Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Tư, 30 tháng 7, 2025

CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ CÚ LỪA THẾ KỶ: - Mỹ đã ngây thơ trao công nghệ hạt nhân, vũ trang cho TQ thành ‘quái vật’ ra sao? - Nam Sơn


Đặng Tiểu Bình trong cuộc duyệt binh mừng Quốc khánh năm 1984
Trong chương trình hôm nay của ‘Phân tích và Bình luận’, chúng ta sẽ cùng nhau quay ngược lại cỗ máy thời gian, trở về một thập niên đầy mâu thuẫn và hy vọng của Trung Quốc – những năm 1980. Đó là một thời kỳ mà những sinh viên Bắc Đại dám công khai giương cao biểu ngữ “Tiểu Bình, chào ông”, một hành động ẩn chứa cả sự kính trọng lẫn thách thức. 
<!>
Đó cũng là một thời kỳ mà Hoa Kỳ, trong một trong những tính toán địa chính trị sai lầm nhất lịch sử, đã mở rộng vòng tay, không chỉ viện trợ kinh tế mà còn bí mật chuyển giao những công nghệ quân sự và hạt nhân tối tân nhất cho Bắc Kinh, đặt nền móng cho con rồng quân sự ngày nay. Và đó cũng là lúc mà những tia hy vọng cải cách chính trị le lói đã bị dập tắt một cách tàn nhẫn, với cuộc hạ bệ đầy oan khuất của Tổng bí thư Hồ Diệu Bang, một bi kịch chính trị mà chỉ có một người duy nhất dám đứng lên phản đối.

Chuyện gì đã thực sự xảy ra đằng sau tấm màn nhung của thập niên 80? Mối quan hệ bí mật giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc đã định hình thế giới ngày nay ra sao? Và cuộc đấu đá tàn khốc ở Trung Nam Hải đã chôn vùi tương lai của Trung Quốc như thế nào? Tất cả sẽ có trong chương trình hôm nay.

BỐI CẢNH LỊCH SỬ: BỨC CHÂN DUNG TRÊN QUẢNG TRƯỜNG

Năm 1984, Trần Hy Đồng, khi đó đang là thị trưởng Bắc Kinh, đã tìm đến Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) Hồ Diệu Bang với một câu hỏi hóc búa. Ông ta hỏi: “Thưa Tổng bí thư, những năm trước, trong cuộc diễn hành ngày Quốc khánh 1 tháng 10, chúng ta đều rước chân dung các nhà lãnh đạo. Vậy lần này, chúng ta nên rước chân dung của những ai? Đặc biệt, tôi muốn hỏi, liệu chúng ta có nên rước chân dung của đồng chí Đặng Tiểu Bình không?”.

Đây quả thực là một vấn đề nan giải. Hồ Diệu Bang châm một điếu thuốc, chìm vào suy tư. Quý vị phải hiểu rằng, kể từ năm 1949, mỗi dịp Quốc khánh, tiếng hô “Mao Chủ tịch vạn tuế” lại vang dội khắp quảng trường, và bức chân dung khổng lồ của Mao Trạch Đông được rước đi trong sự sùng bái. Người ta đã hô khẩu hiệu đó đến tận những năm 1960. “Vạn tuế” vẫn chưa đủ, người ta bắt đầu hô “vạn vạn tuế”. Vào lễ kỷ niệm 20 năm ngày Quốc khánh năm 1969, Thiên An Môn đã biến thành một biển đỏ rực rỡ ca ngợi “mặt trời đỏ”. Nhưng không ai biết rằng, Mao Trạch Đông trên lầu thành lúc đó đã chuẩn bị sẵn sàng để bất cứ lúc nào cũng có thể bỏ rơi những thần dân trung thành trên quảng trường, quay người và chui vào hầm trú ẩn hạt nhân một cách nhanh nhất. Lâm Bưu đã nói với ông ta rằng chỉ có 7 phút để di tản, vì hoả tiễn của Liên Xô sắp bay tới. Sau năm 1970, cảnh tượng vạn người tung hô vạn tuế không còn thường xuyên xuất hiện nữa.

Sau khi Mao Trạch Đông qua đời, từ “vạn tuế” dần dần biến mất. Sự sùng bái cá nhân đã được giảm nhẹ. Người kế nhiệm Hoa Quốc Phong cũng đã gỡ bỏ vương miện “lãnh tụ anh minh”. Sau thất bại trong cuộc đấu tranh nội bộ đảng, chức vụ của ông ta được chia cho ba người: Hồ Diệu Bang làm Chủ tịch Đảng, Triệu Tử Dương làm Thủ tướng Quốc vụ viện, và Đặng Tiểu Bình làm Chủ tịch Quân ủy Trung ương.

Mọi người đều biết Đặng Tiểu Bình là người nắm thực quyền của ĐCSTQ, nhưng chức danh công khai của ông ta lại chỉ là Chủ tịch Quân ủy Trung ương. Hãy thử tưởng tượng, rước chân dung của một người đứng đầu quân đội như một lãnh tụ của phong trào cộng sản trên quảng trường thì có phần kỳ cục. Mặc dù “cách mạng bạo lực, chính quyền sinh ra từ nòng súng” là tín điều của ĐCSTQ, nhưng Đặng Tiểu Bình không muốn bị người khác nói rằng mình đang “buông rèm nhiếp chính”. Năm năm sau, trong sự kiện Thiên An Môn, Triệu Tử Dương, một người thẳng thắn và non nớt hơn về chính trị, đã lỡ lời với nhà lãnh đạo Liên Xô Gorbachev khi ông này đến thăm, rằng “Đặng Tiểu Bình mới là người ra quyết sách thực sự, mọi việc lớn đều phải thông qua Đặng Tiểu Bình”. Mặc dù đó là sự thật, nhưng việc nói ra sự thật về “bộ quần áo mới của hoàng đế” đã khiến Triệu Tử Dương mất đi sự tin tưởng chính trị.

Khi Trần Hy Đồng hỏi Hồ Diệu Bang về việc có nên rước chân dung ai vào ngày Quốc khánh hay không, Hồ Diệu Bang sau một hồi suy nghĩ đã dập tắt điếu thuốc và nói: “Về việc này, nếu chúng ta đi hỏi ý kiến chính đồng chí Đặng Tiểu Bình, hỏi có nên rước chân dung của ông ấy không, thì đồng chí Đặng Tiểu Bình cũng sẽ không đồng ý rước chân dung của mình đâu”. Trần Hy Đồng nghe xong liền hiểu ngay, ông ta đã nắm được ý của trung ương. Ông nói: “Ngài nói vậy, chúng tôi dễ làm việc rồi”.

CÁI BẮT TAY BÍ MẬT: HOA KỲ TRANG BỊ CHO TRUNG QUỐC

Khi bản chất chuyên chế độc tài của ĐCSTQ được che đậy một cách khéo léo, khi Đặng Tiểu Bình lớn tiếng tuyên bố tại Liên Hợp Quốc và Hoa Kỳ rằng “Trung Quốc tuyệt đối sẽ không đi theo con đường bá quyền, nếu Trung Quốc đi theo con đường bá quyền, các bạn có thể đứng lên đánh đổ chúng tôi”, phương Tây đã bắt đầu một cách ngây thơ ôm lấy Trung Quốc. Người Hoa Kỳ tin rằng ĐCSTQ không phải là những người cộng sản theo kiểu Lênin thực sự, mà họ thực dụng hơn, mang màu sắc chủ nghĩa dân tộc rõ ràng hơn. Nói cách khác, họ sẽ không gây ra mối đe dọa cho thế giới.

Với sự vận động hành lang và giúp đỡ của đội ngũ tinh hoa chính trị-ngoại giao Hoa Kỳ do Henry Kissinger dày công vun đắp trong hơn một thập niên, Hoa Kỳ đã gác lại những cảnh giác từ Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Việt Nam. Tổng thống Hoa Kỳ đã ban hành Sắc lệnh Hành pháp số 43, bắt đầu viện trợ toàn diện cho Trung Quốc trong suốt những năm 1980. Các lĩnh vực được hỗ trợ bao gồm giáo dục, năng lượng, nông nghiệp, không gian, địa chất, thương mại, và y tế công cộng, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ khoa học kỹ thuật toàn diện.

Một ví dụ khá quen thuộc là nhà vật lý học người Hoa Kỳ, ông Lý Chính Đạo. Khi đó, ông đã thúc đẩy hợp tác vật lý năng lượng cao giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, cung cấp học bổng cho sinh viên Trung Quốc sang Hoa Kỳ học thạc sĩ, tiến sĩ và sau tiến sĩ chuyên ngành vật lý. Kế hoạch này, cùng với kế hoạch hợp tác hóa sinh sau đó, đã đào tạo ra một thế hệ nhân tài. Hãy thử tính xem, những người này hiện nay đều đã gần 60 tuổi, họ chính là những tinh hoa trong giới học thuật của cả Hoa Kỳ và Trung Quốc.

Đầu thập niên 80, 19.000 sinh viên Trung Quốc được cử đi du học tại Hoa Kỳ. Đây là lần đầu tiên Trung Quốc mở cửa sau 30 năm tự cô lập, cắt đứt mọi giao lưu khoa học kỹ thuật và văn hóa tiên tiến nhất với thế giới. Hoa Kỳ quyết tâm giúp Trung Quốc thực hiện hiện đại hóa. Ngọn đuốc được truyền từ tay Tổng thống Carter sang Tổng thống Reagan. Reagan lúc đầu có chút nghi ngờ, nhưng dưới mục tiêu tối cao là làm tan rã hoàn toàn Liên Xô, ông đã chọn tiếp tục, thậm chí nâng cấp viện trợ của Hoa Kỳ cho Trung Quốc.

Sự viện trợ này bao gồm cả việc bán các công nghệ hoả tiễn không-hải-lục tiên tiến, giúp quân đội ĐCSTQ và ngành năng lượng hạt nhân dân sự phát triển. Nguyên tử của ĐCSTQ đã có thể nổ, nhưng làm thế nào để nó nổ trên lãnh thổ của kẻ thù? Đây là một vấn đề. Nói cách khác, họ không có khả năng phóng vũ khí hạt nhân thực sự. Và chính sự giúp đỡ của Hoa Kỳ đã giúp ĐCSTQ có được khả năng này, cùng với năm hệ thống vũ khí quan trọng khác, tất cả đều được thực hiện trong thời kỳ trăng mật của quan hệ Trung-Mỹ những năm 80. Các trường đại học và viện nghiên cứu của Trung Quốc, với sự giúp đỡ của người Hoa Kỳ, đã nhanh chóng bắt kịp thế giới chỉ trong vòng 10 năm ngắn ngủi.

Năm 1986, Hoa Kỳ đã hỗ trợ Trung Quốc thành lập tám trung tâm nghiên cứu quốc gia, bao gồm các lĩnh vực kỹ thuật sinh học, tự động hóa, công nghệ sinh học, laser, công nghệ vũ trụ và hàng không ngoài không gian, robot thông minh, và siêu máy tính, với hơn 1.000 thành tựu công nghệ mới nhất. Reagan còn bật đèn xanh cho phái đoàn quân sự của ĐCSTQ, mở cửa Cơ quan Chỉ đạo các Dự án Nghiên cứu Quốc phòng Tiên tiến (DARPA). Tại đây, ĐCSTQ lần đầu tiên thực sự được “mở mang tầm mắt”, học được thế nào là mạng lưới quốc tế, thế nào là tác chiến mạng. Mười lăm năm sau, ĐCSTQ đã sử dụng chính những công nghệ này để tiến hành các cuộc tấn công mạng vào Hoa Kỳ và các nước phương Tây khác.

Thế nhưng, trong bộ máy tuyên truyền của ĐCSTQ, tất cả những sự viện trợ này của Hoa Kỳ năm xưa đều được biến thành “tự lực cánh sinh, tự chủ phát triển”, là những thành quả đạt được dưới sự lãnh đạo “vĩ đại, quang vinh, chính xác” của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Bắc Kinh không chỉ giành được không gian sinh tồn và phát triển trên trường quốc tế, mà ở trong nước, những năm 80, nói thật, là thời kỳ tư tưởng cởi mở nhất và người dân chịu áp lực ít nhất trong suốt 70 năm cầm quyền của ĐCSTQ.

MÙA XUÂN NGẮN NGỦI VÀ HY VỌNG CẢI CÁCH

Trong đội ngũ diễu hành mừng Quốc khánh do Trần Hy Đồng tổ chức năm đó, mặc dù cuối cùng không có ai giương cao chân dung của Đặng Tiểu Bình, nhưng các giáo viên và sinh viên của Đại học Bắc Kinh đã bí mật giương một biểu ngữ, trên đó viết: “Tiểu Bình, chào ông”. Theo lời kể của những người trong cuộc, biểu ngữ ban đầu có sáu chữ: “Đồng chí Tiểu Bình, chào ông”. Nhưng vì sợ bị kiểm tra, biểu ngữ không thể quá lớn, phải giấu được trong áo, nên hai chữ “đồng chí” đã được lược bỏ. Có lẽ đây chính là một sự sắp đặt của số phận, rằng cho dù ĐCSTQ có tỏ ra thân thiện đến đâu, nó và những người dân mà nó cai trị cuối cùng cũng không thể trở thành “đồng chí”. Năm năm sau, Đặng Tiểu Bình đã trở thành người ra quyết định cho một cuộc thảm sát.

Tuy nhiên, vào những năm 80, người dân Trung Quốc thực sự cảm thấy đất nước có hy vọng, cuộc sống ngày một tốt hơn. Môi trường chính trị cũng được nới lỏng. Triệu Tử Dương đã đề xuất từng bước thực hiện việc tách bạch đảng và chính quyền, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của đảng ủy trong các doanh nghiệp. Người ta đã nhìn thấy hy vọng về cải cách chính trị.

Những năm 80, nơi có tư tưởng năng động nhất chính là các trường đại học. Các loại sách giới thiệu tư tưởng học thuật và nhân văn phương Tây được lưu truyền rộng rãi trong các trường đại học. Có một bộ sách tên là “Hướng tới tương lai”, gồm vài chục cuốn, giới thiệu các lý thuyết và tư tưởng nhân văn phương Tây từ nhiều góc độ khác nhau, có ảnh hưởng rất lớn trong giới sinh viên. Điều đáng nói là trong số các cố vấn và thành viên ban biên tập của bộ sách này, có Bao Tuân Tín, Nghiêm Gia Kỳ, và Trần Nhất Tư, sau sự kiện Thiên An Môn năm 1989, đều trở thành tội phạm bị ĐCSTQ truy nã, phải lưu vong ở nước ngoài. Còn một thành viên ban biên tập khác là Vương Kỳ Sơn, 20 năm sau đã trở thành Bí thư Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương và Phó Chủ tịch nước.

Trung Quốc đã gia nhập Công ước Bản quyền Quốc tế vào năm 1987. Tất nhiên, không phải cứ gia nhập là Trung Quốc sẽ tuân thủ. Đầu những năm 80, chính quyền Trung Quốc đã công khai sao chép lậu một cách trắng trợn. Lúc đó, ở Bắc Kinh, Thượng Hải, Vũ Hán có những nơi gọi là “trung tâm in lại giáo trình ngoại văn”. “In lại” là gì? Chính là sao chép lậu, chỉ là một cách nói khác. Ở Vũ Hán, bên cạnh Trung tâm thương mại Trung Nam, có một hiệu sách ngoại văn của tỉnh Hồ Bắc. Ở lối lên lầu hai có treo một tấm biển nhỏ, kéo một sợi dây xuống là dòng chữ: “Foreigners, Do not enter please” (Người nước ngoài miễn vào). Trên lầu hai bán gì? Toàn là sách ngoại văn lậu. Khi đó, một bộ “New Concept English” bốn cuốn chỉ có giá 2,6 nhân dân tệ.

Những năm 80, các trường đại học Trung Quốc thành lập nhiều hiệp hội, salon, không khí học thuật rất sôi nổi, phong trào tự do phát triển mạnh mẽ. Sinh viên có thể tự in các loại báo, tạp chí nhỏ. Tạp chí sinh viên “Tân Thượng Viện” của Đại học Giao thông Thượng Hải thậm chí còn được lưu truyền trong các trường đại học ở Bắc Kinh và Vũ Hán. Ở Hợp Phì, An Huy, có một giáo viên tên là Ôn Nguyên Khải, chính là người đã đề xuất với trung ương về việc khôi phục kỳ thi đại học. Ông thường xuyên phê bình các vấn đề thời sự, lời nói cũng khá sắc bén, và được mời đến các trường đại học trên cả nước để diễn thuyết. Hiệu trưởng Đại học Vũ Hán lúc đó là Lưu Đạo Ngọc, vì dám phá vỡ thông lệ, tiến hành cải cách, không câu nệ hình thức để đào tạo nhân tài, nên Đại học Vũ Hán những năm 80 được mệnh danh là “Thâm Quyến trong các trường đại học”, đi đầu trong cải cách. Khoa Ngữ văn của Đại học Vũ Hán khi đó đã mở một lớp dành cho các nhà văn, chuyên cung cấp cơ hội học tập nâng cao cho những nhà văn trẻ tài năng nhưng chưa từng học đại học.

Trong lớp nhà văn năm đó, có một nhà văn trẻ đến từ Hợp Phì, An Huy, tên là Cao Nhĩ Phẩm. Khi viết tiểu thuyết về thời kỳ Dân quốc, ông đã đọc rất nhiều tài liệu lịch sử và phát hiện ra một bí mật động trời ở Trung Quốc đại lục lúc bấy giờ. Ông phát hiện ra rằng trong cuộc kháng chiến chống Nhật, Quốc Dân Đảng đã có hàng triệu binh sĩ hy sinh trên chiến trường, hàng trăm vị tướng đã tử trận vì nước. Quốc Dân Đảng mới chính là trụ cột của cuộc kháng chiến, chứ không phải Đảng Cộng sản. Lời tuyên truyền của Đảng Cộng sản trong mấy chục năm qua rằng Quốc Dân Đảng không kháng chiến hoàn toàn là dối trá. Ở Trung Quốc, nếu bạn dám nói Đảng Cộng sản không kháng chiến, bạn không biết mình sẽ phải chịu áp lực và đả kích lớn đến mức nào. Vì vậy, gia đình và bạn bè đã khuyên ông: “Nhĩ Phẩm ơi, anh vẫn nên viết tiểu thuyết lịch sử đi. Những nhân vật lịch sử ấy, người cần chết đã chết rồi, viết về họ không có rủi ro gì cả”.

Nhưng Cao Nhĩ Phẩm cương trực đã kiên quyết nói ra sự thật. Năm 1994, Cao Nhĩ Phẩm từ bỏ mọi điều kiện vật chất trong nước, lưu vong ở nước ngoài, kiên trì tuyên truyền lý tưởng Dân quốc, kiên trì sự thật mà ông biết. Ông chính là người mà nhiều Hoa kiều ở hải ngoại biết đến với cái tên Tân Hạo Niên.
NHỮNG LÀN GIÓ VĂN HÓA VÀ CUỘC ĐÀN ÁP CHÍNH TRỊ

Từ đầu những năm 80, đồng hồ điện tử, kính râm, máy ghi âm, áo phông hoa hòe từ Hồng Kông bắt đầu du nhập vào Quảng Đông, rồi từ Quảng Đông lan ra nội địa. Những người đi công tác ở Thâm Quyến đều tranh thủ chạy ra khu phố Trung-Anh, lợi dụng lúc cảnh sát không để ý, lẻn sang bên Hồng Kông để mua vài món đồ nhỏ. Các bài hát Hồng Kông và Đài Loan cũng dần trở nên phổ biến. Người dân thường lén lút nghe các bài hát của Đặng Lệ Quân. Rồi đột nhiên một ngày, các đơn vị thông báo rằng không được hát các bài hát của Đặng Lệ Quân nữa, phải tiêu hủy hết, vì đó là “âm nhạc ủy mị”. Nhiều năm sau, mọi người mới biết rằng nguyên nhân là vì Đặng Lệ Quân đã nói trong một buổi hòa nhạc rằng nếu bà trở về đại lục biểu diễn, đó phải là lúc “Tam Dân Chủ Nghĩa thống nhất Trung Quốc”. Câu nói này đã chọc giận ĐCSTQ, thế là nhạc của bà trở thành “âm nhạc ủy mị”, không được nghe nữa.

Từ giữa những năm 80, nhiều bài hát Hồng Kông và Đài Loan hơn đã được lưu truyền ở đại lục: Từ Tiểu Phụng, Lý Tông Thịnh, La Đại Hữu, Thái Cầm. Nghe Thái Cầm hát nhiều năm vẫn không hiểu tại sao bà lại muốn “bóp chết sự dịu dàng của anh”. Cả Tề Tần với áo da, quần da, kính râm đen kịt cũng là ký ức của cả một thế hệ. Các bài hát Âu-Mỹ khi đó cũng bắt đầu phổ biến trong các trường đại học. John Denver, người được Đặng Tiểu Bình mang về sau chuyến thăm Hoa Kỳ, với chiếc mũ cao bồi và bài hát “Take Me Home, Country Road”. Rồi “The Sound of Silence” của Paul Simon, “Yesterday Once More” của The Carpenters. Tất cả đều là những bài hát rất thời thượng khi đó. Dù thực tế chúng đã phổ biến ở Hoa Kỳ từ hơn mười năm trước, nhưng đối với sinh viên đại học Trung Quốc lúc bấy giờ, nếu bạn không biết hát vài câu tiếng Anh, sau lưng không đeo một cây đàn guitar, thì bạn chẳng dám đi tỏ tình.

Năm 1986, một ca sĩ Đài Loan tóc đen mắt xanh, cao lớn đẹp trai đã làm mưa làm gió khắp Trung Quốc, đó chính là Phí Tường. Năm 1987, Phí Tường đã hát bài “Ngọn lửa mùa đông” trong chương trình Gala mừng Xuân của Bắc Kinh. Ai ngờ ba tháng sau, Đại Hưng An Lĩnh thực sự bốc cháy. Đám cháy kéo dài một tháng, thiêu rụi 1,1 triệu héc-ta rừng và làm gần 200 người thiệt mạng.

Khí công bắt đầu phổ biến ở Trung Quốc từ cuối những năm 70. Đến đầu những năm 80, do không khí chính trị được nới lỏng, các loại khí công đã lan rộng khắp cả nước. Vì khí công thực sự có hiệu quả trong việc chữa bệnh và rèn luyện sức khỏe, đặc biệt là một số cán bộ lão thành trong hệ thống, sau khi luyện khí công, sức khỏe đã tốt hơn, nên họ đã lên tiếng ủng hộ. Mặc dù nhiều hiện tượng khí công không thể giải thích được bằng y học hiện đại và khoa học hiện đại, nhưng bệnh tật của nhiều người thực sự đã biến mất, mọi người ngày càng khỏe mạnh hơn. Vì vậy, Hồ Diệu Bang lúc đó đã đưa ra một chính sách gọi là “ba không”: không tuyên truyền, không phê phán, không tranh luận.

Tư tưởng tự do bắt đầu dẫn đến những cuộc thảo luận sâu sắc hơn về các vấn đề xã hội. Năm 1986, sinh viên tuần hành đòi dân chủ, tự do, nhân quyền, chống “quan倒” (quan chức lợi dụng quyền lực để kinh doanh), chống tham nhũng. Những tiếng hô khẩu hiệu này đã làm chấn động Trung Nam Hải. Hồ Diệu Bang lúc đó dự định triệu tập một cuộc họp thường vụ Bộ Chính trị để thảo luận về ý kiến của Ban Bí thư Trung ương về việc xử lý phong trào sinh viên. Nhưng Đặng Tiểu Bình không đồng ý mở họp, mà đã gọi riêng Hồ Diệu Bang đến để “nói chuyện tư tưởng”, định tính phong trào sinh viên là “tự do hóa tư sản” và chỉ trích Hồ Diệu Bang.

Vào tối ngày 1 tháng 1 năm 1987, tại nhà của Đặng Tiểu Bình, các nguyên lão của ĐCSTQ như Bạc Nhất Ba, Bành Chân, Trần Vân, Vương Chấn, Tống Nhiệm Cùng đã tụ tập lại để bàn về việc đi hay ở của Hồ Diệu Bang. Ngay sau đó, trong một cuộc “họp sinh hoạt đảng” mà Đặng Tiểu Bình và Trần Vân cố tình vắng mặt, Hồ Diệu Bang đã bị mọi người lần lượt phê phán. Bạc Nhất Ba, người mà trong số rất nhiều lãnh đạo cấp cao có mặt tại cuộc họp đó, đã được chính Hồ Diệu Bang từng người một minh oan, từng người một đưa ra khỏi nhà tù Tần Thành, lại nói: “Hồ Diệu Bang suốt ngày chạy xuống cơ sở, đi du ngoạn, làm trò để lấy lòng người”. Đặng Lực Quần, một “tả vương” nổi tiếng, đã phát biểu suốt năm tiếng đồng hồ để chỉ trích Hồ Diệu Bang. Triệu Tử Dương khi đó cũng phê bình Hồ Diệu Bang là “không tuân thủ kỷ luật”. Còn Vương Hạc Thọ, người mà Hồ Diệu Bang luôn coi là bạn thân tri kỷ, cũng đã “ném đá xuống giếng”, công khai những cuộc trò chuyện riêng tư của hai người.

Trong cái gọi là “họp sinh hoạt” đó, chỉ có một người duy nhất ủng hộ Hồ Diệu Bang, đó là Tập Trọng Huân, lúc đó là Bí thư Ban Bí thư Trung ương. Tập Trọng Huân đã chỉ trích các nguyên lão, nói: “Các người đang dùng thủ đoạn của thời Cách mạng Văn hóa để ép Tổng bí thư từ chức. Cách làm này của các người không bình thường, là vi phạm nguyên tắc của đảng”.

Cuối cùng, sau bảy ngày bị phê đấu liên tục, Bộ Chính trị đã triệu tập một cuộc họp mở rộng vào ngày 16 tháng 1, giơ tay thông qua, phê chuẩn đơn từ chức của Hồ Diệu Bang và đề cử Triệu Tử Dương làm quyền Tổng bí thư.

Tháng 1 năm 1987, Hồ Diệu Bang bị buộc phải từ chức. Triệu Tử Dương từ Thủ tướng chuyển sang làm Tổng bí thư Trung ương ĐCSTQ. Lý Bằng tiếp nhận chức vụ Thủ tướng. Quyết định này đã được thông qua với số phiếu tuyệt đối tại kỳ họp Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc vào tháng 3 năm 1987. Trong số các đại biểu, có một người phụ nữ trung niên trông hơi quê mùa đến từ Sơn Tây, tên là Thân Kỷ Lan. Bà Thân này, từ kỳ họp Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc khóa I năm 1954, đã liên tục làm đại biểu. Năm đó bà mới 25 tuổi. Mấy chục năm mưa gió qua đi, bà Thân vẫn chưa hiểu rõ sự khác biệt cơ bản giữa đại biểu nhân dân và lao động gương mẫu. Nhưng bà kiên trì một nguyên tắc, một bí quyết: bất kỳ nghị quyết nào của trung ương cần biểu quyết, bà đều phải giơ tay tán thành không do dự. Bà nói bí quyết là gì? “Làm đại biểu là phải nghe lời Đảng. Tôi chưa bao giờ bỏ phiếu chống”.

Ngay cả những người trong hệ thống ĐCSTQ cũng không thể chịu đựng được. Có lần, tài khoản Weibo của Tỉnh đoàn Thanh niên Cộng sản Sơn Tây đã phê bình: “Phản hữu bà cũng đại biểu, Văn cách bà cũng đại biểu, lúc nào bà cũng đại biểu, nhưng chưa một lần bà đại biểu cho nhân dân. Xin hỏi bà được bầu ra như thế nào, rốt cuộc bà đại biểu cho ai?”. Nhưng không ai ngờ, bà Thân chỉ dựa vào bí quyết này mà liên tục được bầu làm đại biểu nhân dân. Mấy chục năm qua, những người họp ở Đại lễ đường Nhân dân, người trên đài, người dưới đài, có người đã vào Bát Bảo Sơn, có người đã vào nhà tù Tần Thành. Còn Thân Kỷ Lan thì vẫn vững vàng ngồi ở dưới đài suốt hơn sáu mươi năm, trở thành một đại biểu nhân dân cấp “hóa thạch”. Năm 2019, bà được Tập Cận Bình trao tặng Huân chương Cộng hòa.

THỜI KỲ HỖN LOẠN VÀ TIẾNG VỌNG CỦA “HÀ THƯƠNG”

Năm 1988, cải cách giá cả thất bại. Chế độ hai giá, giá cả tăng vọt, cả nước xảy ra làn sóng tranh mua. Người dân Trung Quốc, đã quen với giá cả không đổi trong nhiều thập niên, đối mặt với giá cả tăng đột ngột đã không biết phải làm sao. Mọi người đều hiểu rằng tiền trong tay đang mất giá. Thay vì gửi tiền vào ngân hàng, thà mua một thứ gì đó tích trữ ở nhà còn hơn. Thế là cả nước xảy ra làn sóng tranh mua. Giấy vệ sinh, xà phòng, khăn mặt, ngay cả những mặt hàng ế ẩm cũng không tha. Tivi, chỉ cần có hình, kêu rè rè là ôm về nhà. Quạt điện quay được, mua. Tủ lạnh có hơi lạnh là được. Có người mua rất nhiều len, chăn lụa, ga giường, vỏ gối. Bây giờ nhiều người vẫn chưa dùng hết. Có người mua mấy chục bao bột mì, cướp về từ cửa hàng hàng trăm hộp diêm, mua muối và nước tương đủ dùng cho mười mấy năm.

Đặng Tiểu Bình nói “cải cách là dò đá qua sông”. Đài phát thanh thì nói “cải cách đã đi vào vùng nước sâu”. Gộp lại nghe thì có vẻ như đã đến vùng nước sâu rồi mà vẫn chưa tìm thấy đá.

Tháng 6 năm 1988, một bộ phim tài liệu sáu tập có tên “Hà Thương” (Sự bi thương của dòng sông) được phát sóng trên Đài Truyền hình Trung ương. Bộ phim này đã nhìn lại và phê phán văn minh đất vàng truyền thống của Trung Hoa, đồng thời giới thiệu về văn minh biển xanh của phương Tây. Bộ phim đã gây ra tiếng vang lớn. Sau này, “Hà Thương” được coi là tiền đề tư tưởng cho sự kiện Thiên An Môn.

Nhưng liệu ĐCSTQ có sẵn lòng ôm lấy văn minh biển xanh không? Có sẵn lòng chấp nhận các giá trị phổ quát không? Khi đó, có một bài hát rất phổ biến tên là “Đi theo cảm giác”. “Đi theo cảm giác, hãy nắm lấy bàn tay của giấc mơ”. Bàn tay của giấc mơ đó biết tìm ở đâu? Nhiều người cảm thấy mông lung về tương lai, không biết tương lai của mình, của đất nước sẽ ra sao. Thời gian đã trôi đến năm 1989.

Với những phân tích vừa rồi, chúng ta có thể thấy thập niên 80 ở Trung Quốc là một bức tranh phức tạp, nơi những hy vọng về cải cách và mở cửa đan xen với những cuộc đấu đá quyền lực tàn khốc và sự kiểm soát ngày càng siết chặt của chế độ. Cái bắt tay giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, dù xuất phát từ tính toán địa chính trị nào, đã vô tình tạo ra một con quái vật mà ngày nay cả thế giới phải đối mặt.

Nam Sơn

Không có nhận xét nào: