Cách nay đúng 40 năm, giữa lúc tôi đang gặp khó khăn trong cuộc sống thì có một người sốt sắng giúp đỡ. Qua trung gian của một đàn anh, tôi được biết anh này, hơn tôi khoảng 10 tuổi. Nhà anh ấy ở Hố Nai mà nếu từ Trảng Bom đi về hướng Thái Bình, Sặt thì lên được một nửa con dốc thì đến nhà anh. Anh này kể cho tôi nghe rằng từ nhà anh đi ngược về phía Trảng Bom, suốt gần một nửa cây số không hề có một ai vá xe đạp, xe thồ. Vì thế nên những ai chẳng may bị xì ruột xe thì phải dắt đi khá xa mới có chỗ vá.
<!>
Anh ấy nói rằng tôi có thể ngồi trước nhà anh, có mái che mát mẻ, mà vá xe, sửa xe cho khách.
Anh ấy có thể hướng dẫn cho tôi khi mới vào nghề Ngày xưa khi còn ở ngoài Bắc, gia đình anh ấy chuyên cho thuê xe đạp nên rất thành thạo việc sửa chữa. Thế là tôi bước vào nghề vá xe kể từ đó.
Một tối nọ, đã quá 8 giờ, tôi và anh chủ nhà đang ngồi trước nhà nói chuyện vặt thì có khách. Anh này đẩy một chiếc xe thồ lên dốc, thấy anh em chúng tôi ngồi nói chuyện thì dừng lại, hỏi rằng có còn vá xe hay không. Chúng tôi mời anh ấy vào.
Theo như anh này kể thì ruột bánh xe trước có lẽ bị lỗ mọt hay sao đó, xuống hơi rất chậm, cứ khoảng 15 phút lại phải bơm thêm hơi. Tôi nạy vỏ ra, thử ruột trong thau nước thì thấy có đến mấy lỗ nhỏ chạy dọc theo mối ép của chiếc ruột.
Tôi giải thích cho anh rằng mối ép quá tệ nên bắt đầu có lỗ xì.
Tôi đề nghị anh ấy thay ruột mới. Anh suy nghĩ một lúc rồi nói rằng nếu tôi có ruột mới và thuộc loại tốt thì thay cho anh ấy, nhưng lại hỏi trước xem giá tiền bao nhiêu, vì sợ mình không đủ tiền.
Tôi cho biết giá, anh ấy có vẻ mừng rỡ, bảo tôi thay giùm.
Xong xuôi, anh chủ nhà bảo tôi bớt cho anh ấy một chút, vì người ta phải vất vả mới kiếm được đồng tiền.
Tôi vâng theo.
Thanh toán tiền bạc xong xuôi, anh đẩy xe thồ có vẻ ngập ngừng như muốn nói một điều gì đó mà còn ngần ngại.
Cuối cùng thì anh bảo chúng tôi rằng chiếc xe thồ này là anh mượn của người quen, có sửa chữa gì thì cũng phải cho chủ xe biết. Do đó, anh muốn xin lại cái ruột cũ để đem về cho anh bạn chủ xe xem, cho mọi việc được rõ ràng. Tôi trao lại chiếc ruột cũ cho anh ấy.Khoảng hơn một tuần lễ sau đó, chưa đến chiều mà anh ấy đã về ngang, trên xe cột ít hàng hoá hơn ngày thường.
Thấy tôi ế khách, đang ngồi ngáp dài, anh ấy đẩy xe vào.
Anh nói với tôi rằng chiếc xe của anh (mượn) dạo này hay tuột xích ra ngoài. Anh ấy nghĩ rằng có lẽ sợi dây xích bị chùng hay là đã quá nhão, nhờ tôi xem giùm.
Sau khi xem xét tất cả mọi thứ, tôi cho anh ấy biết rằng trục giữa hoặc là hai cái nồi đạn hai bên bị mòn không đều, khi đạp thì dĩa đạp đảo qua đảo lại nên tuột xích. Anh nhờ tôi tháo ra xem giùm, cần thay món gì thì thay.
Quả nhiên, chiếc trục cái bị mòn không đều, nhưng hai cái nồi thì còn tốt. Tôi nói với anh rằng nếu thay trục mới loại tốt thì khá nhiều tiền. Nếu anh ấy đồng ý, tôi sẽ ráp cho anh một chiếc trục tuy cũ nhưng còn rất tốt, hiệu Pacific của Đài Loan, bảo đảm xài được lâu hơn trục mới do Việt Nam sản xuất. Anh ấy rất thích, nhưng lại không đủ tiền.
Tôi cho anh ấy thiếu, khi nào có tiền thì trả, tôi sẽ không nhắc.Anh ấy cám ơn rối rít.
Trong lúc chờ đợi, tôi mời anh ấy uống nước và hút thuốc lào. Anh ấy liếc quanh, thấy có một cuốn sách học tiếng Pháp mà tôi để gần đó, cầm lên đọc một lúc rồi nói với tôi rằng ngày trước anh ấy cũng có học tiếng Pháp, nhưng chưa giỏi, xem qua bài mà tôi đang đọc dở dang thì anh ấy không hiểu hết.
Tôi nghe anh ấy nói vậy thì biết anh ấy cũng có chút chữ nghĩa như tôi, nhưng vì tôi đang chú tâm vào việc sửa xe nên cũng chỉ “dạ” cho xong. Khoảng 3, 4 ngày sau đó, lúc trời đã rất tối, tôi đang chuẩn bị đi về thì thấy anh đẩy xe thồ ngang qua. Thấy tôi, anh đẩy xe chậm lại và nói “Anh cho tôi khất nợ thêm ít bữa nữa, nhá?”
Tôi cười, đáp lại rằng “Ít bữa, ít tuần nữa cũng không sao.” Nhân tiện, tôi hỏi anh rằng tại sao hay về trễ như thế thì anh giải thích rằng về trễ thì trời tối, mát mẻ, đỡ mệt hơn là về khi còn ánh mặt trời. Kể từ đó, tôi không còn gặp anh ấy nữa. Tôi nghĩ, có lẽ anh bị người ta đòi lại chiếc xe thồ, hoặc bị bọn du kích bắt, tịch thu mọi thứ nên không còn vốn.
Ba năm sau, chúng tôi gặp lại nhau tại đảo Pulau Bidong, Mã Lai Á. Nhận ra tôi, anh không giấu được sự vui mừng. Kế đến, anh nhắc ngay đến món nợ mà anh còn thiếu tôi. Anh chỉ vào chiếc nhẫn bằng vàng 18 carat mà anh đeo ở ngón tay, nói với tôi như sau. Khi anh vượt biên, vợ anh đưa cho chiếc nhẫn này, bảo rằng khi đến nơi bình an thì bán nó đi lấy tiền mà gửi điện tín về cho vợ con an tâm. Thế nhưng, đã có mấy người đi cùng chuyến tàu gửi điện tín về rồi, nên anh không còn cần gửi nữa. Vậy nên anh sẽ bán nó đi để có tiền trả nợ cho tôi.
Tôi nói với anh một cách thật lòng rằng sang được đến đây là mừng rồi, bao nhiêu nợ nần cũ, tôi đều quên hết.
Anh nghe tôi nói như thế, định nói một điều gì đó nhưng lại thôi.
Chiều hôm đó, tôi chưa ăn cơm xong thì anh đến, rủ đi uống cà-phê.
Anh chọn một quán nhỏ vắng khách ở bờ biển.
Vào thời gian đó, tôi khá túng thiếu, ít khi dám đi uống cà-phê ở quán. Thuốc lá thì tôi chỉ dám mua thứ rẻ tiền như White Horse, Signal. Anh bạn kia thì lại dám mua cả một gói Winston. Tôi nhìn xuống bàn tay của anh thì thấy chiếc nhẫn vẫn còn đó.
Như vậy, anh chàng hồi này có lẽ không còn đói khổ như khi còn đẩy xe thồ. Anh kể chuyện cũ của anh cho tôi nghe như sau.
*****
Một tối nọ, anh về rất muộn,thấy tôi đã đóng cửa ra về rồi. Anh đẩy xe đi thêm khoảng hơn hai cây số nữa thì thấy có một con chó nhỏ xíu bị xe cán nát đầu, nằm chết ở mé đường.
Anh dừng lại, và đứng suy nghĩ.
Con chó này chẳng đáng là gì, liệu không biết anh có nên gọi những gia đình ở đó để báo cho họ biết hay là không. Anh nhìn quanh thì thấy tất cả các căn nhà ở đó đã đóng cửa, tắt đèn. Gõ cửa mà gọi họ để báo tin về một con chó chết thì liệu có nên hay không, vì chắc gì con chó là của họ, và cho dù của họ, có lẽ họ cũng chẳng thiết. Nghĩ như thế nên anh không còn ý định gõ cửa nhà người ta. Kế đến, anh lại nghĩ rằng nếu để con chó chết nằm ở đây, từ bây giờ đến sáng có nhiều xe hơi chạy ngang qua, chắc chắn sẽ cán nát thây nó. Vậy nên anh quyết định nhặt nó đem về nhà mà ăn thịt. Anh rút khúc cây ra chống cho xe thồ đứng đó rồi cúi nhặt con chó chết lên, đặt nó lên trên mấy bao tải rồi tiếp tục đẩy xe đi.
Con chó chết chỉ nhỏ như con mèo, nhưng đối với gia đình anh lúc đó lại là một thứ rất đáng giá. Mấy tháng nay, mấy đứa con nhỏ của anh chỉ ăn cơm độn với tép khô kho mặn. Anh sẽ chặt con chó ra từng miếng nhỏ kho lên cho con ăn, cho có chất thịt bồi bổ hai cơ thể gầy trơ xương. Anh cũng sẽ xin người quen một cây chuối non, đào lấy củ đem về hầm với xương chó, chắc chắn sẽ có một nồi canh rất ngon và bổ dưỡng cho cả nhà ăn được hai ngày.
Anh vừa nghĩ đến đó thì thấy mình đã đến một quán bán chè, cà-phê.
Họ đã đóng cửa nhưng còn đang dọn dẹp, đèn sáng choang.
Anh thấy bà chủ quán, tuổi khoảng ngoài 30, bưng một thau nước rửa chén rửa ly ra cổng đổ xuống đường mương.Bà này chăm chú nhìn vào con chó chết đẫm máu đặt bên trên chiếc bao tải trên xe thồ của anh. Bà ta nhìn anh trừng trừng khiến anh cảm thấy lo ngại. Đẩy xe đi thêm một lúc, anh quay lại nhìn thì thấy bà chủ quán đứng bên cạnh một người đàn ông. Cả hai đều nhìn theo anh,nói với nhau cái gì đó rồi người đàn ông vội vã đạp xe đi.
Chỉ mấy phút sau, một thanh niên chạy một chiếc Honda chở hai tên du kích mang súng M-16 chặn anh lại. Hai thằng du kích xuống xe, một đứa hất hàm hỏi anh rằng, “Mày bắt con chó này của ai đó?" Anh nghe nó hỏi mà choáng váng. Thằng nhóc thua anh khoảng 6 hay 7 tuổi. Nó có cặp mắt rất hung ác.Anh chậm rãi giải thích rằng anh thấy con chó bị xe cán từ lúc nào không rõ, nằm ở mé đường.
Nghĩ rằng để nó nằm ở đó thì những chiếc xe khác chạy qua sẽ cán nát nó nên anh nhặt về, xem còn ăn được chỗ nào thì ăn.Thằng du kích thứ hai hất hàm, “Mày còn nói dối, định qua mặt tụi tao hả?" Anh cảm thấy vô cùng phẫn uất và nhục nhã, nhưng vẫn cố gắng giữ bình tĩnh.
Anh nói rằng nếu không tin anh thì cứ đi ngược xuống vài trăm thước, đến chỗ mà anh thấy con chó nằm chết, thì biết ngay, dấu vết bánh xe có máu con chó vẫn còn rõ ràng trên mặt đường nhựa. Vừa lúc đó thì có hai bà mặc áo dài đen đi đến. Có lẽ hai bà đi nhà thờ về muộn. Anh để ý, dưới ánh đèn thì một bà trẻ mà cao ráo, một bà nhỏ bé đã khá lớn tuổi. Cả hai nhìn anh rồi hỏi đầu đuôi câu truyện.
Anh kể cho hai bà nghe sự việc từ lúc nhặt được con chó chết cho đến lúc bị du kích chận lại và hạch hỏi. Bà lớn tuổi nhìn anh với ánh mắt rất buồn nhưng cũng có vẻ thương xót. Bà quay sang nói với hai thằng du kích rằng bà tin rằng anh nói đúng, bởi vì không một ai đi ngang qua xứ người khác mà dám liều lĩnh đánh chết con chó để đem về ăn thịt. Hai thằng du kích có vẻ bối rối, không nói gì.
Bà cụ nói tiếp, “Tôi xin hai chú, để cho anh này đi về. Ngày mai, ai nhận rằng mình mất con chó, cứ đến nhà tôi, tôi xin trả tiền gấp bốn lần giá trị thực sự của con chó."
Nói xong, bà bảo anh rằng, “Tôi đã xin cho chú rồi đấy. Chú cứ đi về đi, kẻo muộn."
Anh chưa biết nói gì thì ba thằng kia bỏ đi trước. Anh cúi đầu cám ơn hai bà rồi xin phép đẩy xe đi. Được khoảng gần trăm thước, anh quay lại nhìn thì thấy hai bà vẫn còn đứng đó, chăm chú nhìn theo anh.
*****
Gần 10 giờ tối, anh mới đẩy xe về đến nhà. Chị vợ vô cùng mừng rỡ, vì cứ tưởng anh bị chúng nó bắt giam rồi. Anh đẩy xe vào trong nhà, dựng nó dựa vào vách ván rồi rót nước ra ly uống. Anh nhìn hai đứa con đang ngủ say trong màn, chậm rãi kể cho vợ nghe câu truyện, không giấu một chi tiết nhỏ nhặt nào.
Anh kể xong, chị vợ ngồi khóc, còn anh đi lấy chén cơm nguội ăn vội vã rồi ra ngồi bên cạnh vợ. Anh nói rằng anh cảm thấy không an toàn khi đi ngang qua cái xứ đạo đó nữa, vì thế nào cũng có ngày đám du kích kiếm cớ này cớ nọ để bắt anh, đánh anh. Sáng hôm sau, hai vợ chồng đẩy hàng đi bán cho mối quen rồi đem chiếc xe thồ đi trả cho chủ nó. Anh quyết định tạm thời ngưng đẩy xe thồ.
Vợ anh cũng khuyên anh nghỉ vài ngày, rồi thử đi hỏi thăm người quen xem có việc gì làm đỡ một thời gian hay không. Tối hôm đó, anh thức rất khuya. Anh nhìn hai đứa con gầy yếu nằm ngủ bên nhau, vừa thương con vừa cảm thấy ân hận vì đã không lo cho con cái được đầy đủ hơn. Anh ôn lại danh sách bạn hữu trong đầu, định rằng hôm sau sẽ mượn xe đạp đi thăm mấy đứa gần nhà, may ra chúng nó biết ai đó đang cần người làm thợ vịn.
Sáng hôm sau, chị vợ đánh thức anh dậy. Chị bảo anh ở nhà trông nom đứa con lớn, rồi chị bế đứa con nhỏ đi đâu không rõ. Gần trưa, chị bế con về, nét mặt chẳng vui chẳng buồn. Đặt đứa con xuống nền nhà, chị thong thả kể cho anh nghe như sau.Có một chị nọ rất tử tế. Nhà chị ở gần bến xe, đông người qua lại.
Hiện chị cho người ta thuê gian nhà ngoài để đặt hai cái máy may,chuyên may vá, sửa quần áo cho khách. Trước hè thì còn trống, chị cho phép vợ chồng anh ra đó ngồi bán hàng, như khoai luộc, bắp luộc chẳng hạn. Những thứ đó rẻ tiền nên người ta dễ mua, vì không phải suy tính. Bà chủ nhà không tính tiền thuê.
Sau này, nếu làm ăn được thì anh chị có thể làm hẳn một cái sạp bán hàng. Lúc đó, sẽ bàn đến việc cho thuê. Anh rất mừng vì thấy rằng khoai, bắp dễ bán vì nó là thức ăn độn đang thịnh hành. Ngày nào ế thì bưng về cho cả nhà ăn thay cơm. Ngay hôm đó, chị vợ đi mượn được một cái nồi tổ chảng đem về để luộc khoai, bắp. Sau đó, chị đi mua một cái lò bếp đốt bằng mạt cưa. Sang ngày hôm sau, hai vợ chồng bê hàng ra vỉa hè ngồi bán. Tuần lễ đầu, khoai bắp bán khá chạy. Sang tuần lễ thứ hai, hai vợ chồng bán thêm trà đá.Thế là tạm đủ sống qua ngày.
Chưa đến nửa năm sau,hai vợ chồng được một tin mừng rất lớn. Đó là em trai của bà chủ nhà, một thợ mộc khá lành nghề, kiếm được việc làm dài hạn cho một đơn vị của bộ đội trong Long Bình. Anh này cần một thợ vịn. Thế là anh xin ngay cái chân đó. Theo như lời anh kể thì mấy anh bộ đội có vẻ dè dặt đối với ông thợ mộc và anh, chẳng qua là vì cả hai là dân Bắc Kỳ di cư 1954. Tuy nhiên, nói chung thì họ khá tử tế. Thỉnh thoảng, anh xin họ được một ít mỡ bò, ít đinh, ốc, toàn là những thứ của Mỹ để lại, bán ra thị trường rất có giá.
Cuối năm đó, hai vợ chồng anh mua được một chiếc xe đạp. Anh chạy xuống Hố Nai tìm tôi thì được cho biết rằng tôi đã về Sài Gòn luôn, không còn ở đó nữa. Thế là anh vẫn còn mắc nợ tôi. Gần một năm sau, bỗng nhiên anh gặp may. Một người bà con xa của anh ở ngoài Bà Rịa đang tổ chức vượt biên. Bà muốn nhờ anh dẫn giùm mấy người khách từ Biên Hoà và Sài Gòn ra nhà chứa, đợi lúc khởi hành. Nếu mọi sự êm đẹp, anh được ra đi miễn phí chuyến đó. Anh về bàn với vợ. Chị nói rằng đây là cơ hội rất tốt, nên nhận lời và cố gắng sao cho được việc. Vì thế nên cuối cùng anh có mặt ở Bidong và gặp lại tôi.
*****
Hai ngày sau, anh lên hội trường có việc gì đó. Thấy tôi làm việc ở đó, anh có vẻ mừng và muốn nhờ tôi giúp một việc. Anh nói rằng khi mới đến đảo, anh có được Phái Đoàn Hoa Kỳ phỏng vấn sơ khởi. Vì anh là cựu quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà nên họ có hẹn sẽ phỏng vấn anh một lần nữa và nếu không có gì trở ngại, anh sẽ được cho làm thủ tục định cư tại Hoa Kỳ. Anh muốn biết thêm rằng khi nào thì sẽ được họ phỏng vấn, và những thủ tục kế tiếp. Tôi hỏi tên họ đầy đủ của anh, số tàu của anh.
Sau đó, tôi vào Ban Hồ Sơ Định Cư lấy hồ sơ của anh ra xem. Xong xuôi, tôi trở ra nói cho anh biết rằng anh có trong danh sách được phái đoàn Hoa Kỳ phỏng vấn khi họ đến đảo lần kế tiếp. Họ đã ghi như vậy trong hồ sơ của anh. Hơn nửa tháng sau, phái đoàn Hoa Kỳ đến đảo. Anh đến tìm tôi, nói rằng cảm thấy hơi lo lắng.Tôi dặn anh rằng cứ bình tĩnh khi phái đoàn phỏng vấn.Trong phái đoàn có người dễ tính có người khó tính, nhưng tất cả đều làm theo đúng nguyên tắc và do đó, không có ai bị từ chối mà không có một lý do rõ ràng.
Sau đó, theo lời khuyên của tôi, anh đem giấy tờ cho ban thông dịch nhờ họ dịch sang tiếng Anh sẵn, khi nào phái đoàn hỏi thì trình cho họ xem. Anh trở về nhà, một lúc sau thì trở lên với một gói nhỏ. Anh đưa cho tôi xem, thấy có bản Tướng Mạo Quân Vụ và thẻ Căn Cước Quân Nhân cùng với mấy lá thư Quân Bưu. Chính tôi dịch mấy thứ này cho anh. Xem ra, anh cũng khá thâm niên quân vụ, gần 6 năm trong binh chủng Nhảy Dù. Đúng như tôi dự đoán, hồ sơ xin định cư tại Hoa Kỳ của anh được phái đoàn chấp thuận nhanh chóng. Hơn một tuần sau, anh được chuyển sang trại Sungei Besi và sau đó, sang Phi Luật Tân.
Tôi có cho anh địa chỉ một người thân bên Úc, dặn anh là nếu có viết thư cho tôi thì dùng địa chỉ đó, vì tôi có lẽ cũng không còn ở Bidong lâu. Hơn bốn tháng sau, tôi sang Úc định cư, thấy có đến ba lá thư mà anh đã gửi cho tôi.
Tôi hồi âm ngay. Hơn một tháng sau, khi tôi đã có nơi ăn chốn ở cố định thì cũng là lúc mà anh chuẩn bị sang Mỹ định cư. Từ đó, chúng tôi viết thư qua lại cho nhau đều đặn, ít nhất ba tháng một lần.
Mãi đến năm 1996, khi hai đứa con của anh đã gần xong bậc trung học, anh mới dám sang Úc thăm một số thân nhân. Anh ở nhà của họ, cũng không xa nhà của tôi. Vì thế nên tôi có đến chở anh đi thăm một số chiến hữu bên Nhảy Dù. Trước khi xuống Sydney thăm thân nhân rồi từ đó trở về Mỹ, anh có đến nhà tôi chơi khá lâu. Anh kể cho tôi nghe rằng bên Mỹ, các cựu quân nhân Nhảy Dù sinh hoạt rất mạnh. Anh gặp lại một số thượng cấp và đồng đội, cảm động lắm. Tuy nhiên, anh lại không kể về quân vụ của anh, về những trận đánh dữ dội mà thay vào đó, anh kể thêm về cái vụ anh bị hai thằng du kích Hố Nai hạ nhục.
Anh nói rằng lúc đó, bề ngoài anh vẫn giữ được bình tĩnh nhưng trong lòng thì anh căm phẫn tột độ. Anh có ý định rằng nếu chúng nó tiếp tục hạ nhục anh, anh sẽ tung đòn hạ chúng trước khi chúng kịp nổ súng. Đêm vắng, anh có thể băng nhanh vào khu đồi hoang gần đó rồi tiếp tục đi sâu vào rừng. Cũng may mà có hai bà cụ xuất hiện. Nếu không thì... Tôi kể cho anh nghe rằng ở Melbourne có rất nhiều người từng ở Hố Nai, và có một số ở đó từ mới khi di cư ngoài Bắc vào cho đến khi vượt biên. Tôi có hỏi thăm họ về hai bà cụ đó. Rất nhiều người tin rằng họ biết hai bà này. Một anh còn quả quyết rằng bà cụ cao lớn đó có một đứa con đang ở tù cải tạo, còn bà cụ cao tuổi hơn và nhỏ con kia thì có một người em là sĩ quan an ninh, mới bị chúng nó tra tấn đến chết trong một trại tù ngoài Bắc.
Trước khi ra về, anh nói với tôi rằng không ngờ cái vụ anh nhặt con chó chết đó làm thay đổi hẳn cuộc đời của nó, theo chiều hướng tốt. Từ đẩy xe thồ sang làm thợ vịn, đỡ vất vả hơn mà lại không phập phồng lo sợ. Hơn nữa, gia đình anh được no đủ hơn, và cuối cùng là thoát được cái chế độ khốn nạn kia, rồi kéo được vợ con sang Mỹ. Anh nói xong, tôi nhìn lại anh thật kỹ. Tôi nói với anh rằng trông anh trắng trẻo, vui tươi, không còn dấu vết của một người từng còng lưng đẩy xe thồ. Anh cười, nói rằng tôi cũng không còn dấu vết của một người lính ngã ngựa ngồi vá xe đạp trước cửa nhà ngày xưa.
*****
Năm 2015, tôi có ghé qua Hố Nai vài ngày. Tôi có nghe người quen ở đó kể lại rằng khoảng năm 1991, 1992,có một thằng từng là du kích ác ôn ở đó, đi nhậu về khuya, bị xe vận tải cán nát xác cách nhà hơn một cây số.
Họ kết luận, “đó là chết tươi ăn năn tội chẳng kịp". Nói theo kiểu người Công Giáo chúng tôi, đó là một cái chết đáng sợ nhất.
Nguồn fb Khiet Nguyen
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét