Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Sáu, 13 tháng 9, 2024

Hương Xưa, Ngày Tháng Cũ. - Đỗ Dung


Các bạn đồng khoá chúng tôi, TV 58-65, muốn cùng nhau thực hiện một cuốn Đặc San đặc biệt ngày năm mươi năm dời trường. Chủ đề "Kỷ Niệm", "Bạn Bè". Hạn chót nộp bài là cuối tháng January. Hôm nay, 14/1/2015. Tôi biết viết gì đây? Bạn? Bè? Bạn mộtđời? Bạn một thời? Có những người tưởng như bạn một đời,có những người tưởng chỉ là bạn một thời... Những khuôn mặt từ từ hiện lên, những kỷniệm cũ uà về. Bẩy năm Trung Học, mấy năm lên Đại Học, rồi tan tác,chia lìa, rồi lại đoàn viên. Những Đại Hội trùng phùng cảmđộng, bùi ngùi nhận ra nhau, hay biết thêm về nhau nhiều hơn để tiếptục gắn bó.
<!>
Những hỗn danh Chính Tốn,Châu Sình, Ngân Le, Dung Lu, Tí Ti, Bé Bự... đưa tôi về khoảng thời gian vui vẻ nên thơnhất của đời người, bẩy năm Trung Học. Bẩy năm áo trắng tung tăng,mấy năm cuối với những mộng mơ, những rung động nhẹ nhàng của mộtthời con gái.

Một buổi sáng muà hè năm 1958, mẹ tôi chất bốn chị em chúng tôi, đứa lớnnhất 11 tuổi, đứa bé nhất mớilên 5, cùng ngồi với mẹ trênmột chiếc xe xích lô máy đến trường Trưng Vương xem kết quả thi vàoĐệ Thất. Chả hiểu sao khi tôi đembản nháp bài thi về cho cha tôi xem thì ông đoán như đinh đóng cột là”Con bố phải đỗ”, dù là trường chỉ chọn ba trăm học sinh trong số gầnba ngàn thí sinh từ các trường Tiểu Học khắp nơi dự thi. Mẹ tôi không dám tin chắc nhưng vì tiện xevà trường gần Thảo Cầm Viên nên cho các em tôi đi chơi một thể. Thậtmay mắn, loa phóng thanh mới phát ra một lúc đã thấy đọc đến tên tôi.Mấy chị em tôi đã rú lên mừng rỡ. Đểcho chắc chắn mẹ tôi bắt đợi khi nhà trường đọc hết danh sách, đếndò tên ở bảng dán trên tường với số báo danh rõ ràng mới yênchí. Mấy chủ xe đưa đón học sinhxúm xít vây quanh những phụ huynh có con trúng tuyển để quảng cáolấy khách. Mẹ tôi nói địa chỉ nhà, họ chuyển sang cô Năm- chú Sáu,hai vợ chồng chủ xe chạy lộ trình này. Mẹ trả tiền xe cho cô Năm vàcô hẹn ngày khai trường sẽ đến tận nhà đón.

Ngày khai trường đến, tôixúng xính trong chiếc áo dài ngồi đợi, hồi hộp, lo âu trong sungsướng mình đã là nữ sinh Trưng Vương. Trên xe có hai nhỏ TV ngồi sẵn,Phùng Thị Chính, Lan Phương. Đi đến gần đầu đường thêm nhỏ Thu Hà vớiKim Loan. Thì ra nguyên một khúcThành Thái này đã có bốn TV be bé. Nhà Chính ở chợ An Đông. Xe cô Năm- chú Sáu đưa rước hai trường, TrưngVương và thêm một trường Tiểu Học Tầu trong Chợ Lớn. Mỗi ngày khi xe đưa học trò nhỏ trườngTầu về là đón TV đi học. Sau đườngTrần Hưng Đạo thì trên xe chỉ còn TV. Bích Liễu ở khu Nancy, có biệtdanh là Chuột Chù Phan Văn Trị, không biết ai đặt, có lẽ tại cô nàngtuổi Tí. Xe đón Bích Liễu là đónluôn chị Bạch Lan. Tôi còn nhớ ngoài TV 58-65 còn các TV lớp lớn hơn như Kim Chung, Bạch Lan, Tuyết Phương,Hồng Nhung, Hạnh, Hiếu... năm sau có thêm Bích Từ, Trần Thị Phương, TuyếtNhư rồi kế tiếp là Thục Văn, Kim Tâm và mấy chị em nhà hàng len ở LêThánh Tôn...

Những ngày đi xe trường cónhiều chuyện thật vui. Tôi hay giànhngồi ngay đối diện cô Năm ở phía sau cùng để phụ cô làm lơ xe. Mỗi khi xe ghé đón hay thả học trò thìla lên ”Cho xe ghé dzô đi” một cách khoái trá. Xúm lại chọc sao Cô Năm mà lại Chú Sáu,vậy là cô Năm lớn hơn chú Sáu… hahaha. Những ngày nghỉthỉnh thoảng tôi đi chợ An Đông, leo lên lầu nhà Chính rồi hai đứa chuivào một xó chuyện trò. Ngày họpĐH ở nhà hàng Paracel, sau mấy chục năm không gặp, tưởng Chính đã quênnhưng tự nó đến vỗ vai tôi mà nói, hồi đó bà cụ tao gọi mày là“Cái Tròn”. Cụ có nhắc đến màyđấy.

Những năm đệ nhất cấpchúng tôi học buổi chiều. Ngày đầu tiên bước vào ngôi trường thân yêuấy, chúng tôi xếp hàng theo từnglớp dưới sân trường, chào cờ, nghe huấn từ của bà Hiệu Trưởng TăngXuân An; lời chỉ dạy của bà Giám Học Nguyễn Thị Phú về chương trìnhgiáo dục; cô Tổng Giám Thị Nguyệt Minh nhắc nhở về hạnh kiểm, côngdung ngôn hạnh, những nết na của người con gái và nói về những kỷluật cuả nhà trường. Trong mắt tôilúc đó, ba bà trong Ban Giám Hiệu thật đẹp và oai nghi. Nhất là cô Tổng Giám Thị.

Giáo sư chính lớp tôi làbà An Thị Kỷ, bà giám thị Trí và đặc biệt tôi nhớ hai chị tuỳphái, chị Ngọ tóc vấn khăn để trần. Chị Nụ ngoài khăn vấn quấntròn trên đầu còn phủ thêm chiếc khăn vuông màu đen gấp chéo buộc lạiphiá sau thành khăn mỏ quạ. Nhìn hai chị tôi nhớ vú Hạnh, chị Dầnnhà tôi ngoài Hà Nội, quần áo tiêu biểu chính cống Bắc Kỳ xưa.

Chúng tôi quen dần với bạn mới. Mấy em bé bé dãybàn đầu có Tạ Bạch Mai Hương, Đan Hà, Nguyễn thị Hợp, Minh Hà, MaiOanh, Bích Trâm, Vân Bằng, Vân Anh, Bùi Nga, Đinh Thị Bạch Tuyết, CấnThị Hạnh Viên, Bùi Kim Liên...dãy bàn nhì với Kim Khánh, Hoàng KimLiên, Trương Kim Lan, Nguyễn Thị Hà, Phan Song Hà, Đào Dung, Đoàn Dung,Đỗ Dung. Bích Liễu hình như ngồi góc phiá bên kia với Phùng ThịChính, Kim Chinh và Trịnh Thị Thảo. Mấy dẫy bàn phiá sau có Nguyễn Hoàng Vân Hương, Đỗ Thị Hạnh, Trầnthị Hương, Phạm Thị Triệu, Phạm Xuân Mai, Nguyễn thị Lan, Lê thị Ánh,Đỗ thị Anh Thư, Nguyễn thị Kim Dung, Nhạc Lưu, Nguyễn Lệ Hải, Nguyễn thị Kim Lan, Nguyễn Thị Thư,Nguyễn Thị Lê, Phạm Thị Chúc, Hồ Thị Nhan, Trần Thị Liên, Nhẫn, Đạo,Duyên, Phạm Minh Đường, chị em Phương Khanh, Phương Thảo, Nguyễn Cung ThịSính... Chuyện gần sáu chục năm nên trí óc cũng cùn đi, tôi nhớ làsĩ số gần sáu mươi mà cố cũng không thể nhớ nổi hết. Tết năm đó lớpchúng tôi tập múa bài Tiếng Sáo Thiên Thai, mới đầu Trịnh Thị Thảolà cô nàng tiên chính, đứng giữa. Cuốicùng chẳng hiểu sao Vân Hương phải thay thế, cô nàng phải miễn cưỡngthế mạng phút chót nên mặt bí xị không được vui. Tôi chỉ nhớ hai cô tiên bé Tạ Bạch MaiHương và Phạm Vân Bằng thật là xinh. Đến ngày lễ Hai Bà, thày Nguyễn Cường thiết kế xe hoa hình concông với những dải lụa dài đằng sau, một bầy nữ sinh cầm lụa múanhư đuôi công. Lớp tôi cũng có vài người được tuyển chọn vào nhómmúa đuôi. Năm đó còn có một kỷniệm khó quên. Lớp học trên lầu ba,một ngày, sau khi sắp hàng và được lệnh vào lớp, chúng tôi chạy rầmrập lên cầu thang, khốn nỗi cầu thang gỗ và nhiều đứa còn đi guốcnên cứ nện thoải mái. Bà Giáo Sưchính An Thị Kỷ cho ngay cả lớp đi cấm túc ngày Chủ Nhật vì tội “Chạyầm ầm ở cầu thang”. Từ đó chúngtôi phải mang giày, dép cao su, nếu đi guốc phải đóng đế.

Những năm đệ nhất cấp từ từ trôi, sau ba thángnghỉ hè, ngày tựu trường gặp lại, nhìn nhau như lớn phổng hẳnlên.

Có một TV đã nói rằng rung động đầu đời của nữsinh TV là yêu cô giáo. Những cây si thập thò ở cửa lớp để ngắm côhay kéo nhau theo đuôi cô giờ tan học. Những cô giáo Trưng Vương thật làđáng yêu. Gần như mỗi đứa có mộtthần tượng cho riêng mình và nghỉ hè xa cô cũng nhớ nhung, xin địachỉ để đến nhà cô ngồi chầu cho đỡ nhớ. Các cô có nhiều cây si nhưcô Tố Lan, cô Kim Thi, cô Hồng Diệp, cô Lệ Khanh, cô Thuý Nga, cô MộngNgọc, cô Ngọc Quỳnh, cô Ninh, cô Trâm, cô Vinh, cô Thái, cô Hồng, cô LưuKim Dung...Còn với tôi, cô Xuân Sanh yêu quý của tôi là nhất.

Có hai giai thoại mà mỗi khi nghĩ đến tôi lại bậtcười. Những lần có quốc khách haynhững ngày lễ lớn chúng tôi phải thức dậy thật sớm để xếp hàng điđón hay đi tham dự. Những ngày đó chúng tôi phải mặc đồng phục với quầntrắng. Có người thắc mắc:“Thưa cô,nhỡ “bị” có được nghỉ không ạ?” thì cô giáo đã mắng ngay: “Congái...bị thì phải biết chuẩn bị”. Nhưng mặc dù đã chuẩn bị kỹ càng vậymà một bạn tôi đã “kẹt” làm tụi tôi phải vây xung quanh để che cảnh“mặt trời mọc”. Và... một năm,ngày lễ Hai Bà, hai nữ sinh Gia Long và Trưng Vương được hân hạnh đóngvai Hai Bà Trưng ngồi oai nghi trên lưng voi, làm lễ xong còn phải đidiễn hành. Các chị phải đếntrường từ tờ mờ sáng, ngồi phơi nắng đến xế trưa, vừa mệt vừa phảingồi lâu quá trên thớt voi, không giải tỏa được “bầu tâm sự”, vừa xong buổi diễn hành tự nhiên một tronghai bà Trưng ngất xỉu phải bế xuống và “voi đã đổ mồ hôi”.

Lên đệ nhị cấp chúng tôi chuyển sang học buổisáng. Khu nhà tôi không có xe trường, chúng tôi phải tự túc. Thườngbuổi sáng tôi đón xe buýt Cây Mai- Cây Gõ ngay góc Thành Thái - TrầnBình Trọng hoặc xe lam lên bến xe trung tâm tại chợ Bến Thành rồichuyển sang chuyến xe khác lên đường Thống Nhất ngay trước cổng sởthú rồi từ từ thả bộ tới trường. Năm Đệ Tam đã có những lúc bướcchân vướng víu vạt aó dài, mặt nóng bừng khi đi qua quán Hẹn hoặc đingang La Pagode trong lúc rủ nhau đi bộ về chợ Bến Thành mới lên xe buýtvề nhà.

Từ Đệ Tam chúng tôi đã phải chọn ban thích hợpvới nghề nghiệp sau này. Lớp Tam A1 chúng tôi có một số bạn cùng học từ lớpdưới, một số từ lớp khác và vài bạn từ trường ngoài. Đã lớn hơn một chút, chúng tôi thân nhauhơn. Ngày nghỉ đã ra dáng người lớn, khôngchơi rải ranh hay đánh chuyền nữa mà bắt đầu đến nhà nhau để nướngbánh kẹp, đổ bánh xèo, chiên bánh tôm, tráng bánh cuốn hay tập tranghoàng bánh kem. Đã có những lúcngồi bên nhau tâm sự vụn. Đã biếtrủ nhau đi dạo phố hay lên sân thượng để ngồi ngắm trăng.

Năm Đệ Nhị nhiều biếnđộng chính trị, chúng tôi có những dao động mạnh khi nghe tin nhữngbạn bị xe bít bùng đêm đến đưa đi.

Tú Tài Một đã qua, TúTài Hai lại tới. Năm Đệ Nhất đểlại trong tôi nhiều kỷ niệm. Tuổi 17 đến 20, các bạn tôi đã trở thành những thiếu nữxinh đẹp, tan trường đã có những chàng “Anh theo Ngọ về, đường mưa nhonhỏ”. Chàng Xuân Hạnh đã chốngvespa ở cửa trường đón nàng Vũ Kim Liên.

Lớp A1 của tôi có nhiều người đẹp, Vượng, Hảo, TrịnhThị Thảo, Trần Thị Ngọc, Mộng Hoa, Ngọc Hoa, Lê Thị Vân, Phạm KimThể, Đặng Thị Hoà, Dương Thị Mai, Nguyễn Thị Hà, Dậu, Chép...Bây giờnhìn lại thấy ai cũng đẹp, như Lệ, Liễu, Kim Chinh, Tú Khanh, Vũ KimLiên, Minh Thu, Đỗ Thị Hạnh... Tuổi trẻ tha thướt, mộng mơ, tuổi cuảmắt sáng, môi hồng, má thắm. Tuổi trẻ trong sáng, xinh tươi như nhữngbông hoa đang độ của vườn xuân trong nắng sớm. Lớp chúng tôi cũng cóhai nữ sinh xuất sắc là Hoa Tâm và Năm. Sau Tú Tài cả hai đều được học bổng du học, Năm đi Úc, Hoa Tâmsang Canada.

Năm cuối cùng chúng tôi đãcó những nỗi buồn vu vơ, cảm giác sắp phải xa lià bạn bè, trườnglớp; những lúc bâng khuâng, nao nao, ngồi bên nhau muốn khóc; có nhữnglúc lại xúm nhau phá phách, chọc ghẹo bạn bè, thầy cô như muốn níukéo lại thời gian. Đến cuối năm chúng tôi mới lo học rút, tập trunggạo bài để đi thi. Khi chúng tôi cókết quả, cả nhóm cùng đỗ Tú Tài phần hai, cha mẹ tôi mừng lắm, chophép tổ chức ăn khao tại nhà, mời các giáo sư như Cô Ninh, Cô MộngNgọc, Thầy Diễn, Thầy Giảng, Thầy Tẩm, Thầy Lộc, thêm Thầy Lưu vàThầy Thọ, hai thầy không dạy TV nhưng đã coi điểm thi hộ chúng tôi.Nhóm A1 gồm Phương Ngân, Thanh Hoà,Minh Thu, Mộng Hoa, Ngọc, Nhị, Cẩm Tú, Mai Oanh, Dương Mai, Bích Liễu, Nguyễn Thị Hà, Nguyễn Thị Năm. Bữa tiệc thật vui và sau đó như bầychim non dời tổ, những cô nữ sinh chia tay, mỗi đứa một ngã rẽ, chậpchững, dọ dẫm bước vào đời.

Các bạn cuả tôi ơi,

Những cánh hoa sao xoay títtrên không, bầu trời trong xanh của con đường Nguyễn Bỉnh Khiêm với haihàng cây cao vời vợi, hình ảnh chúng mình đi trong lòng đường trướccổng trường, những lúc giỡn hớt bông đuà, những giờ thể thao vuinhộn, những khi ăn vụng trong lớp và vòi vĩnh thầy cô để xin tiền ănbò biá, bò khô trước cổng trường. Những miếng xoài xanh, những cục ômai chuyền vội nhau dưới gầm bàn. Oái oăm lại còn chơi trò ăn vụng mà bóc quít thơm lừng... cườira nước mắt. Những miếng khoai mìnuốt chửng vì thầy đang quay lưng viết trên bảng, bất thình lình quayxuống ... Những khuôn mặt bạn bè thời trẻ dại đang rõ nét trong tôi.

Bạn ơi...Nhớ ơi là nhớ.

Đỗ Dung

Không có nhận xét nào: