu Derek Trần, Địa Hạt 45, cám ơn USS Midway trong Chiến Dịch Gió Lốc, và mong cộng đồng vững mạnh, thịnh vượng, kiên cường, và không bao giờ quên cội nguồn lịch sử.)
Vị dân biểu nói rằng, ông rất vinh dự và ý thức sâu sắc trách nhiệm cao cả là phải gìn giữ, truyền lại và làm rạng danh lịch sử của chúng ta. Little Saigon, cộng đồng người Việt lớn nhất hải ngoại là biểu tượng sống động của niềm hy vọng, là ngọn hải đăng của tinh thần bất khuất và sự kiên cường của dân tộc Việt Nam.
Bà Đặng Kim Trang, chủ tịch Cộng Đồng Người Việt San Diego, nói rằng USS Midway đã thực hiện một trong những nhiệm vụ giải cứu anh hùng nhất trong lịch sử hiện đại, đã cứu nhiều gia đình và cho người Việt cơ hội để làm lại từ đầu.
Bà tiếp: “Hôm nay là cũng ngày tưởng nhớ những chiến sĩ Hoa Kỳ và đồng minh đã cùng sát cánh chiến đấu và hy sinh cho sự tự do của miền Nam Việt Nam. Đất nước Hoa Kỳ với những quân nhân dũng cảm, những người đã đứng trên boong tàu này đã không bỏ rơi chúng ta 50 năm trước. Tụ họp trên boong tàu vĩ đại này, chúng ta hãy nhớ đến lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, biểu tượng của tự do, dân chủ và tinh thần bền bỉ của một dân tộc chưa bao giờ từ bỏ hy vọng.”
TÔI BỎ ĐẢNG!
(Cựu Đại Tá Phan Huy)
Tôi sinh ra trên quê nghèo đất Bắc
Cộng sản nòi nối gót của cha anh
Bố của tôi, một cách mạng lão thành
Đi kháng chiến thuở tầm vông giáo mác
Lúc còn nhỏ, tôi đã nghe về Bác
Một ông già râu tóc bạc phơ phơ
Tôi hát bài, em thấy Bác trong mơ
Cô giáo bảo, bác là tiên là Phật
Tôi lớn lên, nghe những lời đường mật
Được vào đoàn, vào đảng bác quang vinh
Cờ búa liềm, hình lãnh tụ Lê Nin
Thay tổ quốc và Hùng Vương dựng nước
Đảng dạy tôi, chủ nghĩa mình đi trước
Đưa năm châu lên thế giới đại đồng
Nhà nước ta của giai cấp công nông
Dân là chủ, đảng viên là đầy tớ
Tôi ngất ngây trong hào quang lý tưởng
Tình nguyện vào chiến đấu ở miền Nam
Cứu đồng bào ra khỏi cảnh lầm than
Mà đảng nói do bàn tay Mỹ ngụy
Ánh sáng Miền Nam đưa tôi về chân lý
Vùng đất hiền hoà, nhân bản, phồn vinh
Cuộc sống tự do, dân chủ, nghĩa tình
Không sắt máu, căm thù, như miền Bắc
Tôi uất hận cho đảng mình láo khoét
Lùa dân vào một cuộc chiến tổn hao
Phung phí máu xương bộ đội, đồng bào
Để phục vụ cho quan thầy quốc tế
Từ đó đảng hiện nguyên hình đồ tể
Vung búa liềm đập nát cả quê hương
Một miền Nam hạnh phúc hoá tang thương
Một xã hội thiên đường thành địa ngục
Và bây giờ cả hai miền đất nước
Đã san nghèo, cào khổ giống như nhau
Cùng đội chung cái ách nạn trên đầu
Một chủ nghĩa ngông cuồng đầy tội ác
Người chủ nhân thành dân oan tan nát
Khóc vang đường, ngủ chật những vườn hoa
Người đầy tớ trên lầu cao chất ngất
Lợi ích đổi trao quanh yến tiệc rượu trà
Thì ra đảng thầu bán buôn xương máu
Và biển trời sông núi để chia nhau
Nuôi bầy chó dữ, dưỡng đám giòi sâu
Quyết đàn áp những tấm lòng yêu nước
Đảng cũng rước bọn Tàu ô xâm lược
Vào ém quân trên khắp cả ba miền
Để dự phòng khi dân Việt vùng lên
Sẽ đàn áp tiếp tay bầy giặc cướp
Đảng khốn kiếp chẳng thiết gì tổ quốc
Sẵn sàng dâng xã tắc của cha ông
Để cầu phong độc trị đến ngàn năm
Hàm thái thú đời cha truyền con nối
Đảng ghê tởm! Tôi chán chường muốn nói:
"Xin trả người, thẻ máu với cờ ma
Tôi sẽ đi về, với nguồn cội ông cha
Cùng dân tộc, dựng lại cờ quang phục!"
NGỤY!
(Tiểu Tử)
-Trong ngôn ngữ thông thường miền Nam Việt Nam trước tháng tư 1975, tiếng “ngụy” nghĩa là “giả” ít thấy có ai dùng tới.
Cái gì không phải thứ thiệt, không phải thứ “chánh cống”, không phải thứ “có cầu chứng tại tòa”… là người ta gọi hoạch tẹt là “đồ giả”, chớ không ai gọi là “đồ ngụy” hết. Ví dụ như rượu giả, thuốc giả, vú giả, bạc giả, v.v.
Bởi vì từ ngữ hồi đó rất… thật!
Sau tháng Tư 1975, tiếng “ngụy” đã theo gót… dép râu (Xin lỗi! Chỗ này văn chương nghe chỏi lỗ tai một chút, nhưng rất… tả chân. Không thể viết “theo gót giầy” như xưa nay thường viết, vì đối tượng ở đây toàn mang dép râu cả!) quân nón cối và quân mũ tai bèo vào Nam làm cách mạng…
nguy 01 - Sau biến cố, toàn dân miền Nam đều phải đi “học tập” ba hôm. Chính trong ba hôm đó người ta mới nghe lần đầu tiên tiếng “ngụy”. Và nghe… đầy lỗ tai!
Vậy là đầu hôm sớm mai, tiếng “ngụy” được nhét vào ngôn ngữ miền Nam một cách “ngang xương”, không cần phổ thông đầu phiếu! Mới đầu nghe lạ hoắc, không hiểu ý nghĩa sâu đậm của nó. Cũng chẳng có ai giải thích. Mà ví dụ có ai to gan lớn mật đặt câu hỏi thì cán bộ cũng chỉ giải thích… ngang như cua thôi!
Thành ra nhân dân miền Nam hiểu tiếng “ngụy” một cách rất… tự do, và sử dụng tiếng “ngụy” rất… rộng rãi (Được “giải phóng”, có khác!). Thôi thì cái gì của miền Nam cũng đều biến thành “ngụy” ráo. Để phân biệt với “cách mạng”!.. Thằng ngụy, vợ ngụy, con ngụy, lính ngụy, chánh quyền ngụy, cơ sở ngụy, xí nghiệp ngụy, công nhân ngụy, “hàm-bà-lằng” ngụy… Và người ta nghĩ một cách rất đơn giản, rất thật thà: “Hễ thấy không có đóng con dấu ngôi sao đỏ thì cứ xếp vào đồ ngụy, là ăn chắc!”.
Thật ra, khi dán cái nhãn “ngụy” lên miền Nam, “Đảng và Nhà Nước” muốn nhân dân “chủ yếu là nhân dân miền Bắc” hiểu theo định nghĩa “ngụy” là giả, “giả nhân giả nghĩa, giả đạo đức, giả yêu nước thương dân, “ngụy” là đoạt của người ta mà nói là của mình, là bịp, là láo, là phiến loạn…
Về sau, khi nhân dân cả hai miền đều… mở mắt, tiếng “ngụy” ít thấy dùng tới. Nhưng bây giờ thì mọi người đều nhận ra ai mới đúng là ngụy. Lớp ngụy trang bị rơi xuống, những ngụy ngôn bị vạch trần, thì chân tướng ngụy lòi ra rõ rệt, đến người mù cũng phải thấy!
Viết dài dòng để… “đả thông tư tưởng” trước khi vào chuyện.
Ông H là thiếu tá quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Ông làm việc ở Tổng Tham Mưu.
Ông thuộc gia đình trung lưu. Hồi 1945, cha và anh của ông đi kháng chiến rồi đi luôn ra Bắc. Từ đó, không được tin tức gì hết.
Mẹ của ông là giáo viên tiểu học, xem việc dạy dỗ trẻ con là một thiên chức. Bà thường nhắc về người cha và người anh vắng mặt, nhứt là người anh với những kỷ niệm đẹp của thời mà hai anh em còn ở chung với nhau: “Anh Hai của con thương con lắm. Đi học về là cởi trần rồi cõng con chạy cà bồng cà bồng quanh sân vừa chạy vừa hí rân như ngựa làm cho con cười hắc hắc. Mà con thì hay nhõng nhẽo với anh Hai con, đi đâu cũng bắt nó cõng hết. Còn khi nào con đòi cái gì không được, con hay vừa khóc vừa la để ba tưởng là anh Hai chọc con, ba rầy ảnh! Tội nghiệp! Những lúc thấy con sắp sửa làm trận như vậy, anh Hai con thường đưa đầu biểu con đánh nó đi chớ đừng khóc la, sợ ba rầy!”. Rồi bà kết luận: “Tánh tình nó tốt lắm!”.
Ông lớn lên trong vòng tay người mẹ, được giáo dục bằng tình thương, xem gia đình là căn bản, lấy đạo đức làm phương châm. Và ông giữ mãi trong lòng sự mến mộ “người anh Hai lúc nào cũng làm vui lòng em, lo lắng cho em, bảo vệ em”.
Mãi đến năm 1973, mới được tin qua một người bà con rằng cha mất đã lâu và người anh bây giờ là tướng của “ngoài đó”. Thật là bàng hoàng. Mẹ ông khóc hết nước mắt. Thời gian sau, bà nói: “Mẹ chỉ mong cho mau hết giặc, để anh em con về sống bên mẹ yên vui như ngày xưa. Chừng đó, mẹ mãn nguyện để theo ông theo bà…”.
Mẹ ông qua đời vào giữa năm 1974, chưa kịp thấy cảnh “hết giặc” ra làm sao và chưa kịp gặp đứa con làm tướng…
Mấy hôm sau ngày 30 tháng tư 1975, ông tướng nhờ người bà con đưa lại nhà ông H. Xa cách đã ba mươi năm, nhưng hai anh em vẫn nhìn ra được nhau. Bởi vì họ giống nhau như đúc. Sau mấy giây ngỡ ngàng, họ xà vào ôm lấy nhau siết chặt. Cả hai đều không cầm được nước mắt. Bà H và bốn đứa con “ba trai một gái, đã lớn hết, hai đứa đại học và hai đứa trung học cấp hai” đứng nhìn cảnh hai anh em ôm nhau, cũng bồi hồi xúc động…
Sau đó là bữa cơm gia đình để hai anh em kể cho nhau nghe những biến thiên của đời mình, của thời cuộc. Tiếp theo là ông tướng mang hành trang lại ở với gia đình ông H, để có anh có em.
Ông bà H có hai cái nhà. Cái mà ông bà đang ở với hai con học trung học, là loại vi-la lầu có sân lót gạch và vườn cây kiểng hồ cá trang trí theo kiểu Nhựt. Nhà này do ông bà tự cất lấy hồi thời các con còn nhỏ. Về sau, ông được thuyên chuyển ra miền Trung một thời gian. Ông đem hết gia đình ra ngoài đó, để nhà cho Mỹ mướn. Nhờ vậy, mấy năm sau, ông mua thêm một căn phố nhỏ cho hai đứa con trai lớn ở, khi chúng nó vừa vào đại học.
Sau khi đi xem nhà, ông anh bảo:
– To thế thì ở làm gì cho hết? (Bây giờ ông anh nói pha giọng Bắc rất nhiều). Nguyên cái buồng ngủ thôi cũng chứa cả môt hộ bốn năm người đấy!
Hôm sau, ông H được người anh khuyên:
– Chú làm cái vườn như thế này là phí đất. Đào lên đi để trồng trọt khoai bắp cho các cháu có mà ăn. Phải biết tăng gia chứ!
Mới đầu, ông hơi phật ý. Nhưng, khi nhìn sang hàng xóm thấy nhà nào cũng đào cũng xới kể cả dải đất hẹp té nằm dọc theo chân tường rào phía ngoài đường, ông nghĩ: “Mình cũng phải làm như thiên hạ, cho yên thân”.
Vậy là cha con ông hè hụi đập nạy cạy khượi, gạch, bê-tông, hồ cá… cho lòi đất rồi trỉa đậu trồng mì! Khu vườn Nhụt Bổn mà ông Bà H đã tự tay xây đắp, bây giờ tan hoang lồi lõm giống như bãi đổ… xà bần. Nhà ông H bây giờ mới thật sự mang nétcách mạng!
Ông anh “tên R” làm việc ở đâu, hỏi không bao giờ nói. Chỉ thấy mỗi sáng có xe của cơ quan đến rước, chiều đưa về. Ông H, sau khi khai lý lịch ở tòa đô chánh, tối ngày ngồi nghe tin tức qua ra-đi-ô. Bà H không dám nấu nướng trong bếp bằng lò ga. Bà sợ làm như vậy nó… ngụy quá đi, nên bà dựng ở hàng ba mấy cục gạch rồi nấu bằng than củi bằng lá khô… Bà kê cạnh đó một cái bàn thấp để chén đũa mắm muối, còn nồi niêu dao thớt thì cứ bỏ nằm lỏng chỏng dưới đất bên cái thau nhôm lớn đựng nước để dùng cho việc nấu nướng rửa ráy. Nước lấy từ ống cao su trước đây dùng tưới vườn. Nước dơ thì cứ tạt… cha nó ra sân. Bà H ngồi chồm hổm làm bếp, chổng khu thổi lửa khói bay um tùm làm đôi khi bà nhớ thời thơ ấu – bốn mươi mấy năm về trước – hồi ở dưới quê với bà ngoại, bà hay nhìn bà ngoại nấu cơm như bà làm bây giờ. Chỉ khác là hồi đó chưa có cách mạng! Ông anh có vẻ hài lòng về tác phong của bà H, nên khen: “Cô thật là sớm giác ngộ!”.
nguy 02 - Một hôm, đài phát thanh gọi các sĩ quan ngụy đi trình diện học tập. Và nói rõ: “Đem theo tiền ăn cho một tháng”. Ông H lo lắng, hỏi ý kiến ông anh thì được trả lời:
– Chú cứ yên tâm đi học tập. Anh bảo đảm không sao hết.
Vậy là ông H hun vợ con, xách ba-lô lên đường, còn dặn:
– Ở nhà có bác Hai. Mẹ con bây cần gì thì nhờ bác, nghen.
Một tháng sau, không thấy ông về, bà H hỏi ông anh thì được trấn an một cách rất bình thản:
– Cô yên tâm. Vài hôm là về thôi!
Cứ thế, vài hôm rồi vài hôm… dài dài… Bà H nóng lòng, chạy đi gặp mấy bà bạn cũng là vợ sĩ quan, mới hay rằng có thể chồng đã bị chở đi luôn ra ngoài Bắc. Bà lau nước mắt, về quây quần với mấy con, ngồi đợi ông anh. Gặp ông, bà mếu máo:
– Họ chở nhà tôi đi mất rồi…
– Đi đâu mà mất? Còn tập trung cải tạo ở trong Nam chứ phải biệt xứ đâu mà mất? Đi học tập chứ đi tù đâu mà cô sợ.
– Nghe đồn trong trại khổ lắm. Nhờ anh can thiệp cho nhà tôi về. Dù gì anh cũng là tướng và cha đã hy sinh vì cách mạng.
– Cách mạng không phải như ngụy đâu cô! Không có chuyện móc ngoặc bè phái. Không có chuyện tư vị nể nang. Luôn luôn xử sự có tình có lý. Chú ấy cứ học tập tốt là về ngay thôi! Nói thế chứ… để tôi xem có làm gì được không.
Một hôm, ông anh họp các con ông H lại, khuyên:
– Ba các cháu là ngụy. Cách mạng khoan hồng gởi đi học tập cải tạo. Ba các cháu có sớm được trả về hay không là còn tùy thuộc ở thái độ học tập của ba các cháu. Và cũng tùy thuộc ở trình độ giác ngộ cách mạng của má các cháu và các cháu nữa.
– Vậy, mình phải làm sao?
– Dễ thôi! Bác sẽ giới thiệu các cháu vào đội thanh niên xung phong, nếu các cháu muốn giúp ba các cháu.
– Vô đó để làm cái gì, thưa bác?
– Để phục vụ nhân dân theo khả năng của mình. Nếu các cháu có tinh thần phục vụ cao, Nhà Nước sẽ cho điểm tốt trong việc cứu xét trường hợp của ba các cháu.
Sau một lúc bàn tính, cả bọn bốn đứa đều đồng ý… xung phong.
Bốn đứa được thâu nhận nhưng không cùng ở chung một đơn vị. Phân tán chúng nó ra, cô lập từng đứa một, để dễ theo dõi kiểm soát, tránh mầm móng phản loạn… Nhà Nước đi một nước cờ thật cao!
Chúng nó được đưa đi đào đất đắp nền ở các vùng kinh tế mới hay đi đào kinh làm thủy lợi. Lâu lâu mới về thăm nhà một vài hôm. Nhưng không bao giờ cùng về một lúc. Và đứa nào về cũng xác xơ hốc hác, tay chân ghẻ lở giống như bị đi đày! Đứa con gái trước đây học năm thứ bảy dương cầm ở quốc gia âm nhạc, bây giờ tay cứng còng, không đánh nổi một bài tầm thường của hồi đó. Bà H nhìn các con mà đứt ruột. Cho nên mỗi lần đứa nào về, bà cũng chạy lo thuốc men và nấu nướng cho ăn uống tẩm bổ. Chỉ có ông anh là hài lòng và cho rằng đó là thành quả tốt đẹp của lao động!
Một hôm, ông anh bảo người em dâu:
– Bây giờ các cháu đã có Nhà Nước lo. Cô giữ làm gì đến hai cái nhà? Đây là lúc mà cô phải chứng tỏ trình độ giác ngộ cách mạng của mình bằng cách hiến cái nhà này cho Nhà Nước để làm cơ quan phục vụ nhân dân. Như vậy, chú ấy có cơ được về sớm.
Sau vài phút suy nghĩ, bà H chỉ bằng lòng cho Nhà Nước mượn thôi.
– Ừ! Thì cho mượn cũng được, tôi nghĩ thế. Để tôi liên hệ với các đồng chí ấy xem sao.
Vậy là tuần lễ sau, bà dọn về căn phố nhỏ ở cách đó độ mười lăm phút xe đạp, nhưng thuộc về một quận khác. Sự chuyển hộ (nghĩa là dời chỗ ở, địa chỉ) không gặp khó khăn, nhờ ông anh cách mạng (Trong thời này, muốn chuyển hộ phải làm đơn xin phép nơi mình sắp dọn đến. Phải “có lý do chánh đáng” và điều này phải được chứng nhận bởi chánh quyền nơi mình đang ở!
Khi đã được chấp thuận (có ký tên đóng dấu) đương sự phải vác đơn đó về trình cho chánh quyền nơi đang ở để… xin phép được di chuyển. Khi được chấp thuận – ký tên đóng dấu- mình mới được quyền dọn đi!
Rắc rối như vậy nên lúc nào cũng có một sự giải thích rất “có trình độ”: “Đằng kia có cho anh vô thì ở đây tôi mới cho anh ra. Chớ tôi cho anh ra mà đằng kia không cho anh vô thì anh… đi đâu?”.
Rõ như vậy, nhưng nhiều khi vác đơn đến “đằng kia” trước, thì bị từ chối và dĩ nhiên được giải thích cũng rất “có trình độ” không kém: “Anh phải xin phép nơi anh đang ở trước rồi mới đến đây sau. Anh có được cho đi thì tôi mới nhận cho anh đến. Chớ bảo tôi nhận cho anh đến, trong lúc anh chưa được cho đi thì làm sao được? Phải có đi rồi mới có đến chớ! Dễ hiểu thôi!”.
Cứ lẩn quẩn loanh quanh như vậy nên việc chuyển hộ thật là khó khăn.
Trong trường hợp chuyển từ tỉnh sang tỉnh hay từ vùng sang vùng thì khỏi nói, thật là “trần ai gian khổ”!).
Ông tướng có “động viên” một số đồng chí trẻ trong cơ quan đến phụ dọn nhà cho bà H. Và có cho mượn một chiếc xe cam-nhông-nét (cũng của cơ quan) nên việc dọn nhà cũng nhanh. Sau đó, ông anh cho bà ký tên tờ ủy quyền để ông anh thay mặt bà quản lý cái nhà lớn mà ông đang ở. Bởi vì bây giờ, bà đã chuyển hộ thì mặc nhiên ông anh trở thành chủ hộ ở ngôi nhà đó, mà muốn sử dụng cái nhà thì phải có sự ủy quyền của chủ nhà.
Mười lăm ngày sau, bà H được biết là nguyên cả tầng trệt nhà của bà đã trở thành “tổ gạo”, còn ông anh thì vẫn ở một mình trên lầu. Nghe nói bà tướng có vào thăm chồng một lần, ở độ mười lăm hôm rồi trở về Hà Nội. Không hiểu sao ông tướng không có đưa bà vợ lại thăm cô em dâu. Cách mạng có khác!
nguy 03 - Bẵng đi một thời gian dài gần cả năm, một hôm ông anh ghé nhà thăm bà H để báo tin đã tìm ra trại cải tạo của người em ở ngoài Bắc và chỉ vẽ cho bà cách thức xin đi thăm nuôi, đường đi nước bước, xe cộ vv… và nhứt là những thứ cần thiết như lương khô quần áo. Nghe như vậy, bà H đã đoán ra phần nào đời sống của chồng ở ngoài đó, nên bà rớt nước mắt hỏi:
– Sao trước đây anh không nói rõ để tôi lo cho nhà tôi có đầy đủ phải hơn không?
– Chuyện Nhà Nước, đâu nói ra được. Cô phải hiểu như thế chứ!
– Cái gì cũng che đậy. Cái gì cũng giấu diếm. Nhưng lần hồi thiên hạ đều biết hết. Bộ anh tưởng thiên hạ đui sao?
Đến đây bỗng nghe tiếng bà hàng xóm la lớn: “Đi đâu đó nữa? Mấy bữa nay tao nói mầy kê lại dùm mấy ông Táo kẻo mấy ổng sụm xuống thì không còn khỉ gì để nấu nướng… mà mầy cứ ăn rồi là xách đít đi hà!”.
Giọng người con trai: “Bộ má tưởng con đi chơi hả?”.
Giọng bà hàng xóm: “Chớ đi đâu mà ngày nào cũng đi, mầy nói tao nghe coi!”. Giọng người con, có vẻ hảnh diện, nói rời ra từng tiếng: “Con-đi-phục-vụ-nhân-dân!”.
Giọng bà hàng xóm, tức tối: “Phục vụ nhân dân! Phục vụ nhân dân! Con gái mẹ mầy cũng là nhân dân đây nè! Mầy phục vụ cho nó đi! Kẻo không chổi chà nó đơm lên đầu bây giờ!”.
Ngừng một lúc, lại nói: “Cha… Lúc này nói giọng cách mạng quá há! Phải mà! Con mẹ buôn gánh bán bưng này hăm mấy năm nay nó kềm kẹp mầy quá mà! Nó nhét cho mầy ăn để mầy lớn! Nó ép mầy học để mầy khôn! Nó ác ôn quá phải hông? Nó ngụy quá phải hông? Nó giả nhơn giả nghĩa quá phải hông?”
Nghe đến đây, ông tướng nhăn mặt:
– Ăn với nói! Rõ là không có trình độ!
Rồi ông đứng lên:
– Tôi phải vào cơ quan. Bao giờ cô được phép đi thăm nuôi, gặp chú ấy nhớ bảo tôi nhắn chú ấy luôn vững tin vào sự sáng suốt của Đảng và Nhà Nước. Ta khác ngụy ở chỗ xử sự có tình có lý và lúc nào cũng khoan hồng đối với những người biết quay về với nhân dân.
Bà H làm thinh, nhưng nhìn người anh chồng chỉ có nửa con mắt!
Lúc đó, nghe tiếng thằng con trai nhà hàng xóm: “Rồi đó! Con kê lại mấy ông Táo rồi đó!”. Giọng bà mẹ, vẫn còn hậm hực: “Dữ hôn! Có bao nhiêu đó mà cũng phải đợi tao nhắc năm lần bảy lượt! Thôi! Mầy đi phục vụ nhân dân của mầy, đi. Chiều, vác mỏ về, con mẹ ngụy này nó nấu cơm cho mà ăn”.
Từ ngày dọn về đây, bà H đi làm ở tổ hợp may thêu gần đó. Cũng phải đi làm như thiên hạ để đừng bị để ý theo dõi, chớ thật ra bà chưa đến nỗi túng thiếu nhờ đã cất giữ nữ trang trong nhà thay vì gởi ở ngân hàng. Bây giờ, lâu lâu bà bán một vài chỉ…
Bà hàng xóm (tên là bà Năm) có cái sạp cháo lòng ở đầu ngõ. Sáng nào, bà cũng đi bộ theo thằng con trai đạp xe ba bánh chở thùng tô dĩa muỗng đũa, thùng lòng dồi gia vị, nồi cháo lớn bằng nhôm, lò dầu hôi và mấy can nhựa đựng nước rửa chén… ra cây trứng cá nằm trên lề đường Phan Đăng Lưu (tức là đường Chi Lăng hồi trước).
Ở đây, có cái sạp gỗ dựng đứng và bốn năm cái ghế gỗ nhỏ được… xiềng vào gốc cây trứng cá. Hai mẹ con mở ống khóa, hạ cái sạp rồi kê ngay ngắn dưới tàn cây. Xong, thằng con về nhà lấy xe đạp, đạp đi “phục vụ nhân dân” cho tới tối. Thành ra, đến trưa khi bán hết nồi cháo – bà chỉ bán có buổi sáng – bà thâu xếp dọn dẹp một mình ên, rồi đẩy xe ba bánh chở đồ nghề về nhà (Bà không đạp vì không biết đi xe đạp!).
Cứ vài bữa, bà lại mang biếu bà H một tô cháo lòng. Bà biết bà H là vợ thiếu tá quốc gia và chồng đi học tập nên bà hay tới lui thăm viếng để an ủi. Bà H thật cảm động. Có hôm bà nhắc chừng:
– Bà Năm cẩn thận. Có thể tụi nó theo dõi.
– Ối… Cái lũ cô hồn đó tôi đâu có sợ, cô Hai. Hồi tụi nó mới vô, bắt mình làm tờ “báo công báo tội”. Tôi phát ghét nên khai là tôi tội lỗi đầy đầu bởi vì gần hai chục năm nay tôi bán cháo lòng cho ngụy ăn chớ không cho cách mạng ăn! Vậy mà có thấy thằng nào đụng tới tôi đâu, cô Hai!
– Coi vậy chớ cũng nên coi chừng, bà Năm à! Nhứt là khi bà rầy la thằng nhỏ, nói đụng chạm tới họ quá, không nên.
– Tụi nó đã coi mình là ngụy thì cứ thí mạng cùi chửi cho sướng miệng. Tội vạ gì mà nín thinh? Há?Nói xong, bà Năm nhếch mép cười, làm như bà đang thách đố cách mạng vậy!
Khi bà H được giấy phép đi thăm nuôi chồng, bà báo tin cho bà Năm và nhờ bà Năm coi chừng nhà giùm. Bà Năm mừng rỡ, làm như ông H là người nhà:
– Dữ hôn! Tới bây giờ mới cho con người ta đi thăm nuôi. Quân ác ôn! Được rồi, cô Hai cứ yên tâm, tôi giữ nhà cho. Mà chừng nào cô Hai định đi?
– Chắc mười hôm nữa, bà Năm à. Để có thì giờ lo cho đầy đủ. Chớ gấp rút quá thì quên trước quên sau…
– Cô Hai nói phải đó. Đi ra tới ngoài Bắc chớ bộ gần gụi gì hay sao?
Ngừng một chút, bà Năm cầm tay bà H lắc nhẹ:
– Cần gì thì cứ nói nghe cô Hai, đừng ngại. Mình với nhau mà…
Bà H xúc động, lí-nhí “cám ơn” mà nước mắt chảy quanh.
Lạ quá! Chỉ có mấy tiếng “mình với nhau” mà sao nghe ấm cúng vô cùng. Nhứt là trong hoàn cảnh này, trong giai đoạn này. “Mình với nhau” là sự nhận diện của những người cùng đứng về một phía. “Mình với nhau” nói lên sự cảm thông của những người cùng cảnh ngộ, cần nương tựa vào nhau, nâng đỡ nhau để sinh tồn. “Mình với nhau” là tình người không dị biệt giai cấp. Cho nên, khi mở rộng vòng tay, bà Năm cháo lòng chỉ cần nói có mấy tiếng đó thôi là quá đầy, quá đủ…
Hai hôm trước ngày bà H khăn gói đi thăm chồng, bà Năm qua nhà đưa một lon ghi-gô được ràng chằng chịt bằng dây thun:
– Cô Hai cho tôi gởi ổng lon thịt chà bông. Tôi làm có hơi mặn để ăn cho lâu. Tôi ém chặt và ràng kỹ, cô Hai đừng lo đường xa nó sút sổ. Cô cho tôi gởi lời thăm ổng, nghen.
Bà H “cám ơn”mà có cảm tưởng như bà Năm là người trong quyến thuộc!
Trong khi đi ra cửa, bà Năm còn quay lại nói:
– Cô Hai đi yên tâm. Tụi nhỏ của cô có về chơi thì tôi lo cơm nước cho hết. Cô nhớ viết ít chữ để lại cho tụi nó biết, nghen!
Bà H gật gật đầu, nhìn theo mà thấy bà bán cháo lòng đó còn cao cả gấp mấy mươi lần người anh chồng làm tướng của cách mạng!
nguy 04 - Đi thăm chồng về, bà H như già đi năm bảy tuổi. Mắt bà sưng húp, tóc tai rối bời, mặt mũi hốc hác. Bà Năm nhìn bà H, động lòng chảy nước mắt. Ngồi xuống bên bà H, bà Năm hỏi:
– Sao, cô Hai? Khổ lắm phải không?
Bà H mếu máo khóc, chỉ gật gật đầu chớ không nói được một lời. Bà Năm nhích lại gần, choàng tay ôm vai bà H, chửi đổng:
– Mẹ bà nó! Quân ác ôn!
Bà H bỗng quay sang ôm chầm lấy bà Năm, khóc nức nở. Vừa khóc vừa cố gắng nói, câu nói đứt ra từng khúc:
– Ảnh… ốm… đến nỗi… tôi… nhìn… ảnh… không ra…
Đến đây, bà Năm cảm động nghẹn lời. Bà chỉ còn biết vuốt vuốt lưng bà H, giống như bà đang dỗ về người em gái.
Hôm sau, bà H đội nón lá cầm cái thơ ông H viết cho người anh để gởi gắm vợ con, đi bộ về cái vi-la của bà ở quận kế bên. Bà cố tình đi bộ, vì bà nghĩ đến chồng. Đối với những gian khổ cùng cực mà chồng bà đã chịu đựng từ bao nhiêu năm nay – theo lời kể lại của ông H – thì sự đi bộ của bà không thấm thía vào đâu hết. Nhưng, khi bà đi bộ, bà tưởng chừng như bà đang chia xẻ một phần nào những khổ dịch của chồng, người tù cải tạo.
Vi-la của bà, bây giờ thấy khác trước. Tường rào đã xây lên cao. Cổng song sắt được gắn thêm lưới sắt ô vuông. Nhìn vào trong không còn tổ gạo, mà sân thì đã được tráng xi-măng lót gạch khía sạch sẽ.
Thấy có bóng người, bà H bấm chuông. Có giọng đàn bà hỏi vọng ra, giọng Bắc:
– Ai đấy?
– Dạ… tôi.
Một bà cỡ tuổi bà H bước ra hất hàm:
– Chị muốn gì?
– Thưa… Tôi muốn tìm ông R. Nhà tôi có viết cho ổng cái thơ…
– Đồng chí R à? Đồng chí ấy đã phục viên lâu rồi. Đồng chí bán nhà cho chúng tôi, xong, dọn hết về thủ đô. Thế… chị là gì của đồng chí ấy?
Bà H choáng váng mày mặt, chỉ còn kịp tỳ người vào trụ cổng để khỏi quị xuống. Tuy nhiên, bà vẫn nghe tiếng mình nói:
– Dạ… Tôi… À… Không!
Rồi câm luôn. Thấy bên ngoài làm thinh, bà người Bắc bỏ đi vào trong, nhưng vẫn nói vói ra:
– Đồng chí R hiện ở đâu, tôi cũng không biết. Thôi, chị về đi!
Phải một lúc lâu sau, bà H mới hoàn hồn. Bà đứng thẳng nhìn vào trong. Bà bỗng thấy bà đã biến thành một người khác. Một người cứng rắn hơn, lì lợm hơn. Một người sẽ dám nhìn thẳng vào mặt kẻ địch mà chửi như bà Năm cháo lòng. Ví dụ có người anh chồng đứng trước mặt bây giờ, bà sẽ xáng cho anh ta một bạt tai – điều mà trước đây bà chẳng bao giờ dám làm dám nghĩ!
Bà H vẫn đứng thẳng, nhìn vào trong. Mắt mở to, ráo hoảnh. Môi mím chặt. Tay bà vò nát cái thơ của chồng viết. Bà vò nó mà bà không hay! Bà chỉ cảm thấy một sự căm thù đang dâng lên làm bà trạo trực. Bà nghe buồn nôn!
Phải rồi! Bà muốn nôn mửa lên những giả dối gian manh mà bọn chúng nó thằng nào cũng có sẵn trong đầu. Bà muốn nôn mửa lên những lời lẽ giả nhân giả nghĩa mà bọn chúng nó thằng nào cũng có sẵn trên đầu môi chót lưỡi.
Bà muốn nôn mửa lên những thủ đoạn xảo quyệt được ngụy trang bởi những chiêu bài yêu nước thương dân, có nghĩa có tình… mà bọn chúng nó thằng nào cũng sẵn sàng hành động. Bà muốn… Bà muốn…
Bà H liệng cái thơ nhàu nát xuống đất, phun nước miếng nghe cái phụt một cách khinh bỉ, rồi cúi lượm cái nón lá bỏ rơi khi nãy đội lên đầu, đi thẳng.
Mấy năm sau, ông H vẫn “còn được cải tạo”, bà H lâu lâu vẫn lặn lội đi thăm nuôi chồng, hai thằng con lớn vượt biên rồi định cư ở Úc, đứa con gái lấy chồng đánh cá ở Minh Hải, thằng con út cặp với con bạn cùng xóm mở quán cà phê vỉa hè cạnh hàng cháo của bà Năm. Còn bà Năm vẫn bán cháo lòng, lâu lâu vẫn chửi thằng con mà giống như bà chửi Nhà Nước!…
Những vần thơ Tưởng Niệm ngày Quốc Hận 30/4/1975
(Nam Dao)
-Ngày Quốc Hận năm nay như năm trước,
Vẫn là ngày Quốc Hận của năm sau!
Nếu mọi người còn chung một niềm đau,
Còn quay quắt ôm nỗi sầu vong quốc.
(Vĩnh Liêm)
Bốn câu thơ trên của nhà thơ Vĩnh Liêm sáng tác vào dịp tưởng niệm 28 năm Quốc Hận (30/4/2003), không phải chỉ là tâm sự của riêng cá nhân tác giả mà nó phản ảnh tâm tư của người dân miền Nam nói riêng và của cả dân tộc Việt Nam nói chung. Niềm đau chung nỗi sầu vong quốc đã được ghi lại bằng những vần thơ, câu văn hay dòng nhạc. Đối với nhà thơ Lê Chân, tác giả của “Bài thơ Tháng Tư Đen”, 30/4 là ngày đoạn trường, ngày phủ màu tang trắng trên quê hương dân tộc:
Anh ơi! Tháng Tư đen
Ngày ba mươi đoạn trường!
Anh nuốt hờn tủi nhục,
Em suối lệ trào tuôn.
Anh ơi! Tháng Tư đen
Tháng Tư cơn Quốc nạn
Trời đất cùng kinh hoàng,
Tháng tư phủ mầu tang.
“Tháng Tư đen không chỉ là buông súng,
Ngày toàn dân phải trả gía”hòa bình” .
Bằng tủi nhục bằng ngàn năm tăm tối,
Bằng đọa đày cả thế hệ tương lai .”
Tháng Tư ôi! Nhục hình
Ngập trời cảnh điêu linh.
Khóc thương bao Anh Hùng,
Vì Tổ Quốc hy sinh.
Hay nỗi đau uất hận của nhà thơ Dương Thượng Trúc được gói ghém trong bài thơ Tháng Tư Tổ Quốc Phủ Màu Tang
Tháng tư Tổ Quốc phủ màu tang.
Dân tộc đau thương oán hận tràn.
Tủi phận nam nhi đời lữ thứ.
Hướng về quê mẹ lệ chứa chan…
Không phải chỉ riêng có Dương Thượng Trúc tác giả của bốn câu thơ trên mang nỗi sầu biệt xứ mà còn có Vĩnh Liêm và rất nhiều nhà thơ khác cũng đã nói lên dùm tâm trạng của hơn ba triệu thuyền nhân tỵ nạn CSVN nơi xứ người :
Vẫn là chuyện tháng Tư buồn thảm ấy,
Thế mà sao tôi vẫn nhớ thân thương!
Vì tháng Tư nên tôi phải ly hương,
Nơi đất khách ôm nỗi sầu biệt xứ.
Chuyện bi thảm của Miền Nam bức tử,
Là chuyện buồn của lịch sử sang trang.
Là niềm đau uất hận đã dâng tràn,
Là ly cách muôn đời dòng sữa Mẹ.
Vĩnh Liêm (Vẫn chuyện tháng tư)
Chuyện buồn của lịch sử sang trang cũng đã được nữ sĩ Ngô Minh Hằng ghi chép lại khá đầy đủ qua bài thơ “Hỡi ai thương nhớ quê hương”:
Hỡi ai thương nhớ quê hương
Xin nghe tôi kể chuyện buồn tháng Tư
Tháng Tư, trời đất mây mù
Lệnh hàng, buông súng, thiên thu còn buồn!
Nghẹn ngào, nhục tủi, đau thương
Oan khiên máu đỏ ngập đường lui quân
Thân người đổ xuống theo thân
Không làn đất phủ, không lần tiễn đưa !
Xác người bón gốc rừng thưa
Nước tôi có một Tháng Tư kinh hoàng !
Tháng Tư nghe lệnh đầu hàng
Bao người thương lá cờ vàng, quyên sinh!
Nước nguy, vị nước, quên mình
Mất thành, anh dũng cùng thành, chết theo!
Tháng Tư khói lửa ngặt nghèo
Vô danh quốc sử bao nhiêu anh hùng!
Tháng Tư vợ trẻ khóc chồng
Mẹ già chan chứa giọt hồng khóc con
Tháng Tư đại bác nổ giòn
Trẻ thơ chết thảm dưới cơn đạn thù
Tháng Tư rộng cửa lao tù
Nước tôi từ đấy đau nhừ nỗi đau
Núi rừng người nối chân nhau
Kiếp tù lạ nhất địa cầu, thảm chưa !
Trong tù, tù chết như mơ
Ngoài tù, dân chết bên bờ biển đông
Biển xanh pha đỏ máu hồng
Rừng xanh lệ đỏ từng dòng mồ hôi !
Tháng Tư ai biến nước tôi
Thành lò hỏa ngục thiêu người tang thương!
Đất nước VN đã được thống nhất gần nửa thế kỷ. Thời gian cũng khá đủ dài để xây dựng lại quê hương sau chinh chiến điêu linh và đem lại cơm no áo ấm hạnh phúc cho muôn dân. Nhưng điều gì đã khiến cho hơn ba triệu người Việt tỵ nạn CS ở hải ngoại ưu tư trăn trở phải chọn lựa ôm mối sầu biệt xứ cách ly muôn đời dòng sữa Mẹ VN. Bài thơ ‘Quốc hận 30 tháng 4 cuả Sao Linh được Đỗ Quân phổ nhạc cũng là một trong những câu trả lời cho câu hỏi tại sao những người mang căn cước tỵ nạn chính trị CSVN vẫn chưa trở về quê cha đất tổ:
Anh hỏi em sao không về thăm mẹ
Ngày lìa đời mẹ nhắm mắt không yên
Vắng bóng em nên mẹ chết ưu phiền
Vầng tang trắng thiếu đứa con gái út
Em hỏi anh vì sao em bỏ nước?
Tại vì sao mẫu tử phải chia lìa
Tại vì sao chồng vợ phải phân chia
Ngàn người chết biển đông trong rừng thẳm
Em hỏi anh hơn ba mươi năm lẻ
Quê hương mình dân chúng vẫn điêu linh
Độc lập tự do sao dân không cơm áo
Hiếp đáp người, đàn áp bắt dân oan
Nào Biển Đông Nam Quan, Bản Giốc
Sao cắt dâng Tàu cuí mặt khom lưng
Cô gái thanh xuân nước mắt rưng rưng
Vì manh aó bán thân lìa cha mẹ
Trẻ thất học lang thang trên đường phố
Kiếm mưu sinh trong đống rác vĩa hè
Nguời dân oan mất nhà và mất đất
Nguời nông dân cày ruộng thiếu cơm ăn
Tuy xa quê nhưng lòng luôn khắc khoải
Vui sướng gì khi đất nước lầm than
30 tháng 4 anh ơi còn nhớ
Ngày đau buồn cả nước quấn khăn tang
Ba mươi tháng tư Việt Nam ngày Quốc hận
Ngày kinh hoàng rúng động cả năm châu
Giặc cộng xâm lăng bao nguời dân đã chết
Vì tự do ta làm thân viễn xứ
Em sẽ về khi quê hương bừng sáng
Ngày tự do dân chủ sẽ không xa
Tuổi trẻ Việt Nam kiên gan bất khuất
Sẽ dựng lại một mùa xuân nhiệm mầu
Nỗi lòng đồng bào hải ngoại nghĩ về Ngày Quốc Hận 30/4 đau xót như thế ấy. Thế còn đồng bào quốc nội nghĩ gì về ngày 30/4. Bài thơ dưới đây của một công dân mới 2 tuổi đời vào năm 1975 nay đã nghĩ gì trong mùa tưởng niệm quốc hận 30/4
Tháng tư con hai tuổi
Ba bồng con đứng nép bên đường
Xích xe tăng rào rạo nghênh ngang
Con bật khóc ngực ba đau nhói
Tháng tư với mặt trời mọc ngược
Đêm thành ngày trắng bỗng thành đen
Gió không thổi người đi như chạy
Hầm hố nào thành luỹ tan hoang
Giờ cũng tháng tư
Con gần bốn mươi tuổi
Xích xe tăng vẫn nghiến mặt đường
Nghe rào rạo trong đêm tăm tối
Đường tự do nối mọi trái tim
Bị chặt khúc đào lên lấp xuống
Đường dân chủ vun vút dùi cui
Nòng súng nhắm vào từng khuôn ngực
Chúng muốn ta đi bằng đầu gối
Rụng hết tay chân biến thành lươn
Chúng muốn biến ta thành đinh ốc
Trong cỗ xe bọc thép tối om
Chúng muốn ta sống đời thực vật
Không biết đau la hét nói cười
Chỉ mở mắt nằm như cá chết
Trong nhà mồ lạnh lẽo trống không
Tháng tư trở lại làm cai ngục
Thay xích xiềng ổ khoá xà lim
Thay óc não buồng tim lá phổi
Thay con người thành lũ cừu non
Tháng tư đen tháng tư quỷ ám
Cả một bầy vượn cáo nhố nhăng
Kìa lũ sói đến từ phương bắc
Hú trên ngàn rớt rụng vầng trăng
Tháng tư đó làm đời con ngạt thở
Ba mươi sáu lần ba mươi sáu sợi dây
Mỗi lần đến lại siết thêm một chút
Ba già rồi ai cởi trói cho con!
Khuất Đẩu (Tháng tư đen)
Ngoài những vần thơ uất hận, những câu thơ châm biếm miả mai cuả ngòi bút Bút Trẻ trong bài thơ “Tháng tư đen” là những cái bạt tai ô nhục ngàn đời không rửa sạch dành cho những kẻ bán nước buôn dân:
Tháng tư đen như mực… Tầu
vấy lên cả nước… một mầu tang chung
Tháng tư đen như mặt… Hồ
Dân Ta ngồi…rửa nỗi nhơ ngàn đời
Tháng tư đen như…Bô Xi ( xít )
bưng Bô cho Hán tặc…Xi đầy nhà
Tháng tư đen như…đảng tà
đỉnh cao ngu tối, chuyên… “chà đồ Nhôm”
Tháng tư đen, xã hội đen
bạo quyền…cướp trắng , dân hèn… trắng tay
Dẫu rằng đất nước đang chìm trong đen tối trước nạn Hán hóa, nhưng 4000 năm lịch sử hào hùng của tổ tiên đã đem lại cho ngòi Bút Trẻ niềm tin:
Tháng tư đen , Đuốc Tiền Nhân
Bất Tuân Dân Sự!… toàn dân lên đường
Tháng tư đen, Sử vẫn Xanh
Anh Hùng Hào Kiệt !… quyết giành Giang Sơn
Riêng đối với nhà thơ Lê Chân dù mang tâm trạng u uẩn khóc đời lưu vong:
Ba mươi sáu năm qua,
Tháng Tư đau từng giờ .
Tháng Tư trong hơi thở,
Tháng Tư gợi hồn thơ .
Vần thơ ôm uất hận,
Ta khóc đời lưu vong .
Anh hùng há thua được,
Khí tiết còn Non Sông .
Tiết khí còn non sông còn, nhà thơ Lê Chân đã biến những đau thương thành xúc tác lên đường vang lời thề rửa nhục giang sơn.
Hãy biến những đau thương,
Thành hành động kiên cường .
Hãy cất cao tiếng nói,
Vì tương lai xuống đường .
Tổ quốc Việt Nam ta
Hãy trả lại cho ta !
Vạn tấm lòng tha thiết,
Thề cứu lấy Quốc gia .
Anh ơi ! Tháng Tư đen
Hãy ngẩng cao cuộc đời .
Lịch sử đang gọi mời ,
Lịch sử chính tay người .
Hãy viết lên anh ơi,
Hoa Lài trang sử mới .
Hãy thét lên anh ơi ,
Hoa Lài réo hồn tôi .
Anh ơi ! Nước non dơ
Ta lấy gì rửa sạch ?
Cơn cuồng phong cách mạng ,
Ta rửa nhục giang san .
Máu Trung Tá Long đã thấm xuống lòng đất
Anh ơi ! Ngày tang chung
Thúc giục hồn Anh hùng
Anh Hùng nơi lòng đất
Khí phách còn Núi Sông
(bài thơ tháng tư đen)
Và dĩ nhiên lịch sử VN sẽ lật sang trang mới huy hoàng và tươi sáng vì ngọn lửa Diên Hồng đang bùng cháy trong lòng dân tộc VN
Đây quê hương bao năm dài tăm tối
Tủi nhục ơi ! Tang tóc đến ngất trời
Dậy ! Dậy ! Đi cách mạng khắp nơi nơi
Hoa Lài kia là chân lý cuộc đời
Giờ thái thú tham tàn đang thống trị,
Chúng hèn với giặc, ác với dân mình,
Hào kiệt ơi ! Sao anh nỡ làm thinh ?
Hỡi những trái tim thao thức Việt Nam,
Hỡi những trái tim khắc sâu lời nguyền .
Hỡi những trái tim kêu gào khẩn thiết,
Hỡi những trái tim chưa lần ngủ yên .
Không ! Ta không van xin bạo quyền .
Không ! Ta vươn vai phá tan xích xiềng
Không ! Ta biến mình thành ánh đuốc
Không ! Ta thề cứu lấy Non Sông
Lê Chân (Hào kiệt đâu ??)
Lịch sử hào hùng của giòng giống tiên rồng rồi cũng sẽ được lập lại. Sẽ có một ngày màu tang quốc Hận 30/4 sẽ đi vào dĩ vãng khi mặt trời tự do dân chủ và tình người chan hoà khắp nẻo đường đất nước Việt Nam. Ngày ấy tất phải đến. Không một bạo lực nào có thể cản ngăn được bánh xe lịch sử đang chuyển mình theo khát vọng của toàn dân.
Tin Việt Nam Hôm Nay
Hải Cảnh Trung Quốc Cắm Cờ Trên Đá Hoài Ân Mà Việt Nam Tuyên Bố Chủ Quyền
(Hình AP: Một chiếc thuyền của Hải cảnh Trung Quốc di chuyển gần Sandy Cay, Biển Đông, ngày 24/1/2025.)
-Hôm 26/4/2025, truyền hình quốc gia Trung Quốc loan tin Hải cảnh Trung Quốc đã đổ bộ và cắm quốc kỳ tại đá Hoài Ân, tên tiếng Anh là Sandy Cay, phía Đông quần đảo Trường Sa giữa tháng Tư vừa qua, khu vực mà Việt Nam đòi hỏi chủ quyền.
Đài truyền hình Trung Quốc CCTV, được thông tấn xã AFP dẫn lại, công bố hình ảnh 4 binh sĩ thuộc lực lượng Hải cảnh Trung Quốc đã cắm cờ Trung Quốc trên đá Hoài Ân, mà người Trung Quốc gọi là đá Thiết Tuyến (Tiexian). Đài truyền hình Trung Quốc cho biết lực lượng này có mặt ở đây là để "thực thi chủ quyền và quyền tài phán" của Bắc Kinh tại thực thể địa lý nói trên.
Báo Anh Financial Times dẫn lời một giới chức Phi Luật Tân xin ẩn danh, theo đó lực lượng Hải cảnh Trung Quốc đã rời khỏi địa điểm này sau khi cắm cờ, và chưa có dấu hiệu nào cho thấy phía Trung Quốc khai triển lực lượng thường trực hay tiến hành xây dựng tại đá Hoài Ân.
Sandy Cay có tên gần giống với Sand Cay (đảo Sơn Ca) mà Việt Nam kiểm soát.
Đá Hoài Ân nằm cách đảo Thị Tứ, Phi Luật Tân kiểm soát, khoảng vài cây số. Việt Nam, Trung Quốc và Phi Luật Tân cùng đòi hỏi chủ quyền tại khu vực bãi Hoài Ân. Hiện tại, chính quyền Việt Nam và Phi Luật Tân chưa có phản ứng chính thức về sự việc này.
Hành động cắm cờ và khẳng định chủ quyền tại bãi Hoài Ân của Hải cảnh Trung Quốc diễn ra vào lúc một số đơn vị quân đội Trung Quốc đến Việt Nam tham gia lễ diễu binh kỷ niệm dịp 50 năm ngày kết thúc chiến tranh và thống nhất đất nước 30/4. Hồi tháng 3/2024, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã từng lên tiếng phản đối các hành động của Trung Quốc và Phi Luật Tân tại bãi Hoài Ân, sau khi Hải cảnh Trung Quốc xua đuổi tàu chở các nhà khoa học Phi Luật Tân tiếp cận đảo.
Theo thông tấn xã AFP, việc Trung Quốc đưa quân đến đá Hoài Ân diễn ra vào lúc Phi Luật Tân cùng Mỹ tiến hành cuộc tập trận chung thường niên Balikatan, kéo dài 3 tuần kể từ 21/4, với sự tham gia của khoảng 17.000 binh sĩ. Chủ đề chính năm nay là chuẩn bị cho một "kịch bản chiến tranh quy mô lớn" trong bối cảnh căng thẳng gia tăng giữa Trung Quốc và Phi Luật Tân tại nhiều khu vực ở Biển Đông.
Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền với gần như toàn bộ các đảo và rạn san hô ở Biển Đông. Tuy nhiên, năm 2016, Tòa Trọng tài Thường trực quốc tế, có trụ sở tại The Hague (Hòa Lan), đã ra phán quyết bác bỏ các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc, trong vụ Manila kiện Bắc Kinh, điều mà Trung Quốc tuyên bố không chấp nhận.
Việt Nam Cộng Hòa Bị Bỏ Rơi: Nỗi Đau 50 Năm
(Thụy My)
(Hình AP / Ly: Các quân nhân Việt Nam Cộng Hòa bị thương trong trận đánh tử thủ Xuân Lộc, chận lối vào Sài Gòn của quân Cộng sản Bắc Việt ngày 17/4/1975.)
-Tuần báo Courrier International dịch bài viết của tuần báo Đức Der Spiegel "Khi Hoa Thịnh Ðốn bỏ rơi Sài Gòn". Báo Le Monde cuối tuần nhận định "Việt Nam bị ám ảnh bởi những vong hồn của cuộc chiến".
Kissinger Thổ Lộ Ý Đồ Bỏ Rơi Miền Nam Việt Nam Với Báo Đức Từ 1970
Gần đến ngày kỷ niệm 50 năm chấm dứt chiến tranh Việt Nam, các báo có một số bài viết liên quan. Tuần báo Courrier International dịch bài viết của tuần báo Đức Der Spiegel "Khi Hoa Thịnh Ðốn bỏ rơi Sài Gòn". Bài viết được minh họa bằng bức ảnh một quân nhân Việt Nam Cộng Hòa và một người lính Mỹ trên chiếc phi cơ cùng giơ tay đón một bé gái được cha mẹ đưa lên, hy vọng con mình sẽ được di tản.
Theo tờ báo, có một thời gian ngắn người ta cho rằng Việt Nam Cộng Hòa dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu sẽ chiến thắng Bắc Việt Cộng sản. Một năm sau khi ngưng bắn năm 1973 mà cả hai bên đều vi phạm, quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã gia tăng 15% vùng đất được kiểm soát. Rồi bỗng nhiên tình hình xấu hẳn đi, khi quân Bắc Việt chiếm được một số nơi cuối năm 1974. Đến tháng Ba 1975, có trên 16 sư đoàn Bắc Việt tràn vào miền Nam, Ban Mê Thuột thất thủ, và đến ngày 30/4/1975 Sài Gòn sụp đổ.
Thông tín viên Spiegel thời đó ghi nhận những cảnh hoảng loạn khủng khiếp ở miền Trung khi hơn một triệu người dân di tản. Tuần báo có khuynh hướng thiên tả cho biết Tổng thống Mỹ Richard Nixon đã quên đi lời hứa sẽ can thiệp mạnh mẽ khi ép ông Thiệu ký Hiệp định Paris. Henry Kissinger ngay từ năm 1970 đã thổ lộ với Spiegel rằng chủ yếu chỉ "nhằm câu giờ, từ khi Mỹ rút quân cho đến khi Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, để Hoa Thịnh Ðốn khỏi phải chịu trách nhiệm về thất bại".
Tổng thống Gerard Ford cố gắng thúc giục Quốc hội thông qua viện trợ bổ sung 522 triệu Mỹ kim cho Miền Nam, nhưng không thành công. Nước Mỹ tự bằng lòng với việc lập cầu không vận di tản tốn 10 triệu Mỹ kim, Tổng thống Ford thương cảm cho một "bi kịch nhân đạo khủng khiếp". Tổng biên tập báo Der Spiegel vào thời đó, Rudolf Augstein bình luận, chính phủ Mỹ hầu như không có chọn lựa nào khác. Hoặc "thả bom nguyên tử xuống miền Bắc Việt Nam", hoặc tiếp tục một cuộc chiến không lối thoát.
Nửa Triệu Vong Hồn và Sự Phân Biệt Đối Xử
Báo Le Monde cuối tuần nhận định "Việt Nam bị ám ảnh bởi những vong hồn của cuộc chiến". Năm mươi năm sau chiến tranh, hàng trăm ngàn người lính Việt tử trận vẫn không có được một nấm mồ. Tại Hà Nội có một viện nghiên cứu chuyên tìm mộ liệt sĩ Bắc Việt, nhưng các tử sĩ Việt Nam Cộng Hòa không có được may mắn này. Có đến 1,1 triệu "liệt sĩ", danh hiệu được dành cho những người lính Cộng sản tử trận trong cuộc chiến mà chính quyền Hà Nội luôn gọi là "chiến tranh chống Mỹ và ngụy quyền".
Khoảng 300.000 người trong số đó được chôn cất vô danh, và 200.000 hài cốt vẫn chưa tìm thấy, tổng cộng có đến nửa triệu vong hồn vẫn còn lang thang đâu đó, tức "cô hồn" theo tín ngưỡng của người Việt. Ông Vũ Thế Khanh, Giám đốc Liên hiệp Khoa học kỹ thuật Tin học ứng dụng (UIA) cho biết có được sự trợ giúp của các "nhà ngoại cảm", và một ngân hàng dữ liệu DNA đang được xây dựng. Được hỏi có giúp thân nhân những người lính Việt Nam Cộng Hòa tử trận hay không, ông trả lời cũng có, nhưng không được đối xử tương đương như các "liệt sĩ".
Số quân nhân Miền Nam hy sinh ít hơn, khoảng 400.000, và đa số đều có trên mình tấm thẻ bài kim loại để nhận diện. Cho đến 1975, họ được an táng ở các nghĩa trang quân đội. Nhưng những bóng ma của "phía bên kia" vẫn bị chính quyền Cộng sản coi là kẻ thù. Nghĩa trang quân đội Biên Hòa nổi tiếng trở nên hoang tàn, và mãi đến 2006, khi có người miền Nam trong số các nhà lãnh đạo cao cấp Cộng sản, mới mở cửa trở lại cho thăm viếng.
50 Năm Kết Thúc Chiến Tranh Việt Nam: "Đồng Minh" của Mỹ, Người Trong Cuộc Nghĩ Gì?
(Thanh Hà)
(Hình AP: Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu bắt tay Tổng thống Mỹ Richard Nixon tại Đảo Midway ngày 8/6/1969. Hai bên thông báo kế hoạch rút 25.000 lính Mỹ khỏi Miền Nam Việt Nam.)
-"Làm kẻ thù của Mỹ thì dễ nhưng làm bạn với họ thì thật là khó" bởi vì "chính sách của Hoa Kỳ nay thế này mai thế khác (...)". Tâm sự này của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu vào thời điểm năm 1975/1976 làm mọi người nhớ đến một trong những nhà ngoại giao lỗi lạc nhất của Mỹ với câu nói để đời: "Làm kẻ thù của Mỹ có thể nguy hiểm. Làm bạn với Mỹ là mối nguy hiểm chết người".
Nhân kỷ niệm 50 năm chấm dứt chiến tranh Việt Nam, Ban tiếng Việt của Đài Phát Thanh Quốc Tế Pháp (RFI) mời Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng trở lại với sự kiện Ngày 30 tháng 4 năm 1975. Là một chuyên gia Kinh tế, ông từng giảng dạy tại nhiều Đại học danh tiếng ở Hoa Kỳ trước và sau năm 1975, nguyên là Kinh tế gia của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế. Trong nửa đầu thập niên 1970, Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng là Phụ tá của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phụ trách Tái Thiết và đứng đầu bộ Kế Hoạch và Phát Triển.
Là người trong cuộc, nhân chứng hàng đầu trong một giai đoạn lịch sử của Việt Nam ở thế kỷ 20, Giáo sư Hưng đã ra mắt độc giả nhiều tác phẩm về giai đoạn này1. Mùa Xuân năm 2024, ông đã cho phát hành cuốn "Bức Tử Việt Nam Cộng Hòa Kissinger và 8 Thủ Đoạn Nham Hiểm" - Nhà xuất bản Hứa Chấn Minh.
*****
RFI: Xin kính chào Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng. Cảm ơn ông nhận trả lời Đài Phát Thanh Quốc Tế Pháp. Trước hết, xin Giáo sư kể lại một kỷ niệm của Ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng: Vâng thưa cô Thanh Hà, ngày 30/4/1975 tôi đang có mặt ngay tại thủ đô Hoa Thịnh Ðốn nhờ một cơ duyên lịch sử tôi đã được chứng kiến toàn bộ tiến trình của cuộc chiến Việt Nam. Cuộc chiến này bắt đầu khi Tổng thống John F. Kennedy quyết định dấn thân vào Việt Nam và viết thư cho Tổng thống Ngô Đình Diệm là "Hoa Kỳ sẵn sàng tiếp tay với Việt Nam Cộng Hòa, tăng cường nỗ lực chiến đấu. Phải chiến đấu thắng Cộng sản". Hôm ấy là ngày 11/5/1961.
Cho đến khi nghe Tổng thống Gerald Ford tuyên bố: "Đối với nước Mỹ, cuộc chiến Việt Nam đã xong rồi. Ta hãy quên đi quá khứ và nhìn về tương lai". Hôm đó là ngày 27/4/1975. Rồi 3 ngày sau ông im lặng nhìn Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ.
Ngày 30 tháng 4 là ngày dài nhất và đau lòng nhất trong đời tôi: Dài nhất vì tôi đã thức trắng đêm 29 để chuẩn bị cho cuộc họp báo ngày 30 tháng 4. Đau lòng nhất vì tôi không những nhìn thấy sự bi thương của đồng bào miền Nam đang bị bỏ rơi mà còn cảm giác cay đắng về sự phản bội của đồng minh, từng được xem là đồng minh chiến lược.
RFI: Vì sao Giáo sư đã có mặt tại Hoa Thịnh Ðốn trong những ngày 29 và 30 tháng 4?
Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng: Về nhiệm vụ của tôi Ngày 30 tháng 4, bối cảnh là như thế này: Ngày 19/4/1975, Quốc hội Mỹ dự trù biểu quyết để xem có tiếp tục viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa nữa hay không. Tin tức Dinh Độc Lập có được thì rất là tuyệt vọng.
Ngày 14 tháng 4 (1975), tức là chỉ 2 tuần trước khi Sài Gòn sụp đổ, Tổng thống Thiệu chỉ thị tôi phải đi ngay Hoa Thịnh Ðốn cùng với Ngoại trưởng Vương Văn Bắc và Ðại sứ Trần Kim Phượng. Chúng tôi phải đưa ra một giải pháp tức là yêu cầu Mỹ cho vay ba tỉ Mỹ kim trong 3 năm, rồi chúng tôi sẽ hoàn lại hết. Mục đích của giải pháp này là để Quốc hội Mỹ đừng quyết định ngừng viện trợ cho miền Nam Việt Nam và tuyên bố cho cả thế giới biết vào ngày 19/4/1975.
Tôi lên máy bay sáng sớm ngày 15/4/1975 tại Tân Sơn Nhất. Sang đến Hoa Thịnh Ðốn thì Quốc hội đã hành động xong rồi. Rất là đau đớn. Tôi liền thay đổi mục tiêu và hướng đến việc kêu gọi cứu vớt đoàn người tị nạn đang túa ra Biển Đông. Sau đó thì Quốc hội cấp một khoản tiền 455 triệu Mỹ kim để tài trợ cho chương trình định cư.
RFI: Trong cuốn sách Giáo sư cho ra mắt bạn đọc mùa Xuân 2024, "Bức Tử Việt Nam Cộng Hòa Kissinger và 8 Thủ Đoạn Nham Hiểm", do thời gian có hạn nên xin phép tập trung vào phần 2 của cuốn sách: Một Kế Sách, tám thủ đoạn. Giáo sư giải thích Henry Kissinger, người sau này trở thành Ngoại trưởng Hoa Kỳ và có lúc kiêm nhiệm luôn cả chức Cố vấn An ninh Quốc gia dưới 2 thời Tổng thống Nixon và Ford, "ít nhất là đã hình thành kế sách Decent Interval từ năm 1967" (tr.141). Thưa ông chiến lược đó là gì?
Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng: Tựa đề Bức tử Việt Nam Cộng Hòa, tôi nghĩ là đã nói lên tất cả rồi. Cuốn sách là một lời cáo trạng lịch sử dựa trên Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập mà tôi rất may mắn còn giữ được. Vì nếu mà tôi không giữ được hồ sơ đó thì không ai biết được chuyện Việt Nam Cộng Hòa kết thúc như thế nào, vì Kissinger đã giấu đi hết.
Chiến lược Decent Interval của ông ấy là làm thế nào để có một "Khoảng thời gian coi cho được", để khỏi mất danh dự: Kissinger quan niệm Mỹ không thể nào chiến thắng ở cuộc chiến Việt Nam, bởi đây là một cuộc chiến du kích mà Mỹ thì không quen với chiến tranh du kích: Ðệ nhất Thế chiến, Ðệ nhị Thế chiến, Chiến tranh Triều Tiên đều là chiến tranh quy ước.
Thành thử Henry Kissinger đã nghĩ ra chiêu bài Decent Interval: miễn là làm sao có được một khoảng thời gian - như là độ vài năm, từ khi Mỹ rút lui khỏi miền Nam cho đến khi Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ. Vì như vậy không mang tiếng là bỏ rơi đồng minh.
Để thi hành chiến được đó, Kissinger phải dùng đến thủ đoạn. Ông ấy đã nghĩ rằng chỉ còn cách là đạt được một Hiệp định: Hiệp định Paris cho phép nước Mỹ "ra đi" một cách danh chính ngôn thuận. Ông Kissinger cố gắng hết sức trong bí mật điều đình với Miền Bắc để Hiệp định Paris được ký kết ngày 27/1/1973.
Tôi đang trả lời phỏng vấn với Đài Phát Thanh Quốc Tế Pháp (RFI) bên Paris, thì cái chữ Paris nó dính liền với óc tôi rất là sâu đậm vì Hiệp định Paris và trước đó nữa thì cũng đã có những sự kiện về chiến tranh Việt Nam cũng xảy ra ở Paris.
'Kissinger nói với Tổng thống Nixon rằng bỏ Miền Nam Việt Nam sẽ chẳng ảnh hưởng gì tới chính sách ngoại giao của Mỹ! (tr.194)
RFI: Như tựa đề phần 2 trong cuốn sách Bức Tử Việt Nam Cộng Hòa Kissinger và 8 Thủ Đoạn Nham Hiểm, tám thủ đoạn đó gồm Dối gạt Tổng thống Nixon, Nhân danh ông Nixon gây áp lực với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Vẽ một kế hoạch tối mật để thuyết phục đồng minh là Việt Nam Cộng Hòa, Tung hỏa mù Quốc hội Mỹ, Che mắt luôn cả Tổng thống Ford.... Nhưng theo Giáo sư trong số này, thủ đoạn nào là nham hiểm nhất?
Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng: Có lẽ thủ đoạn nham hiểm nhất là lừa dối Tổng thống Nixon. Khi Nixon lên cầm quyền tháng 1/1969, ông đã hứa sẽ đem lại một giải pháp hòa bình cho Việt Nam – Vừa hòa bình vừa danh dự, chứ không phải là một cái Hiệp định để che giấu sự thất bại. Thế nhưng Kissinger "giỏi" lắm. Ông ấy "tài ba" lắm: Kissinger đã che đậy thất bại của ông ấy sau 4 năm hòa đàm. Tổng thống Nixon thì không tin vào đàm phán mà chỉ tin vào chương trình mà ông gọi là "Việt Nam hóa" tức là giúp cho miền Nam tự lực tự cường để một mình có thể chiến đấu được, tồn tại được. Kissinger thì ngược lại: ông ấy không tin vào giải pháp Việt Nam hóa của Nixon và đã thuyết phục Tổng thống rằng tại sao chủ trương Việt Nam hóa sẽ không thành công.
Theo Kissinger, "mấy người lính Việt Nam thì làm sao mà đánh lại được như là người Mỹ mà Hoa Kỳ đã huy động đến nửa triệu lính Mỹ còn không ăn thua". Trong hoàn cảnh đó, Tổng thống Nixon cứ để cho ông Kissinger tiến hành đàm phán và đại khái là ông ấy đã đánh lừa được Tổng thống Nixon. Kissinger thuyết phục được Nixon là Hiệp định này (Hiệp định Paris) có lợi cho miền Nam chứ không phải là có hại cho miền Nam.
Câu hỏi là tại sao ông Nixon, một chính trị gia cáo già mà lại có thể tin được như vậy. Cái chuyện đó là như thế này và đã được chính Tổng thống Nixon viết lại trong hồi ký của ông: Kissinger cứ báo cáo với Tổng thống rằng Hiệp định Paris "Chỉ là một phương cách để cho Bắc Việt giữ được thể diện thôi, chứ còn họ (Hà Nội) đã nhượng bộ hết rồi, không có gì cả". Thì cái nham hiểm nhất ở đây là đánh lừa Nixon.
Mà dù Nixon là cáo già chính trị cũng đã tin, vì ông Kissinger quá tài ba mà Tổng thống Nixon thì lại lơ là không để ý đến đàm phán. Sau Nixon, một nguy hiểm khác là Henry Kissinger cũng đã giấu Tổng thống Ford khi mà ông Ford lên thay thế Tổng thống Nixon ngày 8/8/1974 (ngày mà mà tôi gọi là ngày Song Bát). Ông Ford không biết gì hết.
Một ngày sau khi nhậm chức (9/8/1974) Tổng thống Ford viết thư cho Tổng thống Thiệu và cam kết "Tất cả những gì mà nước tôi đã hứa hẹn thì sẽ được hoàn toàn tiếp tục và sẽ được tuân thủ trong nhiệm kỳ của tôi"
RFI: Ngày 30 tháng Tư là hồi kết của chế độ Sài Gòn, với những hệ quả mà ai cũng biết. Nhưng đây cũng là một cột mốc quan trọng đối với hình ảnh và uy tín của Hoa Kỳ trong bang giao quốc tế....
Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng: Đúng như vậy. Hậu quả của chiến tranh Việt Nam đối với Mỹ còn kéo dài cho đến ngày hôm nay. Thứ nhất, bạn bè đồng minh của Mỹ không còn dám tin cậy vào Mỹ. Đồng minh khắp nơi đều dè dặt khi phải hợp tác với Hoa Kỳ vì sợ rằng lại trở thành Việt Nam Cộng Hòa thứ hai.
Điểm thứ nhì – và đây mới là điều quan trọng: Kẻ thù thì coi thường nước Mỹ. Sau cuộc chiến Việt Nam 1975, thì đến cuộc Cách Mạng Iran năm 1979. Iran bắt toàn bộ nhân viên của tòa Ðại sứ Mỹ tại Teheran, rồi đối đầu với Mỹ cho đến ngày hôm nay. Sau Iran đến Iraq cũng tại Trung Đông. Tổng thống Iraq Saddam Hussein đã xem thường Mỹ khi nói "Một nửa triệu quân ở Việt Nam còn chẳng làm gì được mà bây giờ còn bày đặt sang Iraq để chiến đấu. Iraq không phải là cái chỗ để đi picnic!"
Thời Tổng thống Bush - hình như là năm 2001 hay 2002 gì đấy, đã tiết lộ, tình báo Mỹ CIA đã chặn được lệnh của Ayman Al Zawahiri (nhân vật số 2 tổ chức Al Qaeda tại A Phú Hãn) cho cấp dưới của ông ấy rằng: "Những hậu quả của sự sụp đổ của Hoa Kỳ tại Việt Nam, việc họ bỏ chạy và bỏ rơi những người đã theo họ làm cho chúng ta nên suy nghĩ. Ta phải sẵn sàng ngay từ bây giờ!". Đến ngày 15/8/2021, cả thế giới đã chứng kiến cuộc tháo chạy ê chề khỏi Kabul.
RFI: Còn trên hồ sơ Ukraine hiện tại thưa Giáo sư?
Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng: Về Ukraine, tôi nghĩ rằng ông Putin cũng đã thấy bài học Việt Nam khi đưa quân xâm được Ukraine năm 2022. Có khả năng rất cao Tổng thống Nga quan niệm dù Mỹ có viện trợ dồi dào nhưng nếu kéo dài cuộc chiến ít lâu thì rồi Mỹ cũng phải buông tay. (...) Tuy nhiên, Tổng thống Zelensky vẫn còn một phương tiện để điều đình: Hoa Kỳ đang rất cần đất hiếm của Ukraine khi mà Trung Quốc đã bắt đầu ngừng xuất cảng đất hiếm sang Mỹ (...) Zelensky có tài nguyên khoáng sản để giữ Mỹ lại một phần nào. Hơn nữa Ukraine giờ đây có cả khối Âu Châu yểm trợ. 50 năm trước Miền Nam Việt Nam cô đơn một mình.
Tôi còn nhớ ngày 21/12/2022 sau khi được Quốc hội Mỹ tiếp đón nồng hậu, ra khỏi Quốc hội, Tổng thống Zelensky trông đã rất vui vẻ. Sau đó, tôi đã chia sẻ quan điểm rằng dù có nhận được gói viện trợ hào phóng thì Ukraine cũng vẫn phải chuẩn bị cho tình huống tồi tệ nhất: Một ngày nào đó, sự yểm trợ sẽ không còn nữa. Trước Zelensky, thì Tổng thống A Phú Hãn, Hamid Karzai cũng từng được Quốc hội Mỹ đón tiếp, để rồi ngày bị Mỹ bỏ rơi ngày 15/08/2021.
Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng: "Người Mỹ chóng chán (...). Chiến tranh kéo dài quá 3 năm là họ không chịu nổi".
RFI: Trên tất cả các cuộc xung đột vừa nêu và cho đến cuộc chiến thương mại mà chính quyền Mỹ hiện nay đang khơi mào với gần hết thế giới, những căng thẳng hiện tại với các đồng minh thân thiết nhất của Hoa Thịnh Ðốn như Âu Châu, Gia Nã Ðại hay Nhật, Nam Hàn cũng như với các quốc gia mà Mỹ đã ký Hiệp định Đối Tác Chiến Lược như Việt Nam... Ông đánh giá thế nào về khái niệm "đồng minh" trong quan niệm của Hoa Kỳ?
Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng: Có lẽ cái hay nhất là tôi nhắc lại câu Tổng thống Thiệu khi ông ấy phản hồi về cuộc chiến. Ông nói rằng "Làm kẻ thù của Mỹ thì dễ nhưng làm bạn với họ thì thật là khó"2. Câu hỏi đặt ra là tại sao ông ấy lại nói như vậy thì có một lần Tổng thống Thiệu tâm sự với tôi "Chính sách của Hoa Kỳ thì nay thế này mai thế khác biết đâu mà mò!" 3.
Một trong những điểm mà Tổng thống Thiệu không hiểu rằng thể chế của Mỹ, cứ 4 năm có cuộc bầu cử mà mỗi một lần. Có cuộc bầu cử là có sự thay đổi sâu sắc. Thí dụ như cuộc bầu cử năm 2024 vừa rồi chúng ta thấy nó thay đổi như thế nào! Vì thế khi bang giao với Mỹ thì phải hiểu văn hóa của Mỹ và hiểu thể chế của nước Mỹ.
Về văn hóa thì người Mỹ rất chóng chán - Không cái gì trụ được quá 3 năm... một cuộc chiến kéo dài hơn ba năm thì họ không chịu được. Điển hình là cuộc chiến Việt Nam: trong giai đoạn từ năm 1965 cho đến 1968, công luận ủng hộ hết mình. Nhưng sau 3 năm thì họ chán. Cuộc chiến Ukraine cũng vậy. Đó cũng là thường tình thôi. Có chăng là Âu Châu không học cái bài học cũ, và câu nói của ông Thiệu năm xưa bây giờ vẫn còn tính thời sự (...)
Về khái niệm đồng minh nó không có liên tục mà thay đổi tùy từng thời gian và tùy vào quan niệm về quyền lợi của Hoa Kỳ. Thí dụ như ngày 14/4/2024 trên đài PBS Tổng thống Zelensky tuyên bố với nữ ký giả Amna Nawas: "Tôi có thể nói thẳng với bà rằng nếu không có sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, chúng tôi sẽ không thể nào chiến thắng. Có nghĩa là chúng tôi sẽ thất bại".
Nghe câu này tôi lập tức nhớ lại lời ông Nguyễn Văn Thiệu. Tuyên bố cũng với nữ ký giả tên là Oriana Fallaci tháng 1/1973. Ông Thiệu nói: "Thưa bà, nếu Mỹ bỏ rơi thì đối với chúng tôi đó là sự kết thúc: sự kết thúc hoàn toàn, sự kết thúc tuyệt đối". Chỉ cần thay hai cái tên Zelensky bằng Nguyễn Văn Thiệu thì toàn bộ ngữ điệu nội dung và tâm thế gần như không thay đổi. Lịch sử như đang đã lập lại, nó chỉ hơi khác là khác về nhân vật và địa danh thôi.
"Word should be gotten to Nixon that if Thieu meets the same fate as Diem, the word will go out to the nations of the world that it may be dangerous to be America's enemy, but to be America's friend is fatal" (Kissinger 11/1968)
RFI: Vậy phải chăng, luôn có một sự xuyên suốt trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ ít ra là từ nửa thế kỷ qua thưa Giáo sư?
Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng: Lord Palmerston (Thủ tướng Anh trong giai đoạn 1859-1865) đã từng nói: Nước Anh chẳng có bạn vĩnh viễn và cũng chẳng có kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có quyền lợi là vĩnh viễn. Vì cơ duyên lịch sử tôi đi du học ở Hoa Kỳ từ năm 1958 nên đã chứng kiến tất cả cuộc chiến tranh Việt Nam từ Tổng thống Eisenhower rồi đến Kennedy, Johnson, Nixon và sau cùng là Ford. Nghiên cứu mấy chục năm nay thì thấy rõ rằng Mỹ luôn đặt quyền lợi của mình trên hết. (...)
Lý do quan trọng nhất để Hoa Kỳ nhảy vào cuộc chiến Việt Nam đó chính là vì quyền lợi của Hoa Kỳ. Vì muốn giữ địa vị là siêu cường số một của thế giới cho nên phải ngăn chặn Trung Cộng với chính sách gọi là containment of red China - ngăn chặn Trung Cộng đỏ.
Khi Mỹ tháo chạy thì lý do quan trọng thứ nhất cũng chỉ vì quyền lợi của Hoa Kỳ, vì Việt Nam không còn quan trọng nữa khi ông Nixon mở được cửa Bắc Kinh.
Khi Nixon nối lại bang giao với Bắc Kinh, mở cửa Bắc Kinh thì tất phải đóng cửa Sài Gòn. Bắt được tay ông Mao thì phải buông tay ông Thiệu. Cũng như là sau Ðệ nhị Thế chiến, quyền lợi của Mỹ khi xây dựng Liên minh Phòng thủ Bắc Đại Tây Dương (NATO) là để có một thành trì vững chãi ở bên kia Đại Tây Dương, ngăn chận Liên Xô. Bây giờ Liên Xô đã chụp đổ và Chiến tranh lạnh không còn nữa thì NATO không còn quan trọng nữa. Vì vậy bài học chính yếu là phải tự trông cậy vào mình chứ không thể nào trông cậy vào người ngoài mãi mãi.
Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng: "Khi Nixon mở cửa Bắc Kinh thì tất phải đóng cửa Sài Gòn. Bắt được tay ông Mao thì phải buông tay ông Thiệu"
RFI: Trân trọng cảm ơn Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng.
Phong Trào Chống Chiến Tranh Việt Nam 1965-1975 và Đảng Lao Động Anh
(Nguyễn Giang)
(Ảnh AP, tư liệu: Lính Thủy quân Lục chiến miền Nam Việt Nam di tản khỏi Đà Nẵng, tại cảng Đà Nẵng, ngày 1/4/1975, trước khi thành phố rơi vào tay Bắc Việt.)
-Dịp tưởng niệm 50 năm kết thúc chiến tranh, thống nhất đất nước Việt Nam (1975-2025) là thời điểm tốt để đánh giá lại giai đoạn 1965-1975 ở Anh, khi chính phủ đảng Lao động chịu sức ép nội bộ nên đã chọn quan điểm khác dần Hoa Thịnh Ðốn về cuộc chiến tranh ở Nam Việt Nam.
Việc tìm hiểu thời kỳ này giúp công chúng hiểu thêm về tính đa diện và tác động đa chiều của nhiều xu thế, trào lưu chính trị-xã hội tại Âu Châu một thời, khi mà cuộc chiến tại Việt Nam được nói đến liên tục trên truyền thông và có tác động đến cả một thế hệ người Anh.
Thông tín viên Nguyễn Giang từ Luân Đôn, cũng là nhà nghiên cứu Đông-Nam Á tại Luân Đôn, hiện làm việc ở cương vị chuyên gia khách mời (non-resident fellow) với Viện Quan hệ Quốc tế, Đại học NCCU, Đài Bắc, đã nghiên cứu chủ đề này và giới thiệu những gì công chúng chưa được biết về Phong trào chống chiến tranh Việt Nam và di sản của phong trào này đối với đảng Lao động và chính trị Anh ngày nay.
RFI: Phong trào chống Chiến tranh Việt Nam ở Anh sinh ra từ đâu?
TTV Nguyễn Giang: Vâng, khác với cách hiểu thông thường còn khá phổ biến ở nhiều nơi, phong trào của thanh niên, sinh viên, trí thức ở Anh phản đối sự can dự của quân đội Hoa Kỳ tại Đông Dương có xuất phát điểm không phải từ nhận thức giai cấp và giới công nhân Anh ít có mặt trong các cuộc đấu tranh có trí thức, sinh viên đi đầu.
Theo Claire Mansour, viết trong nghiên cứu mới "The British Movement against the Vietnam War" (2017), thì ngay sau khi Ðệ nhị Thế chiến kết thúc bằng 2 trái bom nguyên tử Mỹ ném xuống Nhật Bản, ở Anh và các nước Tây Âu nổ ra phong trào giải trừ vũ khí nguyên tử (Nuclear disarmament movement).
Trong thập niên 1950-60, phong trào này phát triển và có sự liên kết của người Anh với những người cùng chí hướng của họ ở Pháp, Tây Đức và Hoa Kỳ. Thế nhưng, bối cảnh lịch sử và nhu cầu đấu tranh ở mỗi nước có sự khác nhau. Nếu như ở Mỹ, phong trào phản chiến thường do các trí thức thiên tả lãnh đạo, có mang màu sắc chống phân biệt chủng tộc, ủng hộ quyền vươn lên của người da đen, thì ở Anh, "the British anti-Vietnam War movement" có mục tiêu đạo đức, luân lý.
Luận điểm chính của các nhà vận động đòi Anh đơn phương bỏ vũ khí nguyên tử là Đế quốc Anh đã bị giải thể, nước Anh cần giành lại vị trí lãnh đạo thế giới về đạo đức trên trường quốc tế. Họ lên án chủ nghĩa đế quốc kiểu mới của Hoa Kỳ, và chia sẻ sự đồng cảm với nhân dân các nước vừa thoát ra khỏi chủ nghĩa thực dân.
RFI: Người Anh, thuộc đảng Lao động hay các nhóm chính trị phe tả phái khác, đã làm gì?
TTV Nguyễn Giang: Điều họ làm là xuống đường, tuần hành để chống sự can thiệp của quân đội Hoa Kỳ ở Nam Việt Nam. Ví dụ tháng 2/1965 là thời điểm bước ngoặt của phong trào tại Anh. Ủy ban Oxford vì Việt Nam (Oxford Vietnam Committee), tổ chức vẫn còn cánh thanh niên của Cuộc Vận động Giải trừ Vũ khí Nguyên tử (Campaign for Nuclear Disarmament), đã làm được cuộc tuần hành lớn đầu tiên trên cả nước, trước cuộc tuần hành đông người ở Hoa Kỳ tới vài tháng. Kể từ đó, phong trào lớn mạnh qua năm tháng về số lượng, với một trong những đợt tuần hành đông người nhất trong năm 1968, đạt con số tới 100 ngàn người ở Quảng trường Trafalgar, Luân Đôn.
RFI: Trí thức Anh đóng vai trò như thế nào trong phong trào này?
TTV Nguyễn Giang: Nói tới phong trào chống chiến tranh Việt Nam thì phải nhắc tới triết gia Anh Bertrand Russell, người cùng vợ là Edith Russell, đã thành lập vào năm 1963 Quỹ Hòa bình mang tên Bertrand Russell Peace Foundation, để phản đối điều hai ông bà gọi là "Cuộc giết chóc của Mỹ và Anh" (Các báo Anh đã đăng hình họ mang tấm biểu ngữ to: End Anglo-American Butchery in Vietnam trong cuộc tuần hành ngày 30/6/1965 ở Luân Đôn). Sau này, cùng với triết gia Pháp Jean-Paul Sartre, ông Russell lập ra Ủy ban Quốc tế về Tội ác Chiến tranh của quân đội Mỹ ở Nam Việt Nam, đã cử đại diện sang Hà Nội, gặp các ông Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng. Ủy ban này được khá nhiều trí thức, văn nghệ sĩ và chính trị gia ủng hộ, ví dụ như những vị được giải Nobel Prize gồm Max Born, Linus Pauling, Albert Schweitzer, diễn viên Anh Vanessa Redgrave, nhà quý tộc Lord Boyd Orr, Hoàng hậu Elizabeth của Bỉ, Thủ tướng Ấn Độ Jawaharlal Nehru, Tổng thống các nước Pakistan, Ghana, Tanzania và Hoàng thân Cam Bốt Norodom Sihanouk.
Điều đáng nói về thái độ của trí thức Anh, như ông Russell, là họ ủng hộ miền Bắc Việt Nam và chống hoạt động chiến tranh của Hoa Kỳ ở Việt Nam, nhưng ông Russell không phải là người theo chủ nghĩa Cộng sản, và ông vẫn viết thư đều đặn cho Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson yêu cầu, đề nghị chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam và cải thiện quan hệ với Cuba. Thư của ông không được chính quyền Mỹ hồi đáp. Ông Russell không tin vào lý thuyết đấu tranh giai cấp là cách cải thiện xã hội như ý thức hệ chính thống ở các nước theo mô hình Xã hội chủ nghĩa hồi đó vẫn nói, mà chỉ đơn giản muốn thúc đẩy hòa bình, đối thoại, thay cho chiến tranh, dù là chiến tranh nguyên tử hay chiến tranh bằng bom đạn.
Tinh thần của ông ấy là ủng hộ Bắc Việt Nam vì miền Bắc Việt Nam khi đó bị Mỹ ném bom. Xin nhắc rằng trong suốt cuộc chiến Việt Nam, ông Russell chưa hề đến Nam hay Bắc Việt Nam, nhưng trong một bài viết thì ông từng đến thành phố Sài Gòn vào năm 1920 khi Việt Nam là thuộc địa của Pháp. Cảm giác của ông về thành phố đó, được ghi lại, nguyên văn là "một đô thị để người Âu Châu giàu sang hưởng lạc một cách bệnh hoạn". Có thể thấy ngay từ hồi trẻ, ông đã không ưa chủ nghĩa thực dân Âu Châu.
RFI: Còn về phong trào ở Anh phản đối Chiến tranh Việt Nam thì những diễn biến tiếp theo của nó là gì?
TTV Nguyễn Giang: Càng về sau, tính chất và khẩu hiệu đấu tranh càng thay đổi, và yếu tố nhân sự của phong trào giải trừ vũ khí nguyên tử giảm đi, nhường chỗ cho các khẩu hiệu ủng hộ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam.
Xin nhắc rằng biểu tình phản chiến ở Anh xảy đến hoàn toàn vì các lý tưởng như đoàn kết quốc tế mà thanh niên Anh theo đuổi, vì họ không phải đi lính. Trái lại, phong trào ở Mỹ có yếu tố chống quân dịch, với lý do thanh niên Mỹ phải phục vụ trong quân đội và bị đưa sang chiến trường Nam Việt Nam. Mặt khác, vì chính phủ Harold Wilson không đồng ý với yêu cầu của Hoa Kỳ đưa quân Anh tham chiến ở Nam Việt Nam, nên mục tiêu đấu tranh của phong trào phản chiến trên đường phố Luân Đôn, Leeds, Manchester là yêu cầu Anh gây sức ép để Mỹ chấm dứt cuộc chiến.
Cũng vì thế, các đợt Không quân Hoa Kỳ oanh kích Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa bị phản đối dữ dội và chiến dịch Tết Mậu Thân 1968 trở thành mục tiêu phê phán Mỹ kịch liệt. Vào ngày 17 tháng 3 năm 1968, có cuộc tuần hành lớn, vài chục ngàn người ở Luân Đôn và theo sau bằng cuộc xuống đường đông đảo hơn, 100 ngàn người vào ngày 27 tháng 10 cùng năm.
RFI: Chính phủ Anh đã ứng xử ra sao khi mà Anh có quan hệ đồng minh chặt chẽ với Hoa Kỳ?
TTV Nguyễn Giang: Theo sử gia cánh tả Keith Flett, phong trào phản chiến tại Anh đã có tác động tới quyết định của chính phủ Harold Wilson thuộc đảng Lao động, không đưa quân Anh tham chiến ở Nam Việt Nam hỗ trợ cho quân đội Mỹ theo yêu cầu của Hoa Thịnh Ðốn năm 1964.
Dư luận Anh, giới truyền thông, như BBC, đã thúc đẩy chính phủ tìm kiếm giải pháp khác cho cuộc chiến Việt Nam. Các đợt Mỹ ném bom rải thảm ở Cam Bốt làm dấy lên một làn sóng đấu tranh mới, nhưng cũng có lo ngại về sự vươn dậy của lực lượng Khmer Đỏ, theo các tài liệu Anh nhắc lại giai đoạn 1970-71.
Ví dụ khi Hoa Kỳ ném bom miền Bắc Việt Nam vào cuối năm 1972, báo chí Anh đã chỉ trích chính phủ là quá nhượng bộ Hoa Thịnh Ðốn, trong khi chính quyền các nước Âu Châu như Bỉ, Ý Ðại Lợi, Hòa Lan, Na Uy, Phần Lan lên án các đợt oanh kích. Biểu tình nổ ra ở Luân Đôn, Rome, Amsterdam và Copenhagen. Thủ tướng Thụy Điển Olof Palme ví các trận bom của Mỹ dội xuống khu dân cư và bệnh viện (Bạch Mai) như "bom của phát-xít Đức" tàn phá các đô thị Âu Châu trong Ðệ nhị Thế chiến.
RFI: Sau cuộc chiến Việt Nam, phong trào phản chiến trong đảng Lao động Anh có còn tồn tại hay không và nếu có thì họ hoạt động ra sao?
TTV Nguyễn Giang: Câu chuyện sau ngày 30/4/1975 tưởng như đã chỉ còn là hoài niệm nhưng vẫn đóng vai trò định hình chính sách đối ngoại của đảng Lao động và phe tả Anh cho tới hôm nay.
Khi còn làm việc ở Luân Đôn, tôi đã có dịp gặp và nghe lời kể từ nhà ngoại giao Michael Williams, Cố vấn cho Bộ trưởng Ngoại giao Jack Straw của đảng Lao động, về lý do thời trẻ có khá nhiều sinh viên Anh phản đối điều họ nói là "sự can thiệp tàn khốc của quân đội Mỹ ở Nam Việt Nam".
Cả hai ông Williams và Straw thời trẻ đều từng tham gia các cuộc tuần hành nổi tiếng ở Luân Đôn vốn bắt đầu năm 1965, mở đường cho một phong trào có chất lượng đấu tranh đô thị và các khẩu hiệu khác trước. Vào những năm 2019-20, tôi cũng có dịp phỏng vấn ông Jack Straw, khi đó đã rời vị trí Bộ trưởng, trong sự kiện ông bảo trợ trong Quốc hội Anh nhằm ủng hộ cuộc đấu tranh đòi bồi thường cho nạn nhân chất da cam ở Việt Nam.
Vể sau này thì có 3-4 cuộc chiến đã khiến di sản chống chiến tranh Việt Nam lên tiếng ở Anh. Đó là năm 1982 khi nữ Thủ tướng thuộc đảng Bảo thủ Anh, Margaret Thatcher, quyết định đưa quân sang quần đảo Falklands (Malvinas) đẩy quân Á Căn Ðình ra khỏi đó. Lãnh đạo đảng Lao động đối lập, Michael Foot, đã ủng hộ hành động của bà Thatcher, dù bị nhiều nhân vật trong đảng Lao động phản đối.
Vào các năm 1997 và 2010, Anh lại đưa quân ra ngoại quốc, sang Iraq, A Phú Hãn và Libya. Các nhân vật phản chiến hàng đầu của đảng này như Tony Benn và Jeremy Corbyn đã phản đối chính phủ của Tony Blair cùng đảng đưa quân giúp Mỹ. Ông Corbyn sau trở thành lãnh tụ đảng Lao động và kiên trì chống cuộc chiến mới nhất của Do Thái ở Gaza.
RFI: Với tình hình hiện nay thì sao?
TTV Nguyễn Giang: Xin nhắc là đương kim Thủ tướng Anh, Luật sư nhân quyền Keir Starmer, đã xuống đường cùng 'Liên minh ngăn chiến tranh' (Stop the War Coalition) với chừng 1 triệu người khi nổ ra cuộc chiến Iraq năm 2003. Đó là hình ảnh gợi lại các cuộc tuần hành ở Luân Đôn phản đối chiến tranh Việt Nam.
Nhưng gần đây nhất, khi lên cầm quyền, ông Starmer lại đưa đảng Lao động vào một con đường hỗ trợ Ukraine tới cùng, kể cả khi Mỹ và Nga đang đàm phán để chấm dứt chiến tranh. Tất nhiên bối cảnh của cuộc chiến Ukraine rất khác chiến tranh Iraq và hiện nay, các đảng tả và hữu hay trung dung như Tự do Dân chủ (LibDem) đều ủng hộ Ukraine chống lại Nga.
Nhưng như sử gia Keith Flett đánh giá thì ở Anh luôn có hai xu thế: chiến tranh đế quốc và phong trào phản chiến. Đảng Lao động luôn là nơi có những người theo phái hòa bình (pacifists) và phản chiến nói chung và đó đã là truyền thống của họ, kể cả khi có những lãnh đạo như ông Tony Blair hay Keir Starmer, được bầu lên lãnh đạo quốc gia và chọn con đường khác.
Anh và Giải Pháp Công Nhận Hai Nước Việt Nam Sau Hòa Đàm Paris 1973
(Nguyễn Giang)
(Ảnh AFP, minh họa: Henry Kissinger (phải), Trưởng đoàn Cố vấn Chính sách Đối ngoại của Tổng thống Nixon, và Lê Đức Thọ, Trưởng đoàn đàm phán Bắc Việt Nam (trái) tại buổi ký kết Hiệp định Paris ngày 27/01/1973, Paris, Pháp.)
-Dịp tưởng niệm 50 năm kết thúc chiến tranh, thống nhất Việt Nam (1975-2025), là thời điểm tốt để đánh giá lại vai trò của Anh trong 10 năm cuối cùng của "The Vietnam War". Khi đó Anh tiếp tục đóng vai trò giám sát ở cương vị nước đồng Chủ tịch (cùng Liên Xô) của Hội nghị quốc tế Geneva 1954.
Khác Hoa Kỳ, Anh quốc sau Hòa đàm Paris đã công nhận cả hai nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa, trong khi Mỹ sau khi rút khỏi Nam Việt Nam thì phải đến 1995 mới bình thường hóa quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam thống nhất. Nhà báo Nguyễn Giang ở Luân Đôn, thông tín viên Ban tiếng Việt của Đài Phát Thanh Quốc Tế Pháp (RFI), đã nghiên cứu chủ đề này.
RFI: Bối cảnh lịch sử nào khiến Anh bước chân vào Đông Dương?
TTV Nguyễn Giang: Câu chuyện ngày nay ít người nói tới là quân đội Anh có một cuộc chiến ở Nam Bộ cuối năm 1945 sang đầu năm 1946, khi phong trào giành độc lập của Việt Minh và các đảng phái, tổ chức khác lên cao nhằm đòi chủ quyền cho Việt Nam sau hơn 80 năm Pháp cai trị.
Tôi tìm hiểu tài liệu do T.O. Smith công bố ở Đại học East Anglia thì được biết là sau Hội nghị Potsdam tháng 7/1945, Tổng Tư lệnh quân đội Hoa Kỳ, tướng George C. Marshall đã yêu cầu Tư lệnh người Anh của Quân Đồng minh tại Đông Nam Á, đô đốc Louis Mountbatten, tiếp quản khu vực phía Nam đường vĩ tuyến 16 chia đôi Đông Dương.
Thế nhưng, Anh tham gia vào việc giải giáp quân đội Nhật một cách miễn cưỡng và không muốn dính líu sâu vào Đông Dương. Cùng lúc, các chính trị gia bị tác động bởi quan điểm chủ đạo của Bộ Ngoại giao Anh (Foreign Office) về tình hình Âu Châu hậu chiến, rằng "một nước Pháp mạnh tại Âu Châu sẽ giúp cho an ninh của Anh". Nhưng một nước Pháp ở Âu Châu đã là nước thua trận, đầu hàng phát-xít Đức và chỉ có lực lượng Pháp Tự do của tướng De Gaulle lưu vong tại Anh là có một góc ở chiếc bàn của phe thắng trận.
Tôi đã tới thăm bảo tàng nhỏ ở Luân Đôn nơi có tượng tướng de Gaulle và là trụ sở của phe Pháp Tự do dựa vào Đồng minh Anh-Mỹ để phục quốc từ tháng 6/1940 đến tháng 6/1944, sau khi Paris được giải phóng thì ông de Gaulle trở về Pháp. Văn phòng rất nhỏ và các sĩ quan Pháp thường chọn một quán bia ở trung tâm thủ đô Luân Đôn của Anh để họp hành, bởi gọi là chính phủ kháng chiến nhưng thực ra họ không có cơ sở gì nhiều. Giai đoạn hậu chiến đó, nước Pháp cần hùng mạnh trở lại và theo Charles de Gaulle, thì nước Pháp phải giành lại Đông Dương đã thuộc về tay phát-xít Nhật và chính quyền Vichy.
Với tâm lý mâu thuẫn đó trong việc ủng hộ Pháp hay là không, sư đoàn Anh-Ấn do tướng Douglas Gracey (1894-1964) chỉ huy đã tới Nam Bộ từ tháng 9/1945 đến tháng 5/1946.
Ngày 27/12/1945 tại Sài Gòn, tướng Gracey, trong một buổi lễ đầy tính biểu tượng, đã trao thanh kiếm danh dự cho nữ công dân Pháp Suzi Pinel, thành viên của Lực lượng Pháp Tự do hoạt động bí mật chống Nhật ở Đông Dương trong Ðệ nhị Thế chiến. Các Pháp kiều sau đó đã tự tổ chức lại và phần nào được Anh hỗ trợ để đánh lại Việt Minh. Đã có các cuộc giao tranh giữa quân Anh và Việt Minh.
RFI: Cuối cùng thì người Anh đã rút đi và trao lại Nam Bộ cho Pháp, khiến cuộc kháng chiến của người Việt Nam chống Pháp bùng nổ? Và thái độ của nước Anh ra sao?
TTV Nguyễn Giang: Có thể nói là các sĩ quan chỉ huy của Anh ở Sài Gòn sống trong tâm lý giằng co giữa quyền lợi "thực dân đế quốc" truyền thống của người Âu Châu, tức là họ hỗ trợ Pháp kiều một cách tự nhiên, và thái độ muốn tỏ ra công bằng (fair play) với người dân và các chính thể mới thoát ra từ chủ nghĩa thực dân hậu chiến để kiến thiết nền độc lập còn non trẻ của họ. Có câu chuyện là các sĩ quan Anh đã làm lễ mai táng rất trọng thị cho tiểu đội các chiến sĩ Việt Minh tử trận để bảo vệ Cột cờ Thủ Ngữ (23/09/1945). Người sĩ quan Anh ra lệnh cho đại đội của ông ta xếp hàng, bồng súng chào hương hồn những người anh hùng của đối phương đã ngã xuống dưới chân cột cờ. Quân Anh rút đi sau khi bàn giao lại Sài Gòn cho quân Pháp vào mùa Xuân 1946.
RFI: Khi bước vào Chiến tranh Lạnh, Anh quốc có vai trò gì và giữ quan điểm ra sao với Việt Nam?
TTV Nguyễn Giang: Khi cuộc Kháng chiến chống Pháp của người Việt Nam kết thúc thắng lợi, nhờ có vai trò ở Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc sau Ðệ nhị Thế chiến, Anh tham gia Hòa đàm Geneva (1954) và có vai trò đồng Chủ tịch (co-chairman) cùng Liên Xô.
Bởi vậy, Luân Đôn sau khi công nhận Việt Nam Cộng Hòa vẫn có một cơ quan Lãnh sự tại Hà Nội và là quốc gia Âu Châu duy nhất có thể tác động tới Hoa Kỳ trong chính sách của Hoa Thịnh Ðốn ở Đông Dương những năm sau đó.
Điều này được xác nhận bởi các tài liệu giải mật sau này, cho thấy vào những thời điểm quan trọng nhất của Mỹ ở Nam Việt Nam, lãnh đạo Mỹ "chỉ còn có hai đồng minh đáng tin cậy là Anh và Úc Ðại Lợi" - theo lời Phó Tổng thống Hubert Humphrey nói với Thủ tướng Anh Harold Wilson vào tháng 4/1967. Nước Pháp, với thái độ bài Mỹ khá công khai của Tổng thống Charles de Gaulle, thì hoàn toàn không được hoan nghênh trong chính giới Hoa Thịnh Ðốn.
RFI: Quan điểm của Luân Đôn có thay đổi gì không khi chiến sự diễn ra ác liệt ở Nam Việt Nam? Và nhất là sau khi Hoa Kỳ quyết định đổ quân vào tham chiến để bảo vệ Việt Nam Cộng Hòa.
TTV Nguyễn Giang: Ngay khi Hoa Kỳ đổ quân vào Nam Việt Nam ngày 8/3/1965, giới chức ngoại giao Anh đã bắt đầu nhận thấy đồng minh Hoa Kỳ không thể thắng ở Nam Việt Nam và kín đáo chia sẻ quan điểm về cuộc chiến "unwinnable" trong nội bộ chính quyền Anh.
Các tài liệu giải mật - trích theo nhà nghiên cứu Mark Curtis - cho hay ngay từ khi đó, Anh đã tiếp cận Liên Xô để bàn về một giải pháp như Hiệp định Geneva 1954 cho vấn đề Việt Nam.
Giải pháp này dự tính yêu cầu quân đội ngoại quốc rút khỏi Nam Việt Nam và tổ chức bầu cử tự do ở đó, còn miền Bắc sẽ phải trung lập hóa. Cách ứng xử của Anh trong các năm tiếp theo là ủng hộ Mỹ bề ngoại nhưng cũng tìm cách cho người Mỹ thấy "lối thoát" khỏi chiến trường Nam Việt Nam. Cùng lúc, giới an ninh và quân đội Anh vẫn đóng vai trò phụ trợ cho quân đội Hoa Kỳ ở Đông Dương, gồm cả việc cung cấp tin tình báo phục vụ Không quân Mỹ từ trạm thông tin đóng ở Hồng Kông (khi đó vẫn thuộc Anh).
Sau giai đoạn Thủ tướng Anh Harold Wilson làm việc với Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson, tân chính phủ của Edward Heath năm 1970 phải làm việc với Tổng thống Richard Nixon. Ở nhiệm kỳ này, chính phủ của ông Heath ủng hộ công khai hơn một giải pháp "rút lui danh dự cho người Mỹ" khỏi Nam Việt Nam, như lời ông nói trên truyền hình Mỹ CBS vào tháng 12 năm đó.
RFI: Xin anh cho biết là cuối cùng Anh đi đến giải pháp công nhận cả hai chính thể ở hai miền Nam-Bắc Việt Nam như thế nào?
TTV Nguyễn Giang: Các tài liệu nay đã giải mật nói rằng sang năm 1972, Anh tích cực hơn trong việc tiếp xúc với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở cấp cao, tuy không phải là cấp cao nhất. Có vẻ Anh thay đổi thái độ, dấn vào các vấn đề Á Châu liên quan đến Trung Quốc và Miền Bắc Việt Nam nhiều hơn sau khi vào tháng 2/1972, Chu Ân Lai và Richard Nixon tung ra Thông cáo chung Thượng Hải, tạo bước ngoặt Địa-Chính trị lớn trong cục diện Chiến tranh Lạnh ở Á Châu. Ngay vào tháng 6/1972, Ngoại trưởng Anh Anthony Royle thực hiện gần một chuyến thăm quan trọng sang Trung Quốc. Việc tham vấn hoặc trao đổi với Tòa Ðại sứ Anh tại Bắc Kinh về chiến tranh tại Đông Dương được thực hiện và các nhà ngoại giao Anh tại Bắc Kinh cùng các nhà ngoại giao Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã gặp gỡ.
Đây là thời kỳ chính phủ của ông Edward Heath bị giằng co giữa quan hệ Anh - Mỹ, nhu cầu gia nhập Cộng đồng Kinh tế Âu Châu (EEC - tiền thân của EU) và phần dư luận phản chiến khá mạnh mẽ ở trong nước.
Tuy thế, về ngoại giao, với vị thế đặc biệt của mình, Anh tiến tới giải pháp công nhận cả hai nước Việt Nam.
Ngày 17/07/1973, đề xuất "công nhận Bắc Việt Nam" được đưa ra thảo luận tại Quốc hội Anh ở Điện Westminster. Các hồ sơ về sự kiện này vẫn giữ trên trang lưu trữ (Hansard archive-Volume 860 debate-North Vietnam) tại Nghị viện Anh và ghi lại các đoạn trả lời của Ngoại trưởng Anthony Royle đáp trả chất vấn của các Nghị sĩ:
"Tòa Ðại sứ của chúng ta ở Bắc Kinh đã đề nghị với Tòa Ðại sứ của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cuộc thảo luận theo hướng để thiết lập quan hệ ngoại giao. Nay, chúng tôi công nhận Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với thủ đô ở Hà Nội và lãnh thổ nằm ở phía Bắc đường phi quân sự theo Hiệp định Geneva 1954 [vĩ tuyến 17-BBC]. Chúng ta vẫn tiếp tục công nhận Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, với thủ đô ở Sài Gòn, là chính quyền hợp pháp duy nhất của Nam Việt Nam, với lãnh thổ nằm phía Nam đường giới tuyến tạm thời đó".
Anh có vẻ cố duy trì quan điểm hình thành từ năm 1954, mà không muốn thấy sự thay đổi cán cân lực lượng trên chiến trường đã nghiêng hẳn về Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và lực lượng Mặt trận. Đây là lý do Luân Đôn công nhận cả hai nước Việt Nam, trong khi vẫn coi đường phân định Nam-Bắc chỉ là tạm thời, "provisional military demarcation line", theo đúng Hiệp định Geneva.
Như thế, quan điểm của Anh khác các nước Xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu khi đó, bởi vì họ, cùng Liên Xô, công nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam nhưng không công nhận Việt Nam Cộng Hòa. Còn Mỹ thì không công nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam cho đến 1975, và chỉ lập quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam thống nhất vào năm 1995, sau Anh rất lâu.
Có thể để làm vừa lòng Hoa Kỳ, Bộ Ngoại giao Anh nêu quan điểm vào ngày 17/7/1973, "sẽ không công nhận Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam".
Năm 1975, ông Stewart trở lại Hà Nội ở cương vị Đại sứ Vương quốc Anh đầu tiên ở nước Việt Nam thống nhất. Quan hệ Anh-Việt bước sang một thời kỳ mới.
Tin Quốc Tế Đó Đây
Chi Phí Quân Sự Trên Thế Giới Tăng Cao Nhất Từ Sau Chiến Tranh Lạnh
(Ảnh AP - Vadim Ghirda, minh họa: Một quân nhân Ukraine bắn súng chống tăng NLAW trong cuộc tập trận tại khu vực Donetsk, miền Đông Ukraine, ngày 15/2/2022.)
-2024 là năm chi phí quân sự toàn thế giới tăng mạnh nhất kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Theo báo cáo của Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm Sipri được công bố hôm 28/4/2025, do tác động của chiến tranh và nhiều cuộc xung đột trên thế giới, tổng chi phí quân sự trên toàn cầu đạt 2.700 tỉ Mỹ kim, tăng 9,4% so với hồi 2023.
Như vậy là trong 10 năm liên tiếp thế giới tăng chi phí quân sự. Theo báo cáo năm nay của Sipri, Âu Châu và Trung Đông là hai khu vực mà chi phí quân sự tăng mạnh nhất. Hơn 100 nước trong năm vừa qua đã tăng ngân sách quốc phòng. Một chuyên gia của viện Sipri được thông tấn xã AFP trích dẫn lưu ý, hiện tượng này sẽ dẫn đến những hệ quả sâu rộng về mặt kinh tế, chính trị và xã hội vì để tăng ngân sách quốc phòng, nhiều nước sẽ phải hy sinh những khoản chi tiêu khác. Âu Châu chẳng hạn đã phải "cắt giảm các khoản viện trợ cho các nước kém phát triển, phải tăng thuế hoặc phải mang nợ nhiều hơn".
Do cuộc chiến tại Ukraine, chi tiêu quốc phòng của Âu Châu, trong đó có cả nước Nga, trong năm qua, đã tăng 17% chi tiêu quốc phòng, lên tới 693 tỉ Mỹ kim. Riêng Nga đã huy động 149 tỉ Mỹ kim cho quân đội, cao hơn 38% so với hồi 2023. Trong Liên Hiệp Âu Châu (EU), ngân sách của Đức tăng mạnh hơn cả, +28% và lần đầu tiên từ khi thống nhất đất nước, ngân sách quốc phòng của Đức dành đến 88, 5 tỉ Mỹ kim tăng cường khả năng phòng thủ.
Tuy nhiên, Hoa Kỳ vẫn đứng đầu bảng: Ngân sách quốc phòng của Hoa Kỳ năm 2024 tăng 5,7% đạt gần 1.000 tỉ Mỹ kim. Chỉ một mình Hoa Kỳ chiếm 37% tổng chi phí quân sự toàn cầu, chiếm 66% trong số các thành viên của Liên minh Phòng thủ Bắc Đại Tây Dương (NATO).
Trung Quốc đứng thứ hai, với ngân sách 314 tỉ Mỹ kim, tăng 7% so với năm 2023
Nga Đặt Điều Kiện Để Vãn Hồi Hòa Bình Cho Ukraine
(Ảnh AFP - Pavel Bednyakov, minh họa: Ngoại trưởng Nga Sergei Lavrov phát biểu trong cuộc họp báo chung với Bộ trưởng Ngoại giao Zimbabwe, sau cuộc hội đàm tại Mạc Tư Khoa, Nga, ngày 6/3/2025.)
-Vào lúc Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump cho biết ông "tin rằng" Tổng thống Ukraine sẵn sàng để mất bán đảo Crimea về tay Mạc Tư Khoa, Ngoại trưởng Nga Sergueï Lavrov sáng 28/4/2025, đặt điều kiện "tiên quyết" để vãn hồi hòa bình cho Ukraine, đòi cộng đồng quốc tế công nhận "bán đảo Crimea, Sébastopol, Cộng hòa Donetsk, và các vùng Zaporijia, Kherson, Louhansk" thuộc về nước Nga.
Trả lời nhật báo Ba Tây O Globo hôm 28/4/2025 Ngoại trưởng Lavrov tuyên bố "lập trường của Nga để giải quyết xung đột đã được thông báo trước (...)". Có nghĩa là tất cả các vùng lãnh thổ của Ukraine mà Nga đã chiếm được phải được quốc tế công nhận là thuộc về Nga.
Nga đã thôn tính báo đảo Crimea của Ukraine từ 2014 nhưng tới nay, cả Hoa Kỳ lẫn cộng đồng quốc tế đều không công nhận. Tháng 9/2022 sau bảy tháng khởi động chiến dịch xâm lược Ukraine Nga loan báo chiếm đoạt thêm 4 khu vực khác của Ukraine là Luhansk Zaporijjia Kherson và Donetsk.
Hãng tin Pháp AFP ghi nhận: Ngoại trưởng Lavrov đặt điều kiện đàm phán như trên trong lúc Ðiện Cẩm Linh trong những tuyên bố sáng nay vẫn quả quyết "sẵn sàng đàm phán vô điều kiện" kết thúc xung đột tại Ukraine.
Sau cuộc tiếp xúc với Tổng thống Ukraine, ông Volodymyr Zelensky, tại Vatican nhân tang lễ đức Giáo hoàng Francis hôm thứ Bảy (26/4/2025), trên đường trở về Hoa Thịnh Ðốn, Tổng thống Donald Trump cho biết ông tin rằng Volodymyr Zelensky bắt đầu chấp nhận từ bỏ ý định giành lại Crimea để đổi lấy hòa bình cho Ukraine. Hoa Thịnh Ðốn cũng coi đây là một điêu kiện cần thiết để đạt được một kế hoạch hòa bình với Mạc Tư Khoa.
Bắc Hàn Thừa Nhận Đưa Quân Sang Nga Để Tham Chiến
-Hôm 28/4/2025, lần đầu tiên, Bắc Hàn xác nhận đã gởi quân sang Nga và đã giúp Mạc Tư Khoa giành lại các khu vực mà quân Ukraine chiếm được ở vùng biên giới Kursk.
Hãng tin chính thức KCNA cho biết các đơn vị của "lực lượng vũ trang" Bắc Hàn đã "tham gia các chiến dịch giải phóng" các khu vực bị chiếm đóng ở vùng Kursk, và đóng góp của những binh lính này "đã đạt kết quả chiến thắng".
Từ nhiều tháng qua, Ukraine, Nam Hàn và các nước phương Tây đã tố cáo sự can thiệp của hàng ngàn binh lính Bắc Hàn vào cuộc chiến tranh Ukraine, một cáo buộc mà cả Mạc Tư Khoa lẫn Bình Nhưỡng đều chưa bao giờ xác nhận mà cũng không phủ nhận. Từ thủ đô Hán Thành của Nam Hàn, thông tín viên Celio Fioretti của Ðài Phát Thanh Quốc Tế Pháp (RFI) tường trình:
Sau nhiều tháng im lặng, qua phương tiện truyền thông nhà nước, nhà cầm quyền Cộng sản Bắc Hàn thừa nhận đã can thiệp vào cuộc xung đột bên cạnh lực lượng Nga. Bình Nhưỡng tuyên bố rằng việc gửi quân sang tham chiến là một ví dụ về tình hữu nghị chiến lược với Mạc Tư Khoa, đồng thời gọi những người lính này là anh hùng.
Chế độ Cộng sản Bắc Hàn đã trả một giá rất đắt về sinh mạng cho sự can thiệp này, vì đã chịu tổn thất gần 4.000 người. Lãnh đạo Cộng sản Bắc Hàn Kim Jong Un đã hứa sẽ dựng một tượng đài tưởng niệm cho những người lính tử trận này tại thủ đô Bình Nhưỡng, nơi mà gia đình họ có thể đến viếng.
Bình Nhưỡng công nhận sự tham gia vào cuộc xung đột này hai ngày sau khi Nga cũng xác nhận sự hiện diện của quân đội Bắc Hàn tại vùng Kursk. Đây là cách để Bắc Hàn chính thức hóa sự can thiệp của mình và yêu cầu Mạc Tư Khoa bồi thường vật chất. Được Vladimir Putin mời, Kim Jong Un có thể đến thăm Nga trong những tuần tới.
Theo hãng tin AFP, Tổng thống Nga Vladimir Putin hôm 28/4 đã cám ơn ông Kim Jong Un về "kỳ tích" của những người lính Bắc Hàn.
Về phía Hán Thành, Bộ Quốc phòng Nam Hàn hôm 28/4 lên án Bình Nhưỡng vi phạm các Nghị quyết của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc. Phát ngôn viên của bộ này tuyên bố: "Khi chính thức công nhận điều này, chính quyền miền Bắc đã nhìn nhận những hành động tội ác của chính mình".
TIN VẮN - TIN TỔNG HỢP
(AFP) – Tại Vatican, các Hồng y hôm 28/4/2025, quyết định Mật nghị Hồng y bầu chọn tân Giáo hoàng sẽ bắt đầu vào ngày 7/5. Trong thời gian diễn ra Mật nghị Hồng y, 135 vị Hồng y có quyền bỏ phiếu (dưới 80 tuổi) sẽ họp kín trong nhà nguyện Sistina ở Vatican để bầu tân Giáo hoàng. Các vị Hồng y sẽ bỏ phiếu 4 lần mỗi ngày, 2 lần buổi sáng, 2 lần buổi chiều, cho đến khi chọn được người thay thế Giáo hoàng Francis. Tiến trình bỏ phiếu có thể kéo dài nhiều ngày. Trong hai lần trước, vào năm 2005 và 2013, Mật nghị Hồng y chỉ diễn ra trong 2 ngày.
(AFP) – Phi Luật Tân bác bỏ thông tin Trung Quốc đã chiếm được Đá Hoài Ân ở Biển Đông. Hôm thứ Bảy (26/4), kênh truyền hình Nhà nước Trung Quốc loan tin là Hải cảnh Trung Quốc vào giữa tháng 4 đã đổ bộ lên Đá Hoài Ân thuộc quần đảo Trường Sa ở Biển Đông, một đảo nhỏ mà Trung Quốc, Phi Luật Tân và Việt Nam đều tuyên bố chủ quyền. Một phát ngôn viên của Hội đồng An ninh Quốc gia Phi Luật Tân hôm 28/4/2025, khẳng định việc loan truyền thông tin nói trên là "vô trách nhiệm". Trong khi đó, phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Trung Quốc chỉ trích thái độ "khiêu khích" của Phi Luật Tân tại khu vực Đá Hoài Ân và tuyên bố "Trung Quốc đã tiến hành các chiến dịch bảo vệ các quyền và thực thi pháp luận nhằm ngăn chận việc Phi Luật Tân đổ bộ trái phép lên đảo này, cũng như ngăn chận những hành động khiêu khích khác".
(AFP) – Trung Quốc: Không hề có điện đàm giữa Donald Trump và Tập Cận Bình. Trong cuộc họp báo hôm 28/4/2025, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc khẳng định trong thời gian qua, không hề có bất cứ cuộc điện đàm nào giữa nguyên thủ hai nước về thuế quan. Trong bài trả lời phỏng vấn được đăng trên tạp chí Time ngày 25/4, ông Trump cho biết đã nói chuyện qua điện thoại với lãnh đạo họ Tập, nhưng không nói rõ thời điểm cũng như nội dung cuộc trao đổi.
(AFP) – Ấn Độ ký thỏa thuận mua 26 chiến đấu cơ Rafale. Bộ Quốc phòng Ấn Độ cho biết vừa ký một thỏa thuận với Pháp hôm 28/4/2025, để mua thêm 26 chiến đấu cơ Rafale, do hãng Pháp Dassault Aviation sản xuất, để trang bị cho Hải quân Ấn Độ. Đơn đặt hàng này bổ sung cho đơn đặt hàng đầu tiên của Ấn Độ mua 36 máy bay cùng loại.
(AFP) – Ấn Độ-Pakistan lại nổ súng ở biên giới sau vụ khủng bố ở Kashmir. Như 3 đêm trước, quân đội Ấn Độ cáo buộc lực lượng Pakistan đã nổ súng trước trong đêm 27-28/4/2025 và buộc họ phải đáp trả. Căng thẳng giữa hai nước tiếp tục gia tăng sau vụ khủng bố khiến 26 người thiệt mạng và Tân Ðề Ly cáo buộc chính quyền Islamabad đứng đằng sau. Các thủ phạm vẫn đang bị truy nã. Trung Quốc kêu gọi Ấn Độ và Pakistan "kiềm chế". Còn theo hãng thông tấn PTI ngày 28/4, khoảng 15 kênh của các cơ quan truyền thông như Dawn, Samaa TV, ARY News, Bol News... được chiếu trên YouTube bị cấm vì tuyên truyền "gây hấn" về vụ khủng bố đẫm máu.
(AFP) – Tân Thủ tướng Nielsen: Greenland không phải "để bán". Đến thăm Đan Mạch, hôm 27/4/2025, tân Thủ tướng Greenland, ông Jens-Frederik Nielsen, khẳng định, hòn đảo rộng lớn này không phải là "để bán" và những tuyên bố của phía Mỹ về việc sáp nhập vùng lãnh thổ tự trị của Đan Mạch là "thiếu tôn trọng". Đây là chuyến thăm đầu tiên của tân Thủ tướng Groeland ở Đan Mạch kể từ khi ông Nielsen lên lãnh đạo một chính phủ liên minh sau khi đảng của ông giành chiến thắng trong cuộc bầu cử Lập pháp vào tháng 3.
(AFP) – Nghi phạm vụ tấn công bằng dao sát hại một tín đồ Hồi giáo ở miền Nam nước Pháp đã "nộp mình" cho cảnh sát Ý Ðại Lợi. Hai ngày sau vụ tấn công và gây tử vong cho một tín đồ Hồi giáo ở thành phố La Grand Combe, vùng Gard, miền Nam nước Pháp, nghi can đã bị bắt tại Ý Ðại Lợi trong đêm 27/4/2025. Chưởng lý tòa án Alès xác nhận danh tánh nghi can là người gốc Bosnia, sinh ra tại Pháp. Hung thủ tự ý ra trình diện cảnh sát tại Pistoria, miền Trung nước Ý Ðại Lợi cách không xa thành phố Florence. Pháp đã phát lệnh cho dẫn độ nghi can về Pháp.
(AFP) – Tấn công nhà tù ở Pháp: 25 vụ bắt giữ. Mười lăm ngày sau các vụ tấn công vào các nhà tù ở Pháp nhân danh nhóm "DDPF", một nhóm không ai biết đến, cảnh sát Pháp đã tiến hành 25 vụ bắt giữ trong một chiến dịch ở nhiều nơi, cụ thể là ở vùng Paris, Marseille, Lyon và Bordeaux. Kể từ ngày 13 đến 21/4, nhiều nhà tù ở Pháp đã bị đốt xe trong bãi đậu xe, bị nhắm bắn bằng pháo hoa hoặc thậm chí bằng súng kalachnikov.
(RFI) – Nổ hải cảng Shahid Rajaï: Iran chưa làm chủ được tình hình. Hai ngày sau vụ nổ lớn tại bến cảng Shahid Rajaï làm ít nhất 40 người chết, Iran vẫn chưa làm chủ được tình hình. Teheran bác bỏ tin đồn nguyên nhân gây ra hỏa hoạn xuất phát từ vụ nổ hóa chất nhập cảng để chế tạo phi đạn-đạn đạo. Cảng Shahid Rajaï, cách thủ đô Teheran cả ngàn cây số về phía Nam và đây là nơi 85% hàng hóa của Iran phải đi qua.
(AFP) – Mỹ khẳng định tấn công 800 mục tiêu và hạ sát vài trăm chiến binh Houthi ở Yemen từ tháng Ba. Theo thông tin được quân đội Mỹ công bố ngày 27/4/2025, trong số chiến binh Houthi bị hạ sát có rất nhiều thành viên bộ chỉ huy. Từ ngày 15/3, Mỹ mở chiến dịch "Rough Rider", oanh kích lực lượng nổi dậy ở Yemen gần như hàng ngày nhằm chấm dứt mối đe dọa của Houthi đối với khu vực Hồng Hải và vịnh Aden.
(AFP) – Do Thái bị Palestine cáo buộc sử dụng phong tỏa làm "vũ khí chiến tranh" ở Gaza. Ngày 28/4/2025, Tòa Án công Lý Quốc Tế bắt đầu phiên xử, dự kiến kéo dài hơn 50 ngày, về việc Do Thái thiết lập phong tỏa hoàn toàn đối với hàng viện trợ nhân đạo vào dải Gaza bị chiến tranh tàn phá. Trong buổi khai mạc, ông Ammar Hijazi, đại diện của Palestine khẳng định "tất cả các tiệm bánh mì ở Gaza được Liên Hiệp Quốc hỗ trợ đã buộc phải đóng cửa. 9/10 người Palestine không có được nước sạch". Do Thái không tham dự nhưng đã phản ứng ngay lập tức, cáo buộc phiên tòa là "sự đàn áp triệt để".
(AFP) – Ả Rập Saudi và Qatar thay mặt Syria thanh toán khoản nợ 15 triệu Mỹ kim cho Ngân hàng Thế giới (WB). Một thông cáo chung của Bộ Tài chánh Ả Rập Saudi và Qatar của Ryiadh hôm 28/4/2025 cho biết như trên. Đây là kết quả từ một cuộc họp với đại diện của Syria bên lề khóa họp mùa Xuân tại thủ đô Hoa Thịnh Ðốn của Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Trên nguyên tắc cử chỉ này "mở đường cho việc Syria lại được phép yêu cầu Ngân hàng Thế giới giúp đỡ sau 14 năm cuộc nội chiến". Phần lớn cơ sở hạ tầng của Syria đã bị phá hủy vì chiến tranh.
(Les Echos) – Pháp vô địch Âu Châu về chứng trầm cảm liên quan đến công việc. Trầm cảm do tiếp xúc với những rủi ro tâm lý xã hội (PSR) tại nơi làm việc khiến các quốc gia Âu Châu thiệt hại từ 45 đến 103 tỉ Euro mỗi năm. Đây là kết luận của một nghiên cứu khoa học quốc tế cho Viện Công đoàn Âu Châu, được tiến hành tại 27 nước Liên Hiệp Âu Châu (EU), Anh Quốc và được nhật báo Les Echos đăng ngày 28/4/2025. Vấn đề này đặc biệt đáng lo ngại đối với Pháp, nơi có chi phí hàng năm cao nhất cho trung bình 100.000 nhân viên. Trong số 5 rủi ro tâm lý xã hội, có ba điểm căng thẳng hơn cả: áp lực, sự cân bằng giữa nỗ lực và phần thưởng, quấy rối tinh thần.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét