Tất cả hình như chỉ còn là kỷ niệm, sau cuộc đổi đờị Là định mệnh mà chúng ta, những kiếp trai thời loạn phải gánh chịu, theo vòng đời nổi trôi của dòng sông lịch sử, dù vô lý, dù hờn căm, dù bất công thương hận. Mất nước nhà tan, nguời lính Miền Nam sống sót sau cuộc chiến, rã ngũ tan hàng đầu sông cuối bể, tha phương thì dần chết trong men đời cay đắng, còn tù ngục chịu cảnh nhục hờn.
<!>
Nhưng tất cả giờ cũng đã đi hết rồi, chỉ còn lại trên quê hương đói nghèo, là những mãnh đời thương phế, những người lính cũ, những hồn ma cô quạnh sống với quá khứ liệt oanh, qua những vết thương đời không hề hối hận:
“Di tản khó, sâu dòi lúc nhúc
trong vết thương người bạn nín rên
người chết mấy ngày không lấy xác
thây sình mặt nát, lạch mương tanh…”
(Tô Thuỳ Yên)
Ta thán phục và hãnh diện biết bao, khi đọc được những trang hùng sử. Sẽ vui cười hớn hở cùng với tiền nhân qua những lần đuổi Hán phá Mông trên Bạch Đằng giang, đốt tàu Pháp tại Vàm Nhật Tảọ Không biết những trang quân vương dũng tướng thời xưa, hành xử thế nào mà muôn lòng như một, khiến cho người trong nước, già trẻ lớn bé, đều nguyện một lòng giết giặc cứu nước tại Hội Nghi Diên Hồng. Sau này mới hiểu được, thì ra do “tinh thần trách nhiệm, cũng như bổn phân” của kẽ sĩ thời tao loạn. Hay đúng hơn, đó là “ đức tính cao quí “ của thanh niên-sĩ phu, dù họ chỉ là những người bình dân ít học.
“Tôi không là tôi nữa
từ khi được xuất ngũ
có quạ đen đậu trên đầu
có bao nhiêu đợi chờ đau khổ..”
(Tôi người PB-thơ Phong Nhân Hoài)
Thanh niên Việt Nam thời nào cũng vậy, tất cả đều đặt trách nhiệm làm trai trên hết, nên chúng ta ngày nay mới còn có đất nước, để mà vui sướng, đau khổ. Hỡi ơi, có làm lính mới hiểu phận bèo của lính, có là thương phế binh sau khi được xuât ngũ, mới thấm thía được nỗi buồn của một kẻ tàn tật, mất tất cả ngoài người mẹ già, từ quê xa đang trông đợi con trở về. Thê thảm quá cũng như đau đớn tột cùng, kiếp lính chiều tàn là thế. Sự thật là vậy, có khi còn đau đớn trăm chiềụ Ai đã từng thấy cảnh “vợ lính hay người yêu”, chỉ một lần vào thăm người thân nơi quân y viện, rồi chẳng bao giờ quay lại, ngoài những giọt lệ cá sấu, vô tình còn vương vãi đó đâỵ Ai có một lần ngược xuôi trên các nẻo đường thiên lý, tình cờ hội ngộ những chàng trai tàn tật còn rất trẻ, những người mù, què, mặt mày in đầy thương-sẹo bởi đạn bom, đang lần mò ngửa tay chờ bố thí của mọi ngườị Họ là lính chiến của một thời oanh liệt, là thương phế binh QLVNCH đó, họ đau khổ mang thương tật không phải do bẩm sinh, mà vì đời, vì người gánh chịu nổi trầm luân thật tội nghiệp.
Theo tài liệu đọc được, ta biết Nha Cựu Chiến Binh (NCCB) và Nạn Nhân Chiến Cuộc (NNCC) trực thuộc Bộ Quốc Phòng. Lúc đầu, Nha này là một Bộ được thành lập vào tháng 8-1952, có một An Dưỡng Đường dành cho Thương Phế Binh. Sau đó Bộ này bị hủy bỏ, nên tất cả các vấn đề liên quan tới Cưu chiến binh đều giao cho “Nha Tổng Thư Ký, Cưu Chiến Sĩ và Phế Binh “ trực thuộc Bộ Y Tế. Thời VNCH, qua một Đại Hội Cựu Chiến Sĩ toàn quốc tại Toà Đô Sảnh Sàigòn. Ngày 29-5-1955, Nha Tổng Giám Đốc Cựu Chiến Binh và NNCC đưọc thành lập, trụ sở ở đường Đoàn Thị Điểm. Sau Tết Mậu Thân 1968, Nha được cải thành Bộ, gồm các Nha Sở Trung Ương và các Ty trực thuộc.
Đầu năm 1969, một biến cố lớn đã xảy ra tai thị xã Nha Trang (Khánh Hòa). Đó là vụ Y Sĩ Đại Uý Hà Thúc Nhơn, Trưởng trại 12 “Tai, mắt, mũi, họng” thuộc Quân Y Viện Nguyễn Huệ, chỉ vì dám tố cáo Chỉ Huy Trưởng QYV là Thiếu Tá Phùng Quốc Anh, với sĩ quan hành chánh Đặng Mai toa rập tham nhũng, ăn xén tiền ẩm thực của thương bệnh binh, cũng như mờ ám trong các vụ cứu xét, phân loại trợ cấp, miễn dịch. Đại Uý Nhơn đã cầm đầu các bệnh binh nổi loạn, nên bị Tỉnh trưởng Khánh Hòa lúc đó là Đại Tá Lý Bá Phẩm, nguyên Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 43 Biệt Lập, ra lệnh cho lực lượng Địa Phương Quân bắn trọng thương và đã chết khi chở vào cấp cứu tại Cam Ranh.
Ngày đưa tang người xấu số, cũng là thời điểm Phế Binh Khánh Hòa đứng dậy đòi quyền sống. Taị Sàigòn, Trung Úy mù BDQ Đổ văn Lai cùng một số phế binh nặng, đang dưỡng thương tại Trung Tâm Chỉnh Hình, đường Bà Huyện Thanh Quan, cũng biểu tình, cắm dùi khắp Đô Thành, đòi Chính Phủ phải cứu xét lại quyền lợi của họ, trước vật giá leo thang đắc đỏ, do sự hiện diện của Mỹ và Đồng Minh, vung đô la xanh đỏ qua cửa sổ như khói thuốc. Phong trào tranh đấu bùng nổ khắp nước, làm cho chính quyền trung ương cũng như tại các tỉnh bối rối, vì không thể dùng bạo lực để chèn ép hay khóa miệng, bởi phế binh cũng là lính nên ai nỡ xuống taỵ
.Rồi Tổng Hội Thương Phế Binh ra đời tại Sàigòn, bầu PB Nguyễn Đinh làm Hội Trưởng, PB Nguyễn Bính Thịnh tức nhà văn An Khê, làm phó và PB Đinh Trung Thu tổng thư ký. Ngoài ra còn có một Hôi Ái Hữu Thương Phế Binh, do cựu Thiếu Tá Nguyễn Văn Hàng thành lập.
Thời Đệ Nhị Cộng Hòa (1967-1975), nếu TT Thiệu có chính sách “Người cầy có ruộng”, thì Phó TT Nguyễn Cao Kỳ cũng chủ trương “Phế Binh có nhà”. Nói chung bắt đầu năm 1969 trở về sau, quyền lợi của Thương Phế Binh (TPB), cô nhi quả phụ càng ngay càng được cải tổ, chăm sóc và dễ thở hơn trước. Nạn chèn ép, dìm sổ trợ cấp để làm tiền cũng chấm dứt kể từ năm 1972, chính phủ cho thành lập Ty Cựu Chiến Binh tai các Tỉnh, có quyền hạn rất rộng rải, ngoại trừ sổ trợ cấp đầu tiên được ký cấp từ Bộ. Cũng từ đó, người cô nhi, quả phụ và thương phế VNCH, được sống an nhàn hơn buổi trước, với các quyền lợi thiết thực, tương xứng, từ trợ cấp, xin việc làm, y tế, cho tới các kỳ thi, tất cả đều ưu tiên cho họ.
Rồi thì hàng loạt Làng Phế Binh lần lượt ra đời tại quận cũng như thị xã. Riêng những phế binh đã có nhà không muốn vào Làng, được trợ cấp một ngân khoản 60.000 đồng. Tất cả các làng Phế Binh, đều bị VC cưỡng đoạt sau ngày 30-4-1975.
Là người bình thường, sống trong thời loạn đã phải khốn khổ vì miếng cơm manh áo, huống chi phận lính nghèo lãnh đồng lương chết đói, vậy mà còn bị trí thức nguyền rủa “là lính đánh thuê cho Mỹ”:
. “Giọt mưa trên lá, nước mắt mặn mà
thiếu nữ mừng vì tan chiến tranh chồng về
mẹ lần mò, ra trước ao, nắm áo người xưa, ngỡ trong giấc mơ
tiếc rằng ta, đôi mắt đã lòa vì quá đợi chờ…”
(Phạm Duy)
Cuộc chiến chưa dứt và vẫn còn khốc liệt, nhưng người xưa nay đã thành tàn phế, vô dụng, lê lết đời tan xuân héo, lần mò trở về làng xưa, với những kẻ thân yêu, mong chút tình thân đùm bọc.
Ai có cảm thông chăng người lính mù trẻ tuổi vì đạn B40, lần mò trên chiếc xe lăn, quanh bến phà, bến xe, miệng hát tay đờn kiếm sống? Có thương không những người lính trận, bán thân bất toại, lê lết khắp các nẻo đường phố thị, để bán vé số, sách báo, đắp đổi qua ngày. Và còn nữa, còn trăm ngàn thảm kịch của tuổi thanh niên thời loạn, chân gỗ tay nạng, mắt mũi vàng khè, khô nám, luôn đau đớn bởi những hậu chứng sau khi giải phẫu. Nhưng họ vẫn lao động để sinh tồn, đi biển, làm nông, lết lê trên ruộng trên sóng, đội nắng dầm mưạ Kiếp sống phận bèo của những mảnh đời phế binh là thế đó, nên phải chiếm đất cắm dùi, cũng là chuyện bình thường.
Hai mươi năm chinh chiến (1955-1975), dù có gọi bằng một thứ danh từ gì chăng nữa, thì xác của nam nữ thanh niên hai miền đất nước cũng đã chất cao như núi, máu chảy thành sông. Rốt cục chỉ có cái vỏ độc lập, hòa bình, tự do, thống nhất. Người cả nước đói vẫn đói và đời sống càng bị tù hãm tứ phiá, bởi cổ được mang thêm nhiều thứ gông, cả cộng sản, lẫn tư bản và đảng cầm quyền. Nhưng thê thiết nhất vẫn là những người phế binh VNCH. Ngày xưa lúc chế độ cũ còn được nói, được hưởng đủ thứ quyền lợi… thế nhưng họ vẫn sống bèo bọt, cực nghèọ Sau biến cố 30-4-1975, Việt Cộng vào tóm thu tất cả, thêm vào đó là chuyện trả thù. Lính sống thì đi tù, lính chết thì cầy mộ, còn lính què đui tàn phế, thì bị xua đuổi ra khỏi các quân y viện, làng phế binh và thậm chí bị đuổi ra khỏi ngôi nhà của mình.
19-4-1975 tại Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch, Phan Thiết.
30-4-1975 tại Tổng Y Viện Cộng Hòa-Sài Gòn.
Thảm họa gì đã đến với các thương bệnh binh còn đang điều trị, khi giặc về? Có ai cầm được nước mắt trong cảnh đoạn trường máu lệ, khi từng đoàn thương binh, nối gót dắt dìu nhau ra cổng. Người sáng dắt kẻ mù, kẻ bị thương nhẹ cõng người trọng bệnh. Khắp lối ra vào, máu me vương vãi với nước mắt oanh tròng của những nạn nhân bị bỏ rơi, không đại bàng, chẳng đồng đội và cũng hết hậu phương. Một số chết vì vết thương quá nặng, số khác sống trong cảnh tàn phế vĩnh viễn vì vết thương không được tiếp tục điều trị. Đời thê thảm quá, cũng may lúc đó quanh họ, còn có những cô gái bán phấn buôn hương ở Ngã ba Chú Lá, Gò Vấp, những người xích lô ba gác…”, những mảnh đời tàn úa lăn lóc bên lề xã hội, kẻ cho tiền, người giúp công, đưa hết những bệnh nhân xa xứ, tới bến xe về quê sống tiếp kiếp lính bèọ
Cuộc đổi đời nay đã xa lắc nhưng mỗi lần nhớ lại cứ tưởng mới hôm qua. Ba mươi tám năm rồi ta còn sống được, để nói chuyện văn chương chữ nghĩa trên đất người, đã là điều đại phúc. Trong lúc đó nơi quê nhà ngàn trùng xa cách, những người phế binh năm nào, không biết nay ai còn ai mất. Nhưng chắc chắn một điều, dù họ có sống hay đã chết, thì hận nhục, thương đau cũng đâu có khác gì. Bởi tất cả như bóng ma trơi, những mảng đời nghèo hèn tăm tốị Đâu có ai muốn nhắc tới những thân phận hẳm hiu trong vòng đời tục lụy, kể cả “những cấp chỉ huy cũ”, hiện đổi đời giàu sang, mồm to miệng thét ở hải ngoạị
Xin hãy thương lấy ho, hãy cứu vớt họ đang trôi nổi trong ngục tù nghiệt ngả. Thương Phế Binh cũng là một phần của tập thể cựu quân nhân hải ngoại. Hãy rớt một chút ân thừa cho những thây người còn sống sót trong bể hận trầm luân. Hãy cho họ một chút tình thương trong cơn hấp hốị Hãy dành cho họ một chút không gian nho nhỏ trong căn nhà Việt Nam to lớn đã được các cộng đồng tị nạn hoàn thành trên khắp các nẻo đường viễn xứ, để họ an tâm chờ đợi luân hồi và một vòng hoa tặng người chiến sĩ ca khúc khải hoàn, mà chắc chắn phải có trong thời gian gần.
Ngày xưa người chinh phụ, giữ sạch tâm hồn và băng trinh tuổi ngọc, để đợi chồng ngoài quan ải, hy vọng cuộc chiến mau tàn, để phu phụ trùng phùng, kết lại mối duyên xưa:
“ Xin vì chàng xếp bào cởi giáp
xin vì chàng giũ lớp phong sương
vì chàng tay chuốc chén vàng
vì chàng điểm phấn, đeo hương não nùng
liên ẩm, đối ẩm, đòi phen
cùng chàng lại kết, mối duyên đến già …”
(Chinh Phụ Ngâm)
Nhưng người chinh phụ VNCH lại không có cái diễm phúc đó, vì khi quê hương vừa ngưng tiếng súng, lập tức từ quan quân cho tới sĩ thứ, những người bại trận, lớp lớp vào tù. Lính chết đã rục tử thi vẫn bị dầy mồ, lính bị thương tàn phế bị xua đuổi ra khỏi cuôc sống. Thử hỏi trên thế gian này, có kiếp người nào, đáng thương hơn người lính VNCH?
“Dâu binh lửa nước non như cũ
kẻ hành nhân qua đó chạnh thương”
(Chinh Phụ Ngâm)
Cuộc đời thanh niên thời loạn ly, rốt cục chỉ còn lại nổi buồn thiên cổ, xin hãy nâng ly rượu sầu lên môi mà nhớ.
Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Mường Giang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét