(Lời “nói” đầu trang của tác giả: Chúng ta đã biết qua những diễn biến Chính Trị và tài trí của “nhà lãnh đạo” tối cao quyền lực như Valadimir Putin và các tướng lãnh chỉ huy và điều hành chiến lược, chiến thuật quân sự của nước Nga, trong cuộc xua quân đánh chiếm Ukraine…Đoàn quân di chuyển hằng nhiều sư đoàn bộ binh với hằng ngàn chiến xa cơ giới hạng nặng theo đội hình hàng dọc dài hơn 100 Km, như đoàn quân diễn binh hướng tới lễ đài bình an, vinh dự! Nếu các tướng lãnh Ukraine chỉ cần phi pháo hoặc các đơn vị hỏa tiễn bắn vào chặng đầu, chặng giữa, chặng cuối đội thì hình thì quân Nga sẽ bị lâm vào tình thế hỗn loạn và thiệt hại nặng nề.
<!>
Nhưng Ukraine đã không làm thế? Chúng ta có thể nhận xét: Putin tuy có tài lãnh đạo với những quyết sách có tầm Chính Trị trong nội tình nước Nga. Nhưng giới tướng lãnh và tham mưu Bộ Quốc Phòng của Nga thật là khiếm khuyết tài trí rất đáng bị sa thải.
Tình hình Chính Trị và Quân Sự của Ukraine với sự lãnh đạo của Zenlensky và giới tướng lãnh quân sự cũng không có gì khả quan để ứng phó với đoàn quân xâm lược Nga vốn cũng rất tồi tệ. Nếu Ukraine tập trung hỏa lực phi pháo, hỏa tiễn chỉ cần bắn sát vòng rào chắn một số những nhà máy điện nguyên tử lực cung cấp điện năng tại Nga, thì Tổng thống Putin có còn dám phiêu lưu quân sự đánh chiếm Ukraine nữa chăng? Nếu tình hình Ukraine bị Mỹ và khối Âu Châu bỏ rơi thì tự mình “xuất lộ” thế giới cùng chết chung, là sẽ tự phá nổ nhà máy điện nguyên tử của Ukraine? Cho tới bây giờ “giải pháp” Ukraine sẽ bắn phá các nhà máy điện nguyên tử lực của Nga vẫn là tối ưu, để đưa và đặt Putin vào thế phải “biết điều”vào bàn hội nghị để sống chung hòa bình.
Thực chất với thời thế chính trị thế giới ngày nay; nếu các nhà lãnh đạo có tài trì và quyết toán thì những quốc gia sổ hữu vũ khí nguyên tử lực cũng chưa hẵn là không thể không lo sợ tai họa thủ đắc thứ vũ khí sát hại nhân loại nội tại, khi kẻ thù địch chỉ cần có loại vũ khí “nhỏ mà nhanh” làm mồi lửa hủy diệt. Mỹ có lẽ đã hay thực sự là đang thiết kế “vòm sắt”để ngăn ngừa, đánh chận?Với tài trí thì chưa biết Ai sẽ lo sợ Ai?
Chúng ta sẽ bàn luận về tài trí của Tập Cận Bình – China và Tô Lâm – Cộng Sản Bắc Việt vào bài viết sau. Trọng kính).
Tổng Quan.
Sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo ở Việt Nam hiện nay, khi người nghèo ngày càng bị gạt ra ngoài lề của tiến trình phát triển quốc gia. Tác giả cho rằng cái gọi là "bản sắc dân tộc Việt Nam hiện đại" dưới chế độ Cộng Sản Bắc Việt thực chất không còn mang ý nghĩa dân tộc. Hay nói thẳng thắn ra là dưới chế độ cai trị của Cộng Sản Bắc Việt không có bản sắc dân tộc Việt Nam hiện đại. Vì đã là Cộng Sản; thì làm gì có dân tộc, làm gì có tổ quốc nữa! Bọn họ chính là một bộ phận của khối Cộng Sản quốc tế Bolshevik, xây dựng Xã Hơi Chủ Nghĩa; để đi đến thế giới đại đồng hoang tưởng và mông muội. Ví dụ, bằng cách rất cần thiết để thể hiện cách bảo đảm quyền bình đẳng, quyền được sống và tự do của người dân–chứ không phải do một ai tự lạm quyền ban cho, theo kiểu: mày xin-tao cho. xa rời truyền thống dân tộc và không sánh nổi với thể chế Việt Nam Cộng Hòa trước đây. Ngược lại, những điều mà nhà nước Cộng Sản không nên ban phát; mà điều đó là người dân phải mặc nhiên có! Thực trạng hiện nay cho thấy quyền đó bị bóp méo bởi cơ chế xin–cho, tham nhũng, và sự thống trị của các phe phái đảng phái. Nghĩa là mỗi sinh viên tốt nghiệp không có cơ hội bình đẳng trong tuyển dụng theo khả năng chuyên môn làm thăng hoa xã hội, chứ không phải nhờ vào sự ban ơn của nhà nước Cộng Sản, do móc nối, hối lộ hay phe-phái đảng-đoàn.
Hơn nữa, với tầng lớp trí thức đích thực, nhu cầu hàng ngày của họ cao hơn vật chất. Đó là quyền tự do tư tưởng, tự do biểu đạt chính kiến, biểu tình ôn hoà, và một môi trường nuôi dưỡng đạo đức, biểu tỏ tính nhân văn với hình thái văn minh của con người có văn hóa. Đặc biệt, mọi công dân đều có quyền tự do tín ngưỡng; nhằm phát triển đời sống tâm linh. Nhưng xã hội dưới sự thống trị của Cộng Sản Bắc Việt lại bị kiểm soát trong một khuôn khổ cứng ngắc, nơi sự phục tùng và ổn định hình thức được đề cao một cách máy móc. Mô hình xã hội hiện tại vẫn mang dáng dấp của hợp tác xã kiểu cũ dưới hình thức công ty nhà nước, vận hành theo tiêu chuẩn và chỉ đạo từ trên xuống, thiếu tự chủ và sáng tạo chỉ biết ỷ vào nhà nước bù lỗ. Quản trị hành chánh theo kiểu lãnh đạo tập thể, lấy phe đảng, bè cánh làm chuẩn mực. Để thu hẹp khoảng cách xã hội và phát triển đất nước phồn vinh thực sự, các lãnh đạo Cộng Sản Bắc Việt cần phải chấp nhận thay máu toàn đảng, cần cải tổ toàn diện, từ bỏ suy tư giáo điều và thực hiện ba điều kiện cốt lõi:1) Dân chủ hoá, 2) Tài quyết đoán-dám nhận trách nhiệm và 3) Cai trị theo Hiến Pháp.
1) Dân Chủ Hoá.
Trong tất cả các thể chế chính trị, dân chủ hóa luôn là khát vọng của con người. Đặc biệt ở Việt Nam rất cần tăng cường dân chủ hoá và phải là mục tiêu đầu tiên cần di đến, vì dân chủ đã bị đảng và nhà nước công nông tước đoạt mất từ năm 1945 rồi! Quá trình dân chủ hóa phải bắt đầu từ nhận thức đúng đắn về dân chủ của cả lãnh đạo và người dân, đồng thời xây dựng các thiết chế pháp lý bảo vệ các quyền cơ bản như tự do ngôn luận, báo chí, tín ngưỡng và quyền tham gia vào các vấn đề công cộng. Dân chủ hóa còn mang ý nghĩa: quyền lực và nghĩa vụ của công dân tiếp tục được cụ thể hóa, như quyền được biết thông tin một cách minh bạch và trung thực là hạt mầm, là nhân tố của mục tiêu dân chủ hóa - nó là cây thước đo, là cái cân đong, đếm sự trưởng thành của một xã hội dân sự và đánh giá niềm tin của quần chúng. Nghĩa là người lãnh đạo không nên đánh đổi niềm tin; để trục lợi cho bản thân. Các quyền căn bản theo Hiến Chương Liên Hiệp Quốc phải được tôn trọng về mọi cơ cấu quản trị trong các chương trình xây dựng và phát triển của đất nước. Tuy nhiên, nhiều lãnh đạo Việt Nam vẫn duy trì suy tư lạc hậu, chỉ có khả năng đối phó từng vụ việc, thể chế cai trị mù quáng và che giấu sự thật, không thích nghi với thời đại công nghệ số và thông tin mới AI. Dân chủ hóa ngày nay là xu hướng toàn cầu, nhưng ở Việt Nam tiến trình này còn rất chậm chạp, chủ yếu vì quyền lực chính trị hiện tại coi tự do và dân chủ là mối đe dọa cho đặc quyền của họ. Trong khi thời đại bây giờ đã là thời a-còng (@) rồi, giới trẻ họ vượt tường lửa (Fire Walls) như vừa ăn cháo lòng, vừa bấm iPhone.
Ngày nay, dân chủ hóa không còn là vấn đề nội bộ của mỗi quốc gia nữa, mà nó đã trở thành vấn đề mang tính toàn cầu, khi mọi quốc gia đều bước vào giai đoạn mới của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Ở Việt Nam, Cộng Sản Bắc Việt đã và đang thay đổi bề ngoài theo hình thái chuyển hóa dân chủ cũng không có gì đáng kể, họ thay đổi từng phần, từng phần một. Thực chất thay đổi này không hề dẫn đến dân chủ hóa thực thụ vì sẽ không đi đến chuyển hóa chính trị-xã hội và văn hóa toàn diện và triệt để! Với Việt Nam đang theo chế độ chuyên chính vô sản và hồng hơn chuyên. Cho nên, dân chủ hóa tùy thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều tác nhân khác nhau. Mặc dù dân trí của Việt Nam ngày càng nâng cao; nên họ khát vọng về tự do, dân chủ ngày càng lớn. Dân chủ hóa hiện nay nhằm chống lại sự lũng đoạn quyền lực cai trị, chống lại những đặc quyền, đặc lợi của giới quan liêu ở các nước Cộng Sản còn sót lại. Có thể nói, dù ở thời đại nào, dân chủ hóa cũng đều chống lại sự độc đoán, chuyên quyền; chống lại sự tha hóa quyền lực, sự áp bức, bất công từ trung ương xuống địa phương với người dân. Đồng thời cổ võ cho tự do, dân chủ, tôn vinh giá trị nhân quyền của con người; nhất là đề cao vai trò chủ thể của người dân trong quá trình phát triển, tiếp nối và tiến hóa của xã hội, rồi đi lần lên hướng thiện. Tuy nhiên đối với quyền lợi, bổng lộc của hệ thống chính trị đương quyền; thì tự do, dân chủ là khắc tinh và họ sẵn sàng bất chấp mọi đạo lý hay áp lực trong ngoài nước, để đè bẹp mọi mầm mống đấu tranh vì tự do, dân chủ. Cho nên, vì bản năng sinh tồn của chế độ, vì bổng lộc, Cộng Sản Bắc Việt vẫn cố bám giữ quyền lực và đàn áp mọi mầm mống đòi hỏi đấu tranh cho tự do, dân chủ. Trừ phi, giới trẻ trí thức, đặc biệt là cán bộ và sĩ quan trẻ, cùng phản tỉnh biết tập họp, cùng nắm tay nhau bước lên vũ đài chính trị, tạo biến động chính trị khắp nước, kết hợp với sự yểm trợ quốc tế của người Việt hải ngoại; thi mới hy vọng buộc bọn họ tự giải thể. Điều đáng tiếc là từ 1975 đến nay, người Việt Nam ở trong nước và hải ngoại chưa có một tổ chức, hay cá nhân nào đủ tài, đủ đức để kết Lực, tạo Thế nhằm dẫn dắt quần chúng đấu tranh. Bởi người dân trong nước hầu như đã bị thuần hóa; nên chỉ nặng lòng về cơm áo gạo tiền, chạy theo vật chất thực dụng khi có cơ hội. Về mặt khách quan, việc thay đổi cần ba tác nhân chính quyết định tiến trình dân chủ hóa gồm:
1. Ban lãnh đạo Đảng Cộng Sản – tác nhân then chốt.
2. Các lực lượng dân chủ tiến bộ trong và ngoài Đảng.
3. Áp lực quốc tế từ cộng đồng người Việt hải ngoại, ASEAN và các nước lớn như Mỹ.
Nếu ban lãnh đạo Cộng Sản Bắc Việt không thay đổi gì; thì các tác nhân khác cũng khó tác động được vào tình hình chính trị Việt Nam, các thành phần trí thức tiến bộ và dân chủ trong và ngoài đảng Cộng Sản, và các tác nhân quốc tế như Liên Hiệp Quốc, khu vực ASEAN, Mỹ, và người Việt tỵ nạn Cộng Sản ở hải ngoại. Với Việt Nam, tác nhân quốc tế đóng vai trò khá quan trọng thúc đẩy ban lãnh đạo Cộng Sản Bắc Việt phải thay đổi trong hai lãnh vực chính trị-xã hội và văn hóa. Tạo tiền đề cho sự ra đời một xã hội trẻ trung và từ đó, giúp cho thành phần đối trọng chính trị-xã hội và văn hóa – tác nhân thứ hai -có điều kiện lớn mạnh tạo được chỗ đứng vững bền. Tác giả cho rằng: nếu ban lãnh đạo Cộng sản không thay máu toàn đảng, thay đổi suy tư chủ thuyết giáo điều; thì các tác nhân khác cũng khó có thể tạo ra thay đổi dân chủ hóa toàn diện và triệt để trong hệ thống chính trị Việt Nam.
2) Tài Quyết Đoán-Dám Nhận Trách Nhiệm:
Người lãnh đạo quốc gia nào cũng phải có tài quyết đoán và tinh thần mang phẩm chất thật cao: dám chịu trách nhiệm cho quyết định của mình, dựa vào khả năng và kinh nghiệm của bản thân. Thông thường, ai cũng có lúc đưa ra quyết định hấp tấp dễ sai lầm. Vì cần có đủ đầy thông tin; mà thông tin đầy đủ thì hầu như không có ngay, trong khi người lãnh đạo cần nắm bắt thời cơ liền lập tức; trước sự kiện như vậy và biến thái cực nhanh theo thời kỳ của công nghệ số như hiện nay; nên người lãnh đạo quốc gia sẽ không chờ tìm ra kế sách toàn hảo vào ngày mai hay tuần tới. Phẩm chất của một nhà lãnh đạo giỏi là biết đưa ra quyết định ngay, dựa trên những thông tin sẵn có, kèm theo với kinh nghiệm, năng khiếu bản thân và lời khuyên của các cố vấn thân cận; để đưa ra quyết định thi hành liền, nhất quyết không để lỡ cơ hội quan trọng và làm tăng thêm hiệu quả. Như vậy, vẫn tốt hơn là không làm gì cà, cứ mãi ngồi chờ có thêm thông tin. Vì thực tế, không có gì là chắc chắn trên cõi đời này. Phẩm chất của người lãnh đạo thể hiện qua nhiều phương diện: Thái độ, năng lực gom góp thông tin tinh báo, sự tập trung tư tưởng, sẵn sàng phá vỡ khuôn mẫu để đổi mới và đạt kết quả bất ngờ.
Người lãnh đạo luôn biết cách xoay sở tình thế, định hướng với tầm nhìn xa, trông rộng và suốt dọc. Vì vai trò then chốt của người lãnh đạo là biết suy tư chiến lược, khả năng quyết đoán và tinh thần trách nhiệm. Lãnh đạo quyết đoán sẽ chớp được ít nhất một vài thời cơ có lợi cho đất nước. Bởi lẽ quyết đoán là phẩm chất cần có của người lãnh đạo. Nhà lãnh đạo giỏi hiểu rằng việc dùng dằng, không dám ra quyết định còn tồi tệ hơn cả việc đưa ra những hiệu lệnh chưa chuẩn lúc đầu. Một người lãnh đạo tinh tường ngoài việc phát huy lợi thế của từng cá nhân thuộc viên, còn phải có nhận thức xã hội sâu sắc. Thông qua đó, người lãnh đạo dễ dàng xác minh được đối tượng đang nói dối hay ngụ ý xu nịnh khác. Người lãnh đạo sẽ không ngừng nỗ lực tìm hiểu cách thuộc viên của mình đang làm việc, cũng như biểu hiện ý đồ hoặc hành vi gì. Khi biết đọc tâm lý người khác, bao quát mọi vấn đề, việc quản trị nhân sự, điều phối công việc sẽ trở nên dễ dàng hơn. Thấu hiểu nhân sự của mình giúp người làm lãnh đạo biết cách khai thác năng lực tối đa của thuộc viên. Với phẩm chất này, người lãnh đạo cũng giúp thuộc viên biết mình muốn gì, cần làm gì, chú tâm vào đâu. Từ đó, họ biết đem sáng kiến riêng vào công tác; để hoàn thành tốt đẹp. Ngoài ra, sự dứt khoát trong cách làm việc là nghệ thuật lãnh đạo chỉ huy sẽ mang đến cho người lãnh đạo niềm tự tin và sự kính trọng ở thuộc viên. Người lãnh đạo luôn tin tưởng vào quyết định mình đưa ra và yên tâm với định hướng phát triển vạch sẵn. Đặc biệt, tài quyết đoán còn giúp quốc gia không bị bỏ lỡ bất cứ cơ hội tốt nào. Thêm vào đó, người lãnh đạo không nhất định phải giành chiến thắng, nhất định phải thành công, nhưng nhất định phải làm đúng lúc, đúng việc và sống theo lý tưởng của mình. Thực tế để trở thành người lãnh đạo giỏi không hề đơn giản. Trọng trách đặt trên vai cực kỳ nặng nề đòi hỏi người lãnh đạo cần liên tục cố gắng, nỗ lực để hoàn thiện bản thân. Để dân chủ hóa hiệu quả, người lãnh đạo cần quyết đoán, nhưng không độc đoán hay là kẻ lãnh cảm. Yêu cầu cao nhất là cần có những quyết định chính xác, đúng mức, đúng thời điểm, mang lại hiệu quả cao nhất. Quyết đoán là đức tính cần thiết, mang tính bản lĩnh, so với trực giác và cảm tính; nhằm mang lại hiệu quả, lợi ích cao nhất cho đất nước và dân tộc. Vì công bằng và minh bạch giúp quốc gia phát triển vững mạnh. Người lãnh đạo giỏi với khả năng lý luận logic và suy tư chiến lược nhạy bén. Người làm lãnh đạo cần kết hợp khéo léo giữa tình cảm và lý trí dù người lãnh đạo là người thông minh .nhất, có kỷ năng và tham vọng cũng không thể thành công khi chỉ đứng ở vị trí lãnh đạo. Đặc biệt là với khả năng quyết đoán mới tạo ra kết quả cao; để mang lại thành công tốt nhất, chủ động tầm nhìn và không ngừng thúc đẩy tới khi hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu lực điều hành và khẳng định vai trò pháp quyền trong xã hội. Vấn đề trách nhiệm cũng cần đặt ra cho người lãnh đạo có quyền không đưa ra quyết định, nhưng trách nhiệm và kỷ luật bản thân vẫn phải thể hiện. Việc thiếu quyết đoán có thể dẫn đến đánh mất cơ hội quan trọng làm tăng thêm hệ quả cho sự kiện. Khả năng quyết đoán giúp họ nắm bắt cơ hội, tạo tầm nhìn rõ ràng và kiên định theo đuổi nó. Tuy nhiên, bên cạnh quyền lực, người lãnh đạo cũng cần thể hiện trách nhiệm và kỷ luật bản thân, nếu không sẽ dễ đánh mất cơ hội quan trọng. Tóm lại, nhà lãnh đạo giỏi thì không thể nào không có quyết đoán và tinh thần trách nhiệm cao cả.
Ở các nước phương Tây, tính quyết đoán của người lãnh đạo rất cao và tinh thần trách nhiệm rất nặng, người lãnh đạo dám nhận lỗi, từ chức, chịu trách nhiệm trước pháp luật. Còn ở Việt Nam, thì thường né tránh trách nhiệm, chỉ xin rút kinh nghiệm, nhưng sợi dây kinh nghiệm rút hoài không thấy dứt, không có kết luận rõ ràng, vì không biết điểm cuối ở đâu! Mà trên cũng không chỉ ra cho dưới được, bởi thực sự trên cũng chẳng biết sai là sai cái gì và sai ở đâu? Ở phương Tây, một lãnh đạo khi mới lên cầm quyền, họ dám thẳng thắn phân tách cái sai, cái đúng của người tiền nhiệm trong khi vận động quần chúng bỏ phiếu cho mình; để họ tiến lên nắm quyền, thực hiện theo hầu hết như lời hứa khi tranh cử. Ngược lại, còn ở nước ta, dân chúng cả nước mệnh danh các cấp cán bộ và ủy viên trung ương đảng Cộng Sản Bắc Việt là cấp trên thường đúng, cấp dưới xin kiểm điểm, và văn hóa từ chức gần như không hề tồn tại. Tình trạng này được mô tả là ung thư lãnh đạo – thiếu quyết đoán, né tránh trách nhiệm, tiếp tay cho tham nhũng, bảo vệ lẫn nhau để hạ cánh an toàn. Đáng mỉa mai rằng: cuối cùng chỉ có dân là sai và luôn là kẻ chịu hình phạt thẳng tay! Đó là chuyện thường ngày ở huyện.
3) Cai Trị Theo Hiến Pháp:
Cơ cấu cai trị phải theo đúng tinh thần của Hiến Pháp. Nhà cầm quyền phải bảo đảm sẽ phổ biến sâu rộng trong quần chúng và duy trì một hệ thống quyền lực phải tuân thủ luật pháp minh bạch, công minh và ổn định. Để bảo đảm không ai đứng trên luật pháp – kể cả người lãnh đạo cao nhất. Ngõ hầu phát huy tốt hơn vai trò người lãnh đạo đóng góp tích cực vào những thành tựu chung của đất nước. Muốn nắm vững cơ cấu cai trị; nhất là lãnh tụ lại càng cần phải có một hệ thống luật pháp hoàn chỉnh và chặt chẽ. Như vậy, không một ai ở trên luật pháp hết. Giới lãnh đạo, cán bộ các cấp và người dân phạm tội, đều bị ra tòa chịu tuyên án như nhau. Ngoài ra, giới lãnh đạo còn phải khéo léo hòa hợp với Đạo giáo; để tạo nên một hệ thống trị quốc vừa hiệu quả vừa mang lại tính vững bền. Hiến Pháp không thể là các qui định khô cứng; luật pháp phải có linh hồn và linh hồn ấy chính là Đạo giáo. Vì Đạo là nền tảng lý luận; để hợp thức hóa hiệu năng của luật pháp: không khe khắt quá; mà cũng không lỏng lẻo quá; sẽ chỉ ra khả năng xuất sắc của người lãnh tụ và giới lãnh đạo. Nếu mọi người dân cũng như quan chức đều tuân thủ luật pháp một cách nghiêm chỉnh; thì xã hội sẽ đạt đền trạng thái lý tưởng của trị quốc theo Đạo: vô vi nhi trị như nước sông xuôi nguồn chảy ra biển lớn, theo nguyên lý tự nhiên như nhiên - vô vi mà hữu hiệu. Ở đây, tác giả lạm bàn về Đạo giáo vô vi không phải là không làm gì cả như nhiều người có cái nhìn phiến diện về Đạo giáo là rút lui khỏi thế tục, qui ẩn là phủi tay với sanh hoạt xã hội. Ngược lại, tác giả muốn diễn dịch, lạm bàn theo cách hiểu khác. Vô vi là nghệ thuật cai trị của người lãnh đạo thấu tỏ lẽ huyền nhiệm của vô vi. Đặc biệt là ông không cần làm gì cả; mà chỉ cần một cái nhìn như trời mưa trên mọi mái nhà, mưa trên đầu mọi người, không phân biệt nhà ngói hay nhà tranh, không thiên vị. Không vì tình cảm yêu ghét, nhưng thưởng phạt rất công minh. Từ đó, người lãnh đạo thu hút người tài trí đến giúp mình trị nước an dân. Bởi lẽ ông biết đưa Đạo giáo vào đời thường. Nói khác đi là Đạo đi vào đời. Đời thăng tiến Đạo. Cán bộ thuộc cấp đều biết dựa theo thành quả thực dụng, đối chiếu với luật pháp, mới được cứu xét việc thưởng-phạt; nên họ không dám nịnh; để lập công bất chánh. cũng không dựa vào cảm tình riêng ỷ quyền cậy thế. Nhà lãnh đạo thực sự giỏi là người vừa thể hiện tài lãnh đạo siêu việt, thấu hiểu nhân sự và ứng dụng nguyên lý này, vừa khiến thuộc hạ kính sợ, khẩu phục-tâm phục. Như vậy, người lãnh đạo không bó buộc; mà thuộc cấp phải tự biết giữ mình thanh sạch nghiêm minh và cùng nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế. Một khi nhà cầm quyền với ekip lãnh đạo ưu việt, nhiều tài chuyên biệt có khả năng đạt được cả ba điều kiện trên; thì vai trò và vị thế của Việt Nam sẽ khác hẳn trên trường quốc tế. Điều này mở đường cho sự phát triển vững bền, giàu mạnh và thịnh vượng của đất nước đương nhiên phải đến.
TẠM KẾT.
Về khoảng cách xã hội nhằm xóa đói giảm nghèo trên toàn cõi Việt Nam, nhất là chênh lệch ở khắp vùng đồng bằng có đồng bào Kinh và miền cao nguyên có khoảng 54 sắc tộc gồm dân tộc thiểu số định cư. Tuy nhiên, thực tế những năm qua đảng Cộng Sản Bắc Việt đã đề ra nhiều chương trình phát triển kinh tế xã hội, nhưng kết quả giảm nghèo chưa thực sự đứng vững, các gia đình thoát nghèo luôn đứng trước nguy cơ tái nghèo. Nên hạ tầng nông thôn còn yếu. Mục tiêu giãn dân tầm mức quốc gia hầu dẫn đến xây dựng nông thôn mới. Nguồn lực dành cho công tác giảm nghèo bị phân tán mỏng; nên thiếu hiệu quả; việc thu hút doanh nghiệp đầu tư vào các vùng khó khăn còn hạn chế, Điển hình như Dự án 6 giai đoạn 2021–2025 do Ông Hầu A Lềnh, nêu lên cho thấy rõ tỉ lệ giầu nghèo vẫn cách biệt cao, trái ngược với kết quả báo cáo năm 2023 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Việc thực hiện chương trình phát triển kinh tế - xã hội; với trọng tâm tăng cường tiếp cận thông tin cho đồng bào mình đặc biệt từng bước, hỗ trợ người nghèo thoát nghèo, bằng cách huy động các nguồn lực từ doanh nghiệp, cộng đồng, xã hội để giúp cho người nghèo phát triển sản xuất. Tuy nhiên, an sinh xã hội vẫn còn yếu, hạ tầng ở đồng bằng nông thôn và cao nguyên nói chung, cần được tăng cường, vì khoảng cách lợi tức giữa các vùng khác biệt vẫn còn lớn. ở Việt Nam ứng dụng các nghiên cứu quốc tế phù hợp với từng địa phương để thúc đẩy phát triển đất nước và tiến tới công bằng xã hội.
Thực tiễn quá trình dân chủ hóa trên thế giới đã đem lại nhiều bài học kinh nghiệm có giá trị cho Việt Nam nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng và hoàn thiện thể chế dân chủ làm nền tảng pháp lý cho cả chính quyền lẫn người dân. Đồng thời là cơ sở pháp lý để người dân thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Việc Dân Chủ Hóa Xã Hội toàn diện là yêu cầu cấp thiết, đòi hỏi vai trò quyết đoán giới lãnh đạo, người lãnh tụ. Đặc biệt trong hoàn cảnh khó khăn, nguy hiểm, và phức tạp. Có thể nói, quá trình này bắt nguồn từ những nhu cầu nội tại của xã hội tạo động lực thúc đẩy cho sự nghiệp đổi mới. Hiện nay, mọi sự áp đặt giá trị tự do, dân chủ và nhân quyền từ bên ngoài đều khó thành công, hoặc phải trả giá đắt bằng xung đột và sự mất ổn định chính trị trong nước. Đối với Việt Nam, quá trình dân chủ hóa chỉ thực hiện có hiệu quả trong những điều kiện nhất định. cần gắn liền với việc duy trì ổn định chính trị và dựa trên phân tích phù hợp với cơ cấu cai trị hiện hành. Các giải pháp do chính quyền Việt Nam tương lai có thể đưa ra xuất phát từ thực tiễn chính trị và sáng tạo của chính người Việt Nam. Đồng thời, Việc nâng cao dân trí và hiểu biết pháp luật là điều kiện thiết yếu để dân chủ hóa xã hội. Ngược lại, cơ chế cai trị Cộng Sản nào cũng không muốn dân trí cao; để dễ bề kiểm soát và thống trị. Vì thế, việc thực hiện dân chủ hóa toàn quốc; nhằm bảo đảm quyền của người dân được biết, tham gia giám sát trong khuôn khổ Hiến pháp và thực hành dân chủ bảo vệ lợi ích quốc gia chỉ mang tính hình thức, là bánh vẽ và không bảo đảm lợi ích thực sự cho người dân! Đây là phẩm chất quan trọng của người lãnh đạo, vì quyết đoán thể hiện bản lĩnh, dũng khí và khả năng hành động đúng thời điểm dám chịu trách nhiệm vì lợi ích quốc gia. Quyết đoán là có khả năng đưa ra quyết định nhanh chóng, dứt khoát và có trách nhiệm, dựa trên kiến thức, năng lực và sự hiểu biết thực tế. Quyết đoán khác với độc đoán hay liều lĩnh; nó đòi hỏi sự tự tin kết hợp với tinh thần cầu thị, bằng vào suy xét khoa học; nắm chắc vấn đề, dự đoán đúng xu hướng, tình thế biến đổi. Nhất là biết lắng nghe những ý kiến người khác, kể cả những ý kiến trái chiều và đánh giá khách quan. Người lãnh đạo thiếu quyết đoán biểu lộ thiếu dũng khí, qua thái độ e dè, bảo thủ, sợ sai. Họ chỉ làm theo kế hoạch, lối mòn, tuân theo chỉ đạo một cách máy móc, với ý đồ vụ lợi cá nhân. Ở đây, nếu người lãnh đạo thiếu công bằng, không minh bạch sẽ làm ảnh hưởng đến hiệu quả lãnh đạo và lợi ích chung. Nhất là trong thời kỳ công nghệ cao AI và công nghệ số hiện tại, nó biến dịch nhanh đến độ chóng mặt. Cho nên, nếu lãnh đạo Cộng Sản Bắc Việt ngay lập tức dám thay máu toàn đảng, can đảm quyết đoán việc rút lui liền và dám nhận trách nhiệm mọi sai sót trong quá khứ- trao quyền lãnh đạo đất nước cho người dân; để họ bầu chọn ra người lãnh đạo mới, trẻ trung, mẫn tiệp cấp thời phù hợp cho tiến trình phục hưng, phục hoạt tạo phồn vinh, cho đất nước kịp tiến tới, tiếp nối toàn diện và hùng cường.
Ngô Viết Quyền
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét