Buổi sáng nay, tôi nhớ lại mấy
câu thơ mình đã làm hồi 30 năm trước, lúc bắt đầu bước vào tuổi “ngũ thập tri
thiên mệnh” và đang sinh sống tại Sài gòn. Xin được ghi lại đày đủ bài thơ đó
như sau :
Mùa Thu Nhớ Bạn
Mùa Thu chợt đến - lòng
man mác
Nhớ Hà nội xưa - thuở thiếu
thời
Bạn bè năm ấy – giờ đâu nhỉ?
Kẻ vắng người còn – dạ khó
nguôi!
Sài gòn 1983.
Tôi sinh trưởng tại một làng
quê trong tỉnh Nam Định cách xa Hà nội chừng trên 100 cây số thôi. Vì thế mà
ngay từ trước năm 1945 trong làng đã có nhiều bà con đi làm hay định cư ở ngay
tại đất Hà thành hoa lệ này. Khi về thăm
viếng bà con trong làng, thì những người này thường hay kể chuyện về cuộc sống
văn minh tiến bộ của người dân tại Hà nội. Và bọn trẻ con chúng tôi luôn luôn
thích thú kể lại cho nhau nghe những câu chuyện ngộ nghĩnh đó về phong cảnh và
con người của cái thành phố ngàn năm văn vật này.
Rồi đến năm 1952 lúc đã bước
vào tuổi 18, thì tôi được gia đình gửi ra theo học tại Trường Chu Văn An ở Hà nội.
Đã từng trải qua cảnh chiến tranh tàn phá kinh hòang ác liệt ở miền quê, tôi thật
chóang ngợp với tình hình an ninh trật tự và sung túc thịnh vượng của thành phố
là thủ phủ của miền Bắc Việt nam vào thời gian đó. Và chỉ vài ba tháng sau, là
tôi đã có thể thích nghi hòa nhập vào với cuộc sống chung với các bạn đồng
trang lứa với mình nơi thành phố xinh đẹp dễ thương, thanh lịch và đày dãy những
di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh này. Xin được ghi chi tiết hơn về cuộc sống
thời trai trẻ của thế hệ chúng tôi ở Hà nội thời kỳ trước năm 1954.
I – Cái thời vui sống ở Hà nội
năm xưa ấy.
Với tính vô tư năng động của
tuổi trẻ, lớp bạn học chúng tôi lao mình vào chuyện học tập để bù đắp lại quãng
thời gian bị mất trong những năm phải di tản chạy lọan trước đây. Mà thành phố
Hà nội lúc nào cũng hào phóng cung ứng cho bọn trẻ chúng tôi những cơ hội giải
trí thư giãn thỏai mái - sau những giờ phút phải tập trung suy nghĩ, học tập miệt
mài căng thẳng.
Một địa điểm chúng tôi thường lui tới để gặp gỡ
nhau và nhìn ngắm phố phường, đó là Hồ Hòan Kiếm ở trung tâm thành phố. Nơi di
tích lịch sử với truyền thuyết con rùa mang lưỡi gươm trả về cho nhà vua Lê Lợi
(The Lake of the Returned Sword), thì lúc nào cũng tấp nập xe cộ qua lại và người
đi bộ vòng quanh ven hồ. Và vào những ngày mùa hè oi bức chúng tôi còn thường rủ
nhau đi tắm bơi lội tại khu hồ Quảng Bá Nghi Tàm sát với Hồ Tây.
Gặp ngày trời đẹp, chúng tôi còn rủ nhau dành
cả một buổi chiều để đạp xe chạy vòng quanh khu vực Hồ Tây dài đến trên 20 cây
số - để hít thở không khí trong lành và thưởng thức những vẻ đẹp nơi đồng quê
êm ả thanh bình tại vùng ngọai thành Hà nội. Ở vào tuổi mười tám đôi mươi,
chúng tôi thật lòng say mê hồn nhiên vui sống với “cái tuổi thanh xuân thơ mộng
ấy”.
Chúng tôi còn rủ nhau đi coi những phim từ
Hollywood của Mỹ thật hấp dẫn với những tài tử gạo cội, màu sắc âm thanh tòan hảo.
Đặc biệt phim “Gone with the wind” (Cuốn theo chiều gió) với cặp diễn viên
Clark Gable – Vivien Leigh trổ tài diễn xuất thật tuyệt vời.
1 / Mùa thu Hà nội.
Và đặc biệt là cảnh vật nơi đất
kinh kỳ vào mùa thu, thì thật đày vẻ quyến rũ – quả thật nó đã gây ấn tượng thật
sâu đậm trong tâm hồn nhạy cảm của lớp thanh thiếu niên chúng tôi. Đó là phương
diện khách quan của khung cảnh địa lý nhân văn. Còn về mặt tâm lý chủ quan, thì
chúng tôi chịu ảnh hưởng nhiều bởi thơ văn và âm nhạc thời tiền chiến - với những
bài thơ bất hủ của cụ Nguyễn Khuyến như “Thu ẩm”, “Thu điếu”, Thu vịnh” v.v...,
hay các bài nhạc của Đặng Thế Phong như “Giọt Mưa Thu”, “Con Thuyền Không Bến”.
Và cả của những bài văn, bài thơ trong kho tàng văn chương của Pháp nữa, điển
hình như bài “Chanson d'automne” (Ca khúc Mùa Thu) tuyệt vời của Paul Verlaine.
Tôi thật vui thích sảng khóai mỗi khi ngâm nga những câu thơ tuyệt đẹp trong
Truyện Kiều của cụ Tiên Điền Nguyễn Du, cụ thể như câu : “Rừng phong thu đã
nhuốm màu quan san”.
Vì thế, mà các văn nghệ sĩ ấy đã giúp cho
chúng tôi biết thưởng ngọan những vẻ đẹp ngây ngất của mùa thu một cách cực kỳ
linh động viên mãn. Điều này rõ rệt đã góp phần rất quan trọng để làm tăng thêm
phẩm chất trong đời sống tình cảm của thế hệ thanh niên chúng tôi (quality of
life) - mặc dầu hồi đó cuộc chiến tranh đang ở vào giai đọan ác liệt ngay tại
các miền quê không xa Hà nội bao nhiêu.
2 / Chuyện học hành, thi cử hồi
ấy.
Tại trường Chu Văn An là một
cơ sở giáo dục có danh tiếng vào bậc nhất ở miền Bắc từ lâu, thì tôi được sát
cánh với nhiều bạn học thật thông minh xuất sắc – nhờ vậy mà mình cũng phải cố
gắng để mà theo kịp với chúng bạn. Hồi đó, các sách giáo khoa bằng tiếng Việt vẫn
còn thiếu, nên chúng tôi phải học bài trong các sách viết bằng tiếng Pháp với lối
trình bày in ấn thật rõ ràng, sáng sủa đẹp mắt. Và nói chung, thì các thầy giáo
đều rất tận tâm trong việc sọan bài giảng và hết lòng hướng dẫn cho chúng tôi
trong việc học tập để đạt được kết quả tốt trong các kỳ thi kết thúc hai năm cuối
bậc Trung học.
Và chừng vài tháng trước kỳ
thi văn bằng Tú Tài I vào năm 1953 cũng như Tú Tài II vào năm 1954, chúng tôi
thường họp thành từng nhóm 3 - 4 người để cùng học ôn bài chung với nhau. Nhờ vậy,
mà trong lớp có đến gần một nửa học sinh trường công lập đều vượt qua được cửa ải
kỳ thi Tú Tài I - mà hồi đó được coi là rất gay go hóc búa. Trong khi đó, thì số
thí sinh từ các lớp tư thục lại đậu rất ít, có lớp không quá 10% số học sinh
thi đậu. Vì số học sinh thi đậu không nhiều, nên danh sách các học sinh trúng
tuyển đều được công bố trên các tờ báo ở Hà nội nữa, để bà con tiện bề theo
dõi.
II – Bạn bè năm ấy – giờ đây
ai còn, ai mất?
Có thể nói trong mấy năm sinh
sống và học hành tại Hà nội hồi đó, thì tôi có duyên quen biết gắn bó thân thiết
được với cả trăm bạn đồng môn, bạn cùng lứa tuổi với mình. Chúng tôi sống gần
gũi nhau, học tập sát cánh với nhau, cùng vui đùa bên nhau – và tất cả cùng có
chung những ước mơ, hòai bão về một tương lai tươi sáng cho bản thân mỗi người,
cũng như niềm hy vọng tốt đẹp cho đất nước và dân tộc Việt nam thân yêu của
mình.
Thế nhưng do Hiệp định Geneva
quy định việc chia cắt phân đôi đất nước, mà anh em chúng tôi lại phải rời xa
nhau, kẻ thì di cư vào miền Nam, người thì theo với gia đình ở lại miền Bắc.
Cho đến năm 2014 này, thì chúng tôi đã chia tay sống xa cách nhau đúng 60 năm rồi.
Xin ghi lại danh tánh một số
các bạn đã ra đi và các bạn mà tôi đã có dịp gặp lại trong thời gian gần đây.
1 / Những người bạn đã vĩnh
viễn ra đi.
Ít nhất phải có đến trên cả
chục bạn đã ra đi từ giã cõi đời, mỗi người trong một hòan cảnh khác nhau. Xin
liệt kê như sau.
*Trong số các bạn ở lại miền
Bắc sau năm 1954, thì gần đây tôi biết rõ các bạn này đã từ giã cõi đời : Các
anh Phạm Xuân Nhàn, Đặng Mộng Lân, Đặng Công Tọai.
*Số bạn di cư vào miền Nam và
đã mất ở đây : Các anh Đỗ Vinh, Nguyễn Bá Khánh, Nguyễn Hồ Quỳ, Nguyễn Văn Quí.
*Số bạn mất ở California :
Các anh Vũ Ngô Luyện, Nguyễn Ngọc Đĩnh, Nguyễn Hữu Tuệ, Nguyễn Duy Hy, Nguyễn
Ngọc Phan, Nguyễn Tri Phương, Đoàn Hữu Khánh.
2 / Những người bạn vẫn còn
liên lạc được gần đây.
A - Khá nhiều bạn hiện định
cư trên đất Mỹ, cụ thể như :
* Tại
California : Các anh Trịnh Đình Cương, Trần Quang Hải, Đỗ Phan Ngọc, Nguyễn Trọng
Hiền, Vũ Ngọc Óanh, Nguyễn Ngọc Thụy, Ngô Văn Quang, Trần Văn Điền, Lưu Trung
Khảo, Nguyễn Quang Hạ.
ñ
Tại Texas : Các
anh Vũ Tiến Thông, Đặng Văn Đức, Vũ Hữu Bao, Đỗ Huy Hòang.
ñ
Tại Washington DC
: Các anh Hòang Song Liêm, Ngô Đình Thuấn, Bùi Hữu Thư.
ñ
Tại New Jersey :
Anh Chu Văn Hồ.
ñ
Tại Florida : Anh
Vũ Ngọc Đại
B - Tại Paris Pháp quốc, thì
tôi đã gặp lại các bạn : Đỗ Đăng Di, Võ Thế Hào, Bạch Ly Từ, Vũ Dương Tuyền,
Phạm Xuân Yêm.
C – Tại Montréal Canada, thì
có các bạn : Trần Văn Kim, Đinh Bảo Lĩnh, Bùi Thiệu Tường.
D – Tại Việt Nam, thì ở Hà nội
có các bạn : Đỗ Xuân Lôi, Ngô Văn Trọng, Nguyễn Phúc Giác Hải.
* Ở Sài gòn, thì có Phạm Hòai
Đức, Lê Đức Cửu và đặc biệt có ba anh là Linh mục Công giáo : Hòang Sĩ Quí,
Nguyễn Đức Thiệp, Đoàn Phú Xuân.
III – Để tóm lược lại.
Trên 60 năm đã qua, bao nhiêu
chuyện đổi thay với những hệ lụy buồn vui đã xảy ra trên đất nước ta. Mà khủng
khiếp nhất là những đau thương tang tóc chồng chất gây ra bởi cuộc chiến tranh
huynh đệ tương tàn – khiến làm thiệt mạng đến cả mấy triệu con người - mà tất cả
đều là bà con ruột thịt thân yêu của hết thảy chúng ta. Rồi tiếp theo đó lại là
một chế độ độc tài đảng trị hủ lậu và khắc nghiệt nhất trong lịch sử trên 4,000
năm của đất nước ta.
Mặc dầu vậy, cái tình cảm hồn
nhiên trong sáng, cái sự liên kết thân thương gắn bó - giữa các bạn học năm xưa
tại Hà nội lúc chúng tôi mới ở vào cái tuổi mười tám đôi mươi ấy - thì không
bao giờ lại có thể bị suy xuyển phai lạt đi được. Vào năm 2014 lúc này, chúng
tôi đều đã bước qua tuổi 80 cả rồi và cũng đều đủ từng trải để mà biết an phận
vui sống cho đến hết những ngày cuối đời của mình.
*Bài viết ngắn ngủi này nhằm
gợi lại chút ít kỷ niệm của thế hệ bọn trai trẻ chúng tôi đã có duyên gặp gỡ,
sinh sống và học tập chung với nhau nơi thành phố lịch sử thân yêu hồi những
năm đầu của thập niên 1950.
Để kết thúc, ngòai bài thơ “Mùa
Thu Nhớ Bạn” đã ghi ở phía trên, tôi xin được gửi thêm đến tất cả các bạn
hai câu thơ sau đây nữa :
“Cái tuổi thanh xuân thơ mộng
ấy
Hãy còn vang vọng mãi trong ta.”
Và cũng xin được gửi lời thăm
hỏi chân tình thân ái đến với tất cả các bạn.
Xin được bày tỏ nỗi niềm
thương tiếc quí mến đối với tất cả các bạn đã vĩnh viễn ra đi.
Xin cầu chúc các bạn cùng gia
quyến luôn được mọi sự An Lành./
Thành phố Costa Mesa,
California Tháng Mười 2014
Đoàn Thanh Liêm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét