By Chientruongvietnam
Đã rất nhiều năm sau cuộc chiến tranh Đông Dương lần 1 chống Pháp và lần 2 chống Mỹ, nhưng đến hiện tại vẫn có rất ít tư liệu về sự can thiệp của quân đội Trung Quốc trong chiến tranh Việt Nam – Chinese Army in the Vietnam War Cuộc chiến Đông Dương lần 1 từ năm 1945 đến năm 1954 và cuộc chiến Đông Dương lần 2 từ năm 1954 đến năm 1975, Trung Quốc đã hỗ trợ rất nhiều cho phía Bắc Việt. Tuy nhiên, cho đến nay, có rất ít thông tin được đưa ra từ phía Trung Quốc lẫn Việt Nam. Các tài liệu phương Tây cũng rất ít do không thể tiết cận thông tin chính xác.
<!>
Website Cục Kinh Tế của Quân Đội Việt Nam có địa chỉ https://ckt.gov.vn/ ngày 23/3/2022 đã đăng tải bài viết “Trung Quốc giúp Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước”. Trong đó có đoạn như sau :
“Ngày 24/1/1965, hai nước ký Hiệp định bổ sung về việc Trung Quốc giúp Việt Nam các trang bị quân sự vật tư hậu cần chủ yếu. Ngày 30/5/1965, hai nước ký Hiệp định về việc Trung Quốc giúp Việt Nam nâng cấp, mở rộng, làm mới 12 tuyến đường ô tô dài 1.782 km (trong đó làm mới 772 km, cải tạo 1.010 km) nhằm tăng khả năng vận chuyển phục vụ kinh tế – xã hội và tác chiến. Theo đó, Trung Quốc đưa sang Việt Nam 4 sư đoàn, tổ chức thành 22 trung đoàn (công binh, đường sắt, tên lửa, cao xạ, hậu cần…) với danh nghĩa Đội công trình làm đường của Bộ Giao thông Trung Quốc để tổ chức thi công. Chi phí làm đường, ngoài các khoản chi mua vật liệu tại chỗ, thuê nhân công phụ và giải phóng mặt bằng do Việt Nam chịu, số còn lại Trung Quốc viện trợ không hoàn lại. Bộ đội Trung Quốc còn giúp ta xây dựng 15 tuyến cáp dưới biển vùng Đông Bắc (ngày 30/8/1966 bàn giao). Ngày 20/7/1965, hai sư đoàn pháo phòng không Trung Quốc sang giúp Việt Nam bảo vệ 2 trục đường sắt từ Đáp Cầu lên Hữu Nghị Quan và từ Tiên Kiên lên Lào Cai. Bộ đội Trung Quốc tham gia chiến đấu 1.659 trận, bắn rơi 126 máy bay Mỹ. Từ năm 1965 – 1968, có 346 chuyên gia và 310.011 bộ đội Trung Quốc sang giúp Việt Nam. Trên tinh thần tự lực chiến đấu, ngày 4/12/1968, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng chủ trương đưa bộ đội và chuyên gia nước ngoài đang công tác tại Việt Nam về nước; theo đó, tháng 1/1969 số chuyên gia và bộ đội Trung Quốc rút về nước. “
Năm 1989, hãng tin Reuter lần đầu tiên đăng tải tin tức cho biết “Trung Quốc thừa nhận từng có hơn 320.000 quân chiến đấu ở Việt Nam” – “China admited 320.000 troops fought in Vietnam”. Hãng tin này cũng trích dẫn nguồn bán chính thức từ cơ quan thông tấn Trung Quốc cho biết trong những năm 1960s, Trung Quốc đã đưa hơn 320.000 binh sĩ đến Việt Nam. Bên cạnh đó, Trung Quốc đã viện trợ hơn 20 tỉ Usd cho Hà Nội và đã có hơn 4.000 binh sĩ tử trận trong cuộc chiến Việt Nam
Trung Quốc thừa nhận từng có hơn 320.000 quân chiến đấu trong cuộc chiến Việt Nam - China admited 320.000 troops fought in Vietnam war
Trung Quốc thừa nhận từng có hơn 320.000 quân chiến đấu trong cuộc chiến Việt Nam – China admited 320.000 troops fought in Vietnam war
Một trong những tài liệu hiếm hoi đó là “Rồng trong rừng – Quân đội Trung Quốc trong chiến tranh Việt Nam” – “The dragon in jungle – the Chinese Army in the Vietnam War” của tác giả người Trung Quốc Lê Tiểu Bình – Li XiaoPing do Đại Học Oxford xuất bản. Đây có thể nói là tài liệu rất quý giá nói về Quân đội Trung Quốc trong chiến tranh Việt Nam – Chinese Army in the Vietnam War. Xin lược dịch cùng bạn đọc để khảo cứu
CUỘC CHIẾN CHỐNG MỸ CỦA TRUNG QUỐC
Đó là cuộc đoàn tụ khi 11 cựu binh Trung Quốc gặp nhau ở nhà của đại úy Zhao Shunfen ở Harbin – tỉnh Hắc Long Giang, Trung Quốc. Zhao cũng muốn tôi gặp các đồng chí của anh ấy . Họ đều là những người còn sống từ chiến tranh Việt Nam . Sau khi ăn bữa tối với nhau, họ cùng uống rượu, hát những bài hát nhạc lính từ những năm 1960s và ôn lại những kỷ niệm xưa
Từ năm 1965-1970, Trung Quốc đã gửi 320.000 lính đến Bắc Việt để hỗ trợ Bắc Việt chống Mỹ. Đầu những năm 1968, Trung Quốc cũng đã gửi 110.000 lính đến tham chiến ở Lào. Đại úy Zhao đã đến Việt Nam trong giai đoạn 1966-1967. Chức vụ của ông hạ sĩ của đơn vị pháo phòng không 37mm . Đơn vị ông thuộc Đại Đội 4, sư đoàn 31 pháo phòng không của Không Quân Trung Quốc – PLA Air Force (PLAAF)
Zhao và các đồng chí của ông đều không vui khi rời nhiệm vụ và về nhà trong những năm cuối 1960. Không có tiệc đón mừng, không có phần thưởng, tiền lương hưu, … Họ thậm chí không được phép nói đến những việc trải qua trong cuộc chiến vì đó đều là những nhiệm vụ bí mật. Chính phủ Trung Quốc lẫn Việt Nam đều phủ nhận mọi can thiệp của nước ngoài đối với phía Bắc Việt trong chiến tranh Việt Nam. Các quốc gia khác như Liên Xô cũng có thái độ tương tự khi luôn che đậy mọi sự tham chiến của binh sĩ Soviet trong cuộc chiến Việt Nam. Rất nhiều nhà sử học phương Tây đã tốn nhiều công sức để khảo cứu về sự can thiệt của các quốc gia Chủ Nghĩa Cộng Sản trong cuộc chiến Việt Nam nhưng đều không có bất cứ tư liệu nào hoặc có thể tiếp cận các nhân chứng để có thể lấy tư liệu
Trong quá khứ, các quốc gia thuộc Chủ Nghĩa Cộng Sản quốc tế đã hỗ trợ quân đội Bắc Việt ( NVA – PAVN – People’s Army of Vietnam ) cả về vũ khí, kỹ thuật, hậu cần, con người, … để giúp Hà Nội chống trả lại chiến dịch ném bom Sấm Rền – Rolling Thunder operation . Khối quốc gia này cũng giúp Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam – National Liberation Front (NLF, Những người theo Chủ Nghĩa Cộng Sản ở miền Nam, Viet Cong) . Các giúp đỡ này đã giúp cả miền Bắc và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam theo đuổi cuộc chiến tiêu hao và cuối cùng đánh bại chính quyền miền Nam Việt Nam
Trung Quốc và Liên Xô đã giúp Hà Nội trong một cuộc chiến kéo dài khiến Mỹ đã không thể đánh bại Hà Nội. Nhà sử học Jung Chang và Jon Halliday đã chỉ ra rằng : “Trung Quốc là hậu phương vững chắc đã giúp Hà Nội trong cuộc chiến kéo dài 25 năm để đánh bại Pháp và Mỹ “
Một lối tiếp cận trên phương diện quốc tế sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về một cuộc chiến dài nhất mà Mỹ từng tham gia
Các tài liệu gần đây đã cho thấy các mức độ mà phía Trung Quốc đã can thiệp trong cuộc chiến Việt Nam . Lần đầu tiên, một tài liệu bằng tiếng Anh đã cho thấy một cái nhìn tổng quan về sự tham chiến của quân đội Trung Quốc trong chiến tranh Việt Nam trong giai đoạn 1965-1973 . Tài liệu đã cung cấp về tầm nhìn và lối suy nghĩ của Bắc Kinh về việc ra quyết định, tổng động viên, chỉ huy, hợp tác tác chiến với Việt Nam và Liên Xô, xoay vòng lực lượng, phản ứng tác chiến, đánh giá hậu chiến, …
Tài liệu này cũng giải đáp những câu hỏi then chốt : Mục tiêu của Trung Quốc trong giai đoạn 1960s là gì ?. Trung Quốc đã lập kế hoạch tác chiến, thích nghi với cuộc chiến, tận dụng các ưu thế như thế nào ?. Tại sao Trung Quốc rút quân ra khỏi Việt Nam trước khi cuộc chiến Việt Nam kết thúc ?. Việc tham chiến ở Việt Nam đã tác động thế nào lên quá trình hiện đại hóa quân đội Trung Quốc ?
Là quốc gia có đường biên giới giáp với Bắc Việt, Trung Quốc không muốn Mỹ có sự ảnh hưởng ở chính quyền miền Nam Việt Nam ( chính phủ Việt Nam Cộng Hòa – Republic of Vietnam – RVN ). Họ cũng không muốn thấy sự sụp đổ của chính phủ Bắc Việt (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa – Democratic Republic of Vietnam, DRV ). Từ năm 1965-1970, Trung Quốc đã gửi quân đến Bắc Việt để can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến Việt Nam. Ngày 9/6/1965, đơn vị Trung Quốc đầu tiên đến Việt Nam . Đến tháng 3 năm 1966, Trung Quốc đã gửi 180.000 quân đến Việt Nam . Theo lời của Mao Trạch Đông – Mao Zedong – chủ tịch Trung Quốc , nhiệm vụ của Trung Quốc là “giúp Việt Nam và chống Mỹ”
Xem tiếp : Quân đội Trung Quốc trong chiến tranh Việt Nam – Chinese Army in the Vietnam War – P2
-------------------------------------------------------------------------
P2
Theo lời của Mao Trạch Đông – Mao Zedong – chủ tịch Trung Quốc , nhiệm vụ của Quân đội Trung Quốc trong chiến tranh Việt Nam – Chinese Army in the Vietnam War là “giúp Việt Nam và chống Mỹ”
Trong cuộc chiến Việt Nam, quân đội Trung Quốc đã phụ trách các đội pháo phòng không AAA, xây dựng và sửa chữa cầu đường, xây dựng các tuyến phòng thủ bờ biển, bảo vệ tuyến đường mòn Hồ Chí Minh, lắp ráp và bảo vệ các nhà máy, các đường ống dẫn dầu, …. Việc này cần huy động đến 23 sư đoàn và 95 trung đoàn độc lập
Ngày 18 tháng 9 năm 1968, đơn vị Trung Quốc đầu tiên đặt chân đến Lào bao gồm một số đơn vị phòng không AAA và các nhóm công binh với tổng quân số 26.000 quân. Trong 5 năm sau đó, Trung Quốc đã gửi thêm 5 sư đoàn bao gồm các đơn vị phòng không, xây dựng cầu đường, vận tải, các trạm thông tin, … trên dọc tuyến đường mòn Hồ Chí Minh
Việc Trung Quốc can thiệp vào chiến tranh Việt Nam, hỗ trợ và gửi quân vào miền Bắc Việt Nam, chống lại cuộc ném bom Sấm Rền và giúp củng cố chính quyền Hà Nội đã khiến Hà Nội yên tâm và liên tiếp gửi các sư đoàn chính quy vào tham chiến ở miền Nam Việt Nam
Mặc dù các nhà sử học về chiến tranh Việt Nam đề cập nhiều về việc Trung Quốc hỗ trợ Hà Nội trong việc tác chiến phòng không và xây dựng, sửa chữa cầu đường, cơ sở hạ tầng, … Tuy nhiên, chưa có ai có cơ hội tiếp cận các tài liệu để có có các số liệu chính xác về những đóng góp của Trung Quốc
Năm 1970, quân đội Trung Quốc bắt đầu rút quân khỏi Việt Nam. Đến tháng 8 năm 1973, khi binh sĩ Trung Quốc cuối cùng rời khỏi Việt Nam, đã có 1.715 binh sĩ Trung Quốc chết ở Việt Nam và hơn 6.400 người bị thương . Cùng lúc đó, có 269 người bị chết ở Lào và hơn 1.200 người bị thương . Các binh sĩ tử trận đều được chôn cất tại chổ và điều này gây trở ngại rất lớn cho gia đình các binh sĩ tử trận
Sau năm 1964, Trung Quốc gia tăng viện trợ cho miền Bắc Việt Nam. Từ năm 1965-1973, Trung Quốc đã viện trợ khoảng 60 tỉ NDT ~ 20 tỉ Usd bao gồm tên lửa phòng không SAM, đạn dược, trang thiết bị vận tải, liên lạc, xăng dầu, thuốc men, …
Vào năm 1967, tuy Liên Xô là quốc gia đứng đầu khối Soviet nhưng Trung Quốc lại là quốc gia hỗ trợ nhiều nhất khi chiếm đến 44.8% tổng viện trợ quốc tế cho chính quyền Hà Nội.
Từ năm 1965-1973, Trung Quốc cũng viện trợ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam bằng cách gửi hàng viện trợ thông qua tuyến đường mòn Hồ Chí Minh
Trong việc tiếp cận chiến tranh, đường lối của Trung Quốc khá giống Liên Xô và Việt Nam. Đó là đảng lãnh đạo,tuyên truyền chính trị, giáo dục lý tưởng , tổng động viên và giấu kín mọi hoạt động quân sự. Tuy nhiên, vẫn có sự khác biệt đó là lực lượng Nga ở Bắc Việt nghiêng về tâm lý, hỏa lực và sự cơ động. Còn Trung Quốc nghiêng về chiến lược phòng thủ chủ động. Còn Bắc Việt đẩy mạnh tác chiến du kích và chiến tranh tổng lực toàn dân
Sau khi thành lập quốc gia Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa năm 1949, Mao Trạch Đông đã tiến hành cải cách quân đội Trung Quốc PLA thành 2 thành phần : lực lượng phòng ngự – defensive force – nhằm đẩy lùi sự xâm lược nước ngoài trong cuộc chiến toàn cầu và lực lượng an ninh – security force – nhằm chống các mối đe dọa từ bên trong ảnh hưởng đến chế độ
Cuộc chiến Triều Tiên được xem là cơ hội để Trung Quốc thử nghiệm học thuyết mới về phòng thủ chủ động. Việc Trung Quốc tham chiến trong cuộc chiến Triều Tiên đã giúp Bắc Triều Tiên tránh sụp đổ và giữ được biên giới Trung Quốc – Triều Tiên
Chiến lược phòng thủ chủ động của Mao Trạch Đông được đánh giá như ngăn chận kẻ địch từ ngoài ngõ cũng được nhiều tướng lĩnh trong quân đội Trung Quốc đánh giá là lý do tham chiến của quân đội Trung Quốc trong chiến tranh Việt Nam – Chinese Army in the Vietnam War . Họ cho rằng đây cũng là sự sáng tạo của nhà quân sự nổi tiếng Tôn Tử – Sunzi : “Chiến thắng trong cuộc chiến phòng thủ là không cần chiến đấu với quân thù trên lãnh thổ của chúng ta”
Oct 4, 2025 24
So với học thuyết chiến tranh của phương Tây, đường lối tiếp cận cuộc chiến – Way of War (WOW) của Trung Quốc phức tạp hơn rất nhiều. Các học giả phương Tây như Peter Lorge, Kenneth Swope, Harold Tanner, William Thompson đều đánh giá rằng lịch sử quân sự Trung Quốc đều dựa trên nền tảng Nho Giáo . Nhưng cho đến nay, mọi thứ đều phải chờ đợi cho đến khi những tài liệu về Quân đội Trung Quốc trong chiến tranh Việt Nam được tiết lộ thì mới có thể có những phân tích sâu về học thuyết quân sự Trung Quốc
Việc tham chiến của quân đội Trung Quốc trong chiến tranh Việt Nam trong thời gian dài đã có tác động tiêu cực lẫn tích cực đến chính phủ Trung Quốc. Nó giúp ông Mao Trạch Đông đạt được mục tiêu chiến lược ở Châu Á đó là ngăn chận ảnh hưởng và tránh được cuộc chiến toàn diện với Mỹ . Những năm của thập niên 1960s đánh dấu những cột mốc quan trọng trong lịch sử Trung Quốc. Đó là cuộc Cách Mạng Văn Hóa Vĩ Đại – Great Proletarian Cultural Revolution (1966–1976) và Trung Quốc đã chứng kiến những năm đầy xáo trộn và bất ổn. Sự kiện này khiến Trung Quốc lãng phí 10 năm trong việc phát triển kinh tế lẫn hiện đại hóa quân đội Trung Quốc PLA
Kinh nghiệm tác chiến ngoài biên giới của quân đội Trung Quốc ở Việt Nam giai đoạn 1965-1973 và cuộc chiến Biên Giới 1979 – Sino-Vietnamese Border War đều được đánh giá là những giai đoạn khởi đầu của quá trình hiện đại hóa quân đội Trung Quốc
Từ những năm thập niên 1950s, quân đội Trung Quốc được đánh giá chỉ là quân đội đang trong quá trình học hỏi kinh nghiệm. Trong cuộc chiến Việt Nam, quân đội Trung Quốc chú trọng nhất đến quá trình phát triển, rèn luyện và đúc kết kinh nghiệm trong các cuộc đối đầu với quân đội Mỹ . Khi được tiếp cận kỹ năng tác chiến của Mỹ, các chỉ huy cấp cao của Trung Quốc đã nhấn mạnh đến yếu tố kỹ thuật, hỏa lực và rất nể phục trình độ kỹ thuật từ phía quân đội Mỹ. Chiến trường Việt Nam đã cung cấp cho Trung Quốc cơ hội tuyệt vời để kiểm tra mức độ chênh lệch về trình độ tác chiến, công nghệ vũ khí, … của Trung Quốc so với Mỹ và Liên Xô. Sau khi chứng kiến sự chênh lệch quá lớn, quân đội Trung Quốc đã từ bỏ những công nghệ vũ khí của thập niên 1950s – 1960s để bắt đầu chế tạo những vũ khí cho riêng Trung Quốc và ứng dụng công nghệ vũ khí thập niên 1970s. Chẳng hạn vào năm 1972, về hỏa lực phòng không, Trung Quốc có 4 sư đoàn tên lửa phòng không SAM và 18 sư đoàn pháo phòng không với hơn 10.000 khẩu pháo các loại trong đó có những khẩu pháo 85mm vừa được chế tạo được tích hợp radar điều khiển và có khả năng tác chiến trong mọi điều kiện thời tiết
Trong cuộc chiến Việt Nam, Trung Quốc đã đẩy mạnh việc nghiên cứu và chế tạo vũ khí hạt nhân. Vào mùa hè 1966, Trung Quốc đã thành lập Quân Đoàn Pháo Binh thứ 2 – Second Artillery Corp (SAC). Đây là đơn vị được trang bị vũ khí hạt nhân chiến thuật, tên lửa chiến thuật và chiến lược. Quân đội Trung Quốc đã đặt tên cho năm 1966 là “năm của Tên Lửa” và đề ra kế hoạch khởi động chương trình tàu ngầm hạt nhân, vệ tinh và hệ thống phòng thủ tên lửa. Tháng 6 năm 1967, Trung Quốc đã thử nghiệm bom khinh khí đầu tiên . Năm 1968, Trung Quốc bắt đầu phân bổ các trung đoàn thuộc Quân Đoàn Pháo Binh thứ 2 – Second Artillery Corp (SAC) thành các trung đoàn cụ thể như trung đoàn tầm ngắn, tầm trung, tầm xa và liên lục địa
Tag : Quân đội Trung Quốc trong chiến tranh Việt Nam – Chinese Army in the Vietnam War
-------------------------------------------------------------------------
P3
Quân đội Trung Quốc tham chiến trong chiến tranh Việt Nam – Chinese Army in the Vietnam War – nhằm đúc kết kinh nghiệm tác chiến, kiểm tra tính năng vũ khí, … nhằm rút ngắn khoảng cách so với quân đội Mỹ và Liên Xô
Vào những năm 1970s, Trung Quốc bắt đầu chế tạo và triển khai các tên lửa đạn đạo tầm ngắn – short-range ballistic missiles (SRBM), medium-range ballistic missiles (MRBM), và tên lửa tầm gần intermediate-range ballistic missiles (IRBM) . Đến những năm 1980s, Quân Đoàn Pháo Binh thứ 2 – Second Artillery Corp (SAC) của Trung Quốc đã trở thành đội quân hạt nhân có khả năng răn đe cả Mỹ và Liên Xô do các tên lửa của họ có khả năng tấn công cả 2 quốc gia này. Việc quân đội Trung Quốc tham chiến trong chiến tranh Việt Nam – Chinese Army in the Vietnam War trong thời gian dài đã thuyết phục giới lãnh đạo của Trung Quốc rằng họ cần duy trì một lực lượng quân đội vững mạnh trong thời kỳ chiến tranh Lạnh – Cold War để chống lại những thách thức từ bên ngoài, cạnh tranh ảnh hưởng với Liên Xô và Mỹ ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Kết quả là lực lượng quân đội Trung Quốc đã tăng vọt lên quân số 6 triệu người trong giai đoạn 1965-1973
Giới quân sự Trung Quốc đã thấy rõ cuộc chiến ở Việt Nam khác cuộc chiến Triều Tiên . Ở cuộc chiến Triều Tiên, phần lớn quân nhân Trung Quốc đều là giới nông dân và thiếu học thức. Trong cuộc chiến Việt Nam, giới chỉ huy Trung Quốc đã có cái nhìn khác hơn về xã hội, văn hóa và chính trị trong việc tuyển mộ binh sĩ, đào tạo và huấn luyện. Họ cũng chú trọng hơn về yếu tố kỹ thuật, quá trình huấn luyện, giáo dục chính trị, tuyên truyền về tư tưởng Mao Trạch Đông, .. tất cả nhằm cảm hóa một người lính PLA và họ sẽ được giáo huấn rằng họ không phải chỉ là một người lính bình thường mà còn là một thành phần trong xã hội
Trong khi đó, vấn đề quân đội Trung Quốc tham chiến trong chiến tranh Việt Nam đã hình thành một cuộc chiến ủy nhiệm khi Mỹ và Liên Xô không đối đầu trực tiếp mà thông qua vùng đệm với Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam Á. Trong cuộc chiến này, vai trò của Trung Quốc không chỉ là ngoài lề mà trong một số tình huống lại đóng vai trò trung tâm.
Sau khi thành lập nhà nước Trung Quốc năm 1949, mối quan hệ Trung Quốc – Liên Xô trở thành khối vững chắc trong thế giới Chủ Nghĩa Cộng Sản. Tuy nhiên, cuối những năm 1950 và đầu những năm 1960, mối quan hệ này ngày càng yếu dần . Từ những năm 1960-1973, cả Liên Xô và Trung Quốc đã đua nhau trong vấn đề viện trợ cho Bắc Việt để giành ảnh hưởng ở quốc gia Đông Nam Á này. Bên nào cũng tự cho rằng mình là quốc gia viện trợ cốt yếu cho Bắc Việt để chống lại Mỹ. Bắc Việt cho phép cả Liên Xô và Trung Quốc đưa binh sĩ vào lãnh thổ Bắc Việt càng làm sự ganh đua này càng thêm khốc liệt
Giai đoạn 1969-1971, Trung Quốc dần chuyển hướng đề phòng quân sự sang hướng Liên Xô do giới lãnh đạo Trung Quốc cho rằng Mỹ đang suy yếu do không thể chiến thắng ở miền Nam Việt Nam và đang gặp nhiều rắc rối ở các khu vực khác trên thế giới như phải đang hỗ trợ Israel chống các quốc gia Ả Rập ở Trung Đông
Từ năm 1965-1968, cuộc đối đầu giữa Liên Xô và Trung Quốc ở Bắc Việt ngày càng khiến mối thù địch giữa 2 quốc gia này càng gia tăng và dẫn đến cuộc chiến biên giới Trung Quốc – Liên Xô – Sino-Soviet border war năm 1969-1972 và sự kiện tổng thống Nixon viếng thăm Bắc Kinh năm 1972
Cuộc đối đầu giữa Mỹ và Liên Xô trong chiến tranh Lạnh là cuộc đối đầu của thế giới Lưỡng Cực nhưng Trung Quốc đã nổi lên như 1 lá bài chiến lược khiến Mỹ và Liên Xô tranh giành đã dần biến thế giới thành Đa Cực . Vai trò Trung Quốc đã ngày càng trở nên quan trọng dẫn đến việc bình thường hóa quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc trong năm 1979 đã khiến cán cân quân sự dần dịch chuyển ngày càng sâu sắc. Giới lãnh đạo Mỹ đã có thể yên tâm dịch chuyển sự chú ý sang phía Liên Xô nhiều hơn. Trong khi đó, Liên Xô phải căng sức ra phòng ngừa cả phía Mỹ, Châu Âu và giờ thêm Trung Quốc khiến tiềm lực ngày càng suy yếu. Điều này báo hiệu sự kết thúc của chiến tranh Lạnh
Trong cuộc chiến Việt Nam, quân đội Trung Quốc tham chiến với vai trò là một đội quân yếu nhưng vẫn có khả năng chống trả quân đội Mỹ hùng mạnh trong cuộc chiến Triều Tiên . Lực lượng Cộng Sản ở Việt Nam đã áp dụng chiến thuật du kích bằng cách tấn công bất ngờ, phục kích, sử dụng địa đạo, .. và luôn né tránh những cuộc đối đầu trực tiếp nhằm không bị hỏa lực dữ dội của Mỹ áp đảo . Mặc dù vậy, Hà Nội không hoàn toàn hài lòng với Trung Quốc, họ muốn chủ động hơn trên chiến trường chứ không chỉ để nhằm mục đích sống sót. Hà Nội muốn có những vũ khí và kỹ thuật tiên tiến mà Trung Quốc không thể cung cấp
Từ năm 1965, Liên Xô đã cung cấp cho Việt Nam những vũ khí tiên tiến và yếu tố kỹ thuật vũ khí đã giúp Liên Xô vượt hẳn Trung Quốc về tầm ảnh hưởng. Chẳng hạn Trung Quốc không thể có vũ khí nào để giúp Bắc Việt bắn hạ máy bay B-52. Do đó, từ năm 1968, Hà Nội đã dần ngã về phía Liên Xô và binh sĩ Bắc Việt ngày càng quen dần với vũ khí Liên Xô
Những thay đổi trên cục diện chiến lược thế giới đã dần khiến Trung Quốc bắt đầu rút quân khỏi Việt Nam vào năm 1970. Những mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Liên Xô khiến Trung Quốc quay sang tăng cường quan hệ với Mỹ. Bắc Việt ngày càng thắt chặt quan hệ với Moscow . Sau năm 1970, Trung Quốc giảm mạnh viện trợ cho Bắc Việt và Liên Xô phải gia tăng viện trợ cho Bắc việt để bù đắp phần giảm sút từ Trung Quốc
Sau khi Mỹ rút khỏi Việt Nam năm 1973, Liên Xô và Trung Quốc đều vẫn duy trì sự can thiệp vào cuộc chiến Việt Nam. Năm 1974, Hải Quân Trung Quốc – PLA Navy (PLAN) đã giao tranh với Hải Quân VNCH ở quần đảo Hoàng Sa – Paracel Islands và quần đảo Trường Sa – Spratly Islands trên biển Đông và chiếm 1 số đảo nhỏ thuộc 2 quần đảo này. Hai khu vực này tiếp giáp vùng bờ biển Đông và có vị trí chiến lược cũng như giàu tài nguyên dầu mỏ và khí đốt ở chung quanh. Sau tháng 4 năm 1975, nước CHXHCN Việt Nam và cả Trung Quốc đều tuyên bố chủ quyền ở 2 quần đảo này. Những bất đồng đã không thể giúp Việt Nam và Trung Quốc duy trì mối quan hệ đồng minh và đã xảy ra những cuộc xung đột biên giới năm 1979 và những năm trong thập niên 1980s
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét