Sau 1975, Văn Quang bị giam như hàng trăm ngàn quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa. Cấp bực Trung tá và chức vụ Quản đốc Đài Phát Thanh Quân đội kết liễu bằng 12 năm tù hơn. Gia đình ông vượt biển. Căn nhà cũ biến thành Trụ sở Phường Xã. Tứ cố vô thân, ông tìm về với người thân một thời gian ngắn rồi ra riêng bắt đầu lại cuộc đời. Ông chuyên đánh vi tính thuê, layout cho nhà in, nhà quảng cáo hay nhà xuất bản tùy theo nhu cầu. Năm 1990, vì lý do cá nhân, ông quyết định không nhập cư ngoại quốc theo diện H.O. . Ông bắt đầu trở lại kiếp…feuilleton qua loạt phóng sự Lẩm cẩm Sài Gòn Thiên hạ sự gửi ra ngoại quốc.
<!>
Trước 1975, ông là một trong những tác giả feuilleton ăn khách dù viết truyện hay phóng sự. Với con mắt chuyên nghiệp từ cấp chỉ huy ngành Tâm lý chiến, sử dụng chữ nghĩa kiểu phóng sự Miền Nam với lối châm biếm cố hữu, ông đã trưng bày sự thật ngoài đời từ quan Cộng sản tham những ăn chơi xa xỉ đến phó thường dân lăn lóc lề đường, từ triệu phú “cò đất” tới thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa, từ “chân dài” mặc đồ lót lái xe “phom phom” ngoài phố tới hàng dẫy cô Việt Nam ngượng ngùng phơi thân cho người Đại Hàn, Trung Cộng (chữ của ông) chọn lựa. Độc giả Việt hải ngoại rất tin cậy loạt bài này vì ông lấy tin tức trên báo nhà nước nhắm tường thuật chính xác rồi mới kết luận bằng nhận xét hay phán đoán, không riêng của ông, mà còn của đám dân chúng thấp cổ bé miệng, như hai thí dụ trên tờ Thời Luận.
Phần tôi, người tìm kiếm tài liệu về Văn học và Chiến tranh Việt Nam, những bài đặc sắc là những bài hướng về đồng đội như Phạm Huấn, Hà Huyền Chi, bạn văn như Lê Xuyên hoặc văn nghệ sĩ trở về thăm viếng như Phan Ngọc Diên hoặc tái định cư tại Sài Gòn sau một thời gian lìa xứ như Thái Tuấn, Tạ Tỵ…
Tháng 6.2009, công an ập vào nhà lục soát, tịch thu tiền bạc và máy móc vì ông gửi loạt Lẩm cẩm Sài Gòn thiên hạ sự ra ngoại quốc. Tôi muốn chép lại hầu như đầy đủ việc bắt bớ này do chính ông công bố trên Thời báo, một tờ báo ông cộng tác lâu dài tại hải ngoại, để cho thấy, lẽ ra, ông phải…đoạt được vài cái giải dành cho ký giả tranh đấu chống đàn áp:
[…] Anh Phó Trưởng Phòng đích thân hỏi tội tôi. Gán cho tôi đủ thứ tội. Nhưng cuối cùng chẳng kiếm ra tội gì phạm pháp luật. Tôi cũng nói ngay ‘Tôi làm cái gì mà pháp luật không cấm, có thế thôi. Nhiệm vụ của các anh là tô son vẽ hồng cho chế độ, còn tôi có ăn lương nhà nước đâu, tôi làm cho báo trả lương tôi viết cái gì cần viết và phải viết‘. Anh Phó Phòng cay cú nhưng cũng chẳng làm gì được. Nhưng anh ta vẫn phê vào biên bản “Phạm tội vi phạm internet – Phạt 1 triệu đồng”. Tôi không hiểu tội vi phạm ineternet là thứ tội gì, chắc mấy ông luật sư cũng chẳng hiểu được cái lối làm chầy làm cối của mấy tay này. Nhưng có anh CA đèo tôi đi nộp phạt ở một ngân hàng nhà nước và có biên lai đàng hoàng. Tôi còn giữ cái biên lai khôi hài ấy suốt mấy năm.
Từ đó tôi bị theo dõi sát nút, bài vở thư từ qua internet cũng bị ‘phòng đặc biệt’ của sở Cảnh Sát chuyên về vi tính chi nhận đầy đủ. Tôi không biết nên cứ phây phây làm việc của mình. Thế nên một lần khác tôi lại bị tóm. Tôi bị tóm và tịch thu hết máy móc Tôi thường thức dậy rất sớm vào internet đọc báo xem thư. Hôm ấy bỗng đường dây internet cứng đơ, không động đậy. Gọi điện thoại máy kêu bíp bíp rồi êm re luôn. Tôi chẳng hiểu tại sao.
Khoảng 8 giờ sáng, bỗng một toán cảnh sát vài chục anh kéo đến xông vào nhà tôi trên chúng cư tôi đang ở. Họ hùng hổ như đi bắt cướp. Kéo nhau vào sục sạo khắp nhà, từ cái ngăn kéo tủ đến gầm giường. Có cái máy móc nào họ lôi ra hết, đóng vào thùng khuân xuống xe kể cả mấy cái máy computer, máy chụp hình, điện thoại. Cả xóm kéo nhau ra xem, họ tưởng tôi là tội phạm nặng lắm. Họ bắt tôi mang ra xe. May mà không còng tay, chỉ có hai cậu lực lưỡng ngồi sát hai bên đề phòng tôi nhảy xuống trốn.
Về đến ty cảnh sát, họ tống tôi vào một căn phòng hẹp vắng hoe. Một lát sau một anh khệnh khạng cầm tập hồ sơ vào. Anh ta bắt đầu cuộc hỏi cung. Lôi ra một đống bài tôi viết. Một anh chuyên viên lôi máy computer của tôi ra lục lọi tìm mói thứ kể cả hình ảnh và thư riêng. Sau đó anh in ra từng bài và bắt tôi ký tên xác nhận bài đó là của tôi. Tôi nhìn lướt qua rồi ký thì ký. Tôi vẫn tin là mình làm đúng pháp luật không cấm.
Đến 12 giờ trưa họ cho tôi về, chiều lại đến. Cứ như thế suốt một tuần, họ thay nhau hỏi cung, lúc nhẹ nhàng cười cợt, lúc kết tội rất căng. Đó là kiểu khủng bố tinh thần để làm mất tinh thần đối thủ. Có khi một anh CA từ Thành Phố được giới thiệu là ‘sếp lớn’ xuống hỏi cung. Vẫn cái kiểu nửa mặn nửa nhạt đó, văn minh hơn một tí là cho tôi hút thuốc lá ba số 5, nhưng khi đứng lên, anh ta đi thẳng. Tôi lại phải móc túi trả tiền cà chầu cà phê và bao thuốc lá 3 số 5. Anh ta láu cá lắm, yêu cầu tôi nếu bạn bè nước ngoài hỏi thì phải nói được đối xử đàng hoàng. Bởi tin tôi bị cảnh sát tóm đã được một anh Thông Tín Viên của báo nước ngoài loan tin rồi. Nhiều báo đã đăng. Bạn bè và độc giả của tôi chú ý theo dõi tình hình. Anh ta bắt tôi viết cái e mail cho bạn bè là ‘được đổi xử tử tế đừng loan tin vội’.
Cuối cùng là Cảnh Sát yêu cầu tôi ngưng viết bài ra nước ngoài. Thật ra lúc đó có muốn viết cũng không viết được, mất hết computer và cắt hết internet lấy gì mà viết. Bạn bè tôi ở nước ngoài hỏi thăm và sẵn sàng yểm trợ. Nhưng còn đường internet lúc đó tôi thuê của VNN và hãng này cho tôi biết họ được lệnh không cho tôi thuê đường dây nữa. Với biết bao trở ngại, tôi đành thúc thủ suốt gần một năm, không viết lách gì được. Anh C(ông) A(n) gộc bảo tôi có viết thì viết báo trong nước, anh ta sẵn sàng giới thiệu, báo nào cũng được. Tôi thẳng thắn trả lời ‘Tôi chỉ đá một chân, không thể viết báo trong nước được. Viết kiểu của tôi chẳng báo náo trong nước dám đăng đâu. Xin miễn‘. Cho đến bây giờ cứ thấy tên tôi trong bất kỳ bài nào của ai, báo VN cũng gạch bỏ liền. Quả thật điều này không làm tôi phật ý mà ngược lại tôi còn khoái vì sao họ sợ mình đến thế?
Nhưng cái “nghiệp” đã bám vào thân, tôi không chịu nổi, lại tìm cách tự đứng dậy. Con cháu gửi tiền về mua computer và tìm một dịch vụ khác thuê đường dây internet. Tôi nhờ anh Hồng Dương ở Mỹ mua giùm cái máy chính hãng ở Mỹ bảo đảm hơn hàng VN nhiều khi là hàng giả của Tàu. Nếu không viết mình sẽ bị đè bẹp gí, tội gì không viết khi còn viết được. Trước hết tôi không viết theo kiểu cũ đã bị ‘cấm‘. Tôi trả lời thư độc giả qua mấy tờ báo, viết kiểu này thì ‘không có tội với nhà nước‘. Nghĩ là nghĩ thế thôi chứ khi muốn bắt tội thì họ có đủ cách đủ trò kết tội. Nhưng tôi cũng “uống thuốc liều rồi” cứ viết tới đâu thì tới. Già rồi nếu bị bắt bị nhốt chắc chỉ vài tháng là chết, tôi không sợ. Chắc họ cũng hiểu điều đó và nếu bắt tôi họ sẽ mang tiếng “đàn áp” bịt miệng những nhà văn nhà báo độc lập.”
Sau khi bị tịch thu máy móc và tiền bạc, ông trở lại hơn 1 năm sau với loạt bài cũ, chỉ đổi tên dưới hình thức Thư Sài Gòn-Trả lời độc giả hoặc Trò chuyện với nhà văn Văn Quang.
Tình đồng đội
Song song với loạt bài gửi ra ngoại quốc, ông tham dự việc cứu trợ thương phế binh Việt Nam Cộng hòa trên bốn vùng chiến thuật một cách cụ thể như nhận tiền từ người tặng và đến tận nơi hay cùng anh em khác đảm nhận việc trao cho người nhận. Ông bầy tỏ:
Tôi phải sống như người lính chưa bao giờ bỏ ngũ, chưa bao giờ đào ngũ làm tiếp nhiệm vụ của mình. Ý chí ấy bén rễ trong tôi từ ngày vào quân đội với tâm niệm ‘quân đội, danh dự, trách nhiệm’. Tôi tin rằng các bạn của tôi dù ở bất cứ đâu cũng còn mang chung tâm niệm ấy cho đến cuối cuộc đời. Ở đây còn nhiều hình ảnh đau thương của những anh em Thương Phế Binh VNCH sống vất vưởng lang thang ngoài vỉa hè xó chợ. Tôi đã từng gặp những người bạn đồng đội ấy, chia sẻ với họ và kêu gọi mọi người chung tay giúp đỡ. Lại cũng chính vì công việc này tôi bị C(ông) A(n) cấm viết về Thương Phế Binh VNCH. Tôi đã từng bị khủng bố tinh thần, bị xuyên tạc dọa dẫm bằng đủ thứ…” [Văn Quang, sđd]
Ông nhiều lần nhắc lại, ngày nào còn sống, vẫn là “người lính đang làm nhiệm vụ của mình”. Ông gắn bó với anh em bằng “tình đồng đội”. Trong một bài gửi riêng cho Đa Hiệu, tạp chí của Cựu Sinh Viên Sĩ quan Trường Võ Bị Quốc gia Việt Nam, về hiểm họa Trung Cộng, ông mở đầu như sau:
Gần 40 năm “tan hàng”, 40 năm với những mất mát lớn lao, những đau thương dằn vặt của đồng đội trong QLVNCH không bao giờ kể hết. Dù bạn ở nước ngoài hoặc còn kẹt lại trong nước, vết thương đó vẫn còn in đậm dấu vết trong tận cùng tâm khảm, dù cho bây giờ có thể nhiều bạn đã tạm yên với cuộc sống đời thường.
Nhưng có một thứ không bao giờ mất, đó là tình đồng đội. Bất kể bạn là ai, là tướng hay là lính, đã trở thành “đại gia” hay còn “khố rách áo ôm”, tình đồng đội vẫn không hề thay đổi. Có như thế mới là “lính VNCH” với một thứ trên vai là Tổ Quốc- Danh Dự- Trách nhiệm. Nếu không, bạn sẽ chẳng là ai cả. Bạn sẽ tự gạt mình ra khỏi cuộc sống này. Sống như thế có khác gì chết. Chúng ta sống vì biết chắc rằng còn đồng đội quanh mình, đó chình là sự bất diệt đúng nghĩa, chẳng sức mạnh nào tàn phá nổi.
Chính vì thế hôm nay tôi ở trong nước, gửi đến bạn những lời tâm huyết này mà không hề cảm thấy xa cách. Chẳng phải chỉ có một năm một lần hoặc mười năm mới có một lần viết cho bạn. Tôi đã thường xuyên gửi tiếng nói của tôi đến các bạn qua các trang báo ở nước ngoài. Chẳng phải là tôi muốn kiếm chút hư danh hay kiếm tiền độ nhật mà thật sự tự trong thâm tâm tôi muốn gần gũi đồng đội hơn, muốn nhân danh một người lính nói lên tiếng nói trung thực nhất của mình về mọi mặt của tình hình đất nước. Tôi không có quyền đại diện cho ai cả, nhưng độc giả vẫn biết đó là một người lính chưa bao giờ rời bỏ nhiệm vụ của mình. Mặc cho những đe dọa, mặc cho những đánh phá kiểu này hay thủ đoạn khác, người lính vẫn cứ hành quân, dù không còn cây súng trên vai. Còn cái gì tôi sử dụng cái đó để mọi người biết rằng vẫn còn những người lính đang làm nhiệm vụ của mình. Cũng như tập san Đa Hiệu đang làm vậy…”[Văn Quang, Thư Sài Gòn,“Biết đi về đâu-Bài viết riêng cho tập san ĐA HIỆU”, tháng 12.2014]
Một đời chung thủy với văn chương, trung thành với quân đội, Văn Quang chẳng hề nghĩ tới “biết đi về đâu”. Bởi thế, ông hoàn toàn bất ngờ khi được độc giả Khởi Hành-Hoa Kỳ tuyên giải “Văn chương toàn Sự Nghiệp Kỳ III”, năm 2009 đoạn trao giải vào năm 2010.
Nguồn:
Anka Pham
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét