Lữ đoàn 1 Nhảy Dù với «Lê Lợi» Lê Quang Lưỡng, 55 Nguyễn Chí Hiếu, 64 Nguyễn Ngọc Đỉnh. Anh Dũng Văn Bá Ninh, Bắc Bình Đoàn Thiên Tuyển, những người đã “nắm” An Lộc trong cơn run của 8000 đạn đại pháo “nắm” và giữ thật vững ở Đông Nam và chính Nam – Những người đã vào An Lộc từ ngã Đồi Gió đã biến thành những kẻ “vô tư cách” vì thiếu điếu thuốc lá trên môi, đã thèm một cây tăm xỉa răng, đã ao ước được cởi đôi giày trong hằng ngàn chiến trận… Và họ cũng đã là “xếp” đàn anh, Liên đoàn trưởng sinh viên sĩ quan của tôi trong một thời gian dài – Thời gian dài như chiếc nón đỏ tôi đội trên đầu, bộ đồ hoa ngụy trang tôi mặc – Tôi phải viết về cho họ – Cách trả ơn của người đã từng hô “Nhảy Dù cố gắng”.
Quê hương bình yên của loài nai
Đường 13 chạy từ ngã ba Chơn Thành đến An Lộc đo được 30 cây số, tiếp tục về hướng Bắc thêm 18 cây số nữa là Lộc Ninh, bên kia biên giới là Snoul, qua Snoul con đường ngã theo hướng Tây Bắc để tiến tới Kratié nằm cạnh bờ Cửu Long nép bên bờ trái của con sông, con đường tiếp tục về phía Bắc để gặp Stung Treng vị trí chiến thuật quan trọng của đường dây ông Hồ từ Bắc vào… Đoạn này cũng được gọi là đường Sihanouk cho có vẻ đại đồng nhưng thật ra cũng chỉ là của anh Hồ Cộng Sản… Khởi đầu cuộc chiến “Đông Dương” đệ nhị, những anh của Trung ương cục miền Nam đã lần mò, tìm kiếm, ráp nối lại con đường, bắt đầu từ dòng Suối Đá, Suối Chà Là, Suối Ma của vùng Bình Long, Phước Long để lần qua biên giới đến những mật “khu” trong tương lai sẽ vang danh theo cùng chiều rộng thế giới: Lưỡi Câu, Mỏ Vẹt.. Năm 1970 quân lực ta đã từ Bình Long, Tây Ninh đồng loạt xua quân qua biên giới, cánh quân cực Bắc của lực lượng vượt biên đã có lần đi xa Snoul để đến gần kề Kratié… Cộng quân tan nát và đổ vỡ toàn thể hạ tầng cơ sở, kho tàng, trọng điểm tiếp liệu và căn cứ trung ương. 2 năm sau, những ngày đầu của 1972, một lực lượng Cộng khác, thứ Cộng nguyên gốc, mới tính theo kế hoạch tinh vi yểm trợ cho mục tiêu chiến lược chính trị từ Bắc vào, xuôi theo đường 13 vượt qua Snoul cùng ào vào Lộc Ninh với 3 sư đoàn chính qui thượng thặng sau khi giàn đại pháo 130 dọn sẵn đường. Sau Lộc Ninh là An Lộc – Và thị trấn nhỏ bé của miền cực đông Nam phần bắt đầu co vào trong một thế gọi là “Tử Thủ”. Địa ngục bắt đầu từ ngày đầu tháng 4/72.
An Lộc không phải là một thị trấn, một thành phố, đúng ra là thị xã của tỉnh Bình Long, đồng thời cũng là quận lỵ quận An Lộc, tức quận Châu Thành của tỉnh. Tỉnh gồm 3 quận: Lộc Ninh cực Bắc, An Lộc giữa và Chơn Thành ở phía Nam. Tất cả cơ sở hành chánh đều nằm trên còn đường 13, con đường lớn phẳng phiu chạy thẳng theo hướng Bắc Nam vạch một đường đen thẫm giữa hàng cao su xanh lá, đường nổi bật giữa lớp đất đỏ nâu mịn màng đẹp đẽ… đỏ nâu cũng là màu máu khô, đường 13, con số của sự xấu – Định mệnh đã định rõ: Con lộ mang số tử thần và có màu máu thẫm – Hai cuộc chiến tranh chứng tỏ có một Thượng đế tàn ác đã xếp đặt sẵn điêu linh cho người. An Lộc, tên nghe thật hiền, hiền như hình ảnh của đàn nai chạy tung tăng trên đồng cỏ tranh mượt sóng, đàn nai no đủ bình yên được che chở bởi tàng cao su im bóng nắng và hàng trăm con suối mang đủ các thứ tên Việt, Miên, Thượng... Những dòng suối đầu tiên ở sông Bé ở phía Đông và sông Sàigòn ở phía Tây. Nằm giữa hai con sông trải dài trên một bình nguyên bao la – Bình Long quê hương của loài Nai, miền Đồng Nai thượng không phải chỉ là một vị thế tốt, nhưng còn là chiếc nôi nuôi dưỡng quốc gia với tiềm năng phong phú – Đầy và rộng trên một chuỗi đồi chập chùng chạy dài đến Biên Hòa, Gia Định.. Đất giàu đẹp và uy nghi bát ngát như hãnh diện của quê hương. Nhưng đúng là quê hương khốn nạn, quê hương gắng chịu tai ương của nhân loại, quê hương nguy khốn, ngặt nghèo… quê hương lửa dậy và đạn nổ chém gẫy cây rừng, khô lá nõn. Lửa dậy và Bình Long hừng hực tro bay, sự sống không còn trên trái đất.
Vòng vây thật chặt
18 khẩu 105, 6 khẩu 155, một pháo đội 130, Đại đội súng cối từ 82 đến 120 ly, rừng hỏa tiễn 107, 122 và bao nhiêu vị trí phòng không từ 12 ly 7 đến 20 ly, 3 công trường 5,7,9, tăng cường thêm công trường Bình Long, được yểm trợ bởi 2 Trung đoàn 202 và 203 Thiết giáp, Cộng quân bọc một vòng đai thép chung quanh An Lộc từ sân bay hay “Quán cà phê Hương giang” đến Bãi trực thăng B15 “Khánh Ly” chiều dài đo đúng 1 cây số 800 thước và bề ngang từ cửa Phú Lỗ về cực đông tối đa được 700. Đó là vòng đai lớn, những ngày nguy khốn vòng phòng thủ phía Bắc cong xuống đến đường hoành độ 88: Chu vi phòng thủ không quá 400 thước vuông – An Lộc, vòng vây ngột ngạt nhất trong chiến sử nhân loại.
Vòng vây siết quá chặt, “tăng” đã vào thành phố, thị xã mất trong từng giờ trôi qua, bộ Tư Lệnh Quân khu 3 quyết định xin tăng phái quân trừ bị. Sư đoàn TQLC ở mặt trận Trị Thiên, Lữ đoàn 2 và 3 Dù đang hành quân Tam biên nên Lữ đoàn 1 với 3 Tiểu đoàn thực dụng hành quân 5, 6, 8 cùng Tiểu đoàn 3 Pháo nhận vùng trách nhiệm An Lộc cùng 60 cây số đường dài Lai Khê – Chơn Thành – An Lộc – Thành phố lửa nằm cuối con đường máu. Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù phải đi hết đoạn đường này để đến địa ngục ở phía Bắc. Chiếc nón của binh chủng thêm một lần thấm đỏ máu tươi, và chuỗi băng tang đằng sau sẽ dài hơn trước – Vinh quang đầy cay nghiệt đang chờ, lính Nhảy Dù nhập cuộc.
Vạch một đường đi
– Con đường quá dài, tụi nó có đủ yếu tố chiến thuật: Địa thế, nhân số, hỏa lực để chơi mình, chơi bất cứ lúc nào, ở đâu nếu “nó” muốn. Mình có 3 Tiểu đoàn, nghe thì nhiều nhưng không có được bao nhiêu, không thể tập trung lực lượng được, mình phải phân tán, mục tiêu lại quá xa. Đây này – «Lê Lợi» đo gang tay trên bản đồ: ”4 gang, 60 cây số.” Di chuyển trên một hành lang hẹp bề ngang không rộng đến 2 cây số với chiều dài như thế cũng như đi vào vòng ghế điện... Nhưng nhiệm vụ phải thi hành khẩn cấp, mình chỉ có được một đường, dọc cái đường “khốn nạn” này, vậy mình đi kiểu chân chim: Thằng 8 (Tiểu đoàn 8) đi trước, đóng quân ở chỗ nầy, xong thằng 5 sẽ vượt theo đường cũ leo cao hơn... Thằng 6 sẽ đi sau hết. Pháo sẽ đi theo thằng 5 ở bước đầu, 8 ở bước sau, giai đoạn 1 lấy mục tiêu là Bầu Bàng, 2 là Chơn Thành. Đến Chơn Thành lập được thêm đầu cầu phía Bắc mình sẽ qua giai đoạn 3.
Các Tiểu đoàn trưởng cùng gật đầu, không còn chiến pháp nào hơn “bước chân chim” nữa được, 3 Tiểu đoàn chỉ vừa đủ để lập một đầu cầu trong chiến tranh với đơn vị căn bản là 1 trung đoàn. 3 Tiểu đoàn Dù phải “gồng” mình đến giới hạn chót để chiến đấu. Châm ngôn của binh chủng thế mà hay, “cố gắng” làm được công việc khiêm nhường này cũng đủ đáng đồng tiền phụ cấp. Tại sao binh chủng không lựa những châm ngôn “lớn” như Tổ Quốc Không gian – Danh Dự Quân lực – Vinh Quang Biển cả v.v… Sao chỉ là “cố gắng?“ Cố gắng hoài đến bao giờ mới hết?
Câu chuyện khôi hài chấm dứt buổi họp. Các Tiểu đoàn trưởng bước về nơi đóng quân – 3 Trung Tá, không thể có khuyết điểm nơi những người này trên phường vị Tiểu đoàn trưởng.
Ngày 7 tháng 4, Tiểu đoàn 8 vượt tuyến xuất phát, lấy con đường làm chuẩn, hai cánh quân cùng tiến song song đội hình mở rộng không quá 300 thước cho mỗi bên, đến ngang hoành độ 48 dừng lại. Tiểu đoàn 5 vượt qua mặt tiến lên, lục soát vừa phải, cố mở đội hình rộng mấy trăm con người của Tiểu đoàn chìm hẳn vào màu xanh đậm cứng của rừng. Tiểu đoàn Trưởng Nguyễn Chí Hiếu kẹp sát ống liên hợp vào mang tai, linh cảm có những trầm trọng sắp xẩy đến? 12 năm chiến trận đã tạo thành những trực giác bén nhậy. Rừng cao su im lìm – Địa thế quá lý tưởng cho một cuộc phục kích. Súng nổ, thoạt đầu chỉ có tiếng AK ở hướng đầu hành quân, nhưng không đầy 5 phút, 5 phút ngắn chưa đủ để xua người lính chạy quá một gốc cao su, cối và pháo binh nổ… Hiếu đo lường thật nhanh hỏa lực của địch: Phía trái, dọc đường rầy có nhiều tiếng súng cá nhân, cánh quân trái phải đánh ngay vào để bám sát mới tránh được pháo… Đúng như anh ước tính, tiểu đoàn Cộng nằm một hàng dọc trên mô đất của đường xe lửa cũ đang thực tập tác xạ và lính Nhảy Dù xung phong vào trái, chỉ còn một đường nầy. Cộng quân không bỏ vị thế tốt, trận đánh dằng dai ngang ngửa, một nửa ngày qua, lính Bắc rút đi… Thương binh nằm chật rừng cao su, dựa lưng vào thân cây… Hiếu nhìn bản đồ: Bàu Hót, tọa độ 780510. Từ đây đến An Lộc còn bao nhiêu cái bàu nữa… Chiến trường mới qua một ngày – Món ăn chơi đầu tiên đã khó nuốt.
Từng cây số một bước lên, độ cao cứng rắn của chiến trường càng rõ, gần đến Chơn Thành rồi, đã “ngửi” được mùi địch, địch cùng pháo và cối, chắc sẽ đầy đủ và mãnh liệt hơn Hạ Lào; và Hạ Lào, rừng phòng không nhân tạo tua tủa như cây trời. «Lê Lợi» nặng mặt, khoảng trán cao nhăn nhăn mấy cái:
– Quyền, cố gắng xin mấy cái trực thăng để ngày mai mình “thẩy” thằng 6 lên Chơn Thành và cho lục soát ngược về.
Hôm nay là ngày thứ hai (8/4) của kiểu “chân chim”, nếu cứ tiếp tục thêm một ngày nữa, Cộng quân không tiếc gì để “chặt chân”, phải có một kế hoạch khác: lục soát ngược lại. Quyền nhìn “xếp” thán phục. «Lê Lợi» quả là con beo thật, một con beo gấm già không chút sơ hở.
Nhưng hy vọng của «Lê Lợi» vỡ tung như bong bóng nước dưới trời mưa nặng hạt. Tiểu đoàn 8 vừa đặt chân qua hoành độ 72 cách Tàu Ô 1 cây số 300 thước thì đụng. Cộng quân không thèm ngụy trang che giấu, ngồi sẵn trên đường tay ngoắt mõm kêu “ngụy”. Nhưng lực lượng Cộng không phải chỉ là thành phần ngồi trên đường đó, đấy là lực lượng biểu dương. “Tụi mất dạy” chính cống nằm dọc bên tay trái, nằm đầy bên tay phải dưới giao thông hào, dưới công sự có nắp ngụy trang kín mít. Nhưng nếu là bộ binh không thì nói làm gì, kẻ “cừu nhân” độc địa hơn mới đáng sợ: Pháo và cối. Thôi rồi, «Lê Lợi» run tay, chiếc combiné ép vào tai nghe báo cáo:
“Bắc Bình” Đoàn Thiên Tuyển, Tiểu đoàn Phó Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù nói nhanh như khi bốc con bài thứ 5. Tuyển cũng là Tuyển “Táp”. Hỗn danh nghe thì kinh, nhưng lại là người nhỏ con, vui tính, nhanh như sóc, “táp” chỉ là một tĩnh từ để mô tả chân dung người thêm xác đáng. Tuyển lại tiếp tục báo cáo:
Vừa báo cáo với Lữ đoàn trưởng vừa điều động các đại đội, Tuyển nói như một cái dĩa chạy quá tour. Tuyển “Hỏa Tiễn”, thêm một biệt hiệu khác theo với tên anh.
– Trình «Lê Lợi», tôi chưa kịp có vị trí, pháo binh cũng thế và tụi nó pháo quá dữ – Dạ, pháo từ xa, cối gần hơn B40, 75 không giật thì chỉ cách tôi dưới 100, dứt.
«Lê Lợi» thả combiné xuống – Sự kiện bắt buộc xảy ra, không thể tránh theo chiều nào được. Pháo không phải từ một vị trí, pháo trận địa, pháo “vùng”, pháo TOT (Tác xạ tập trung bắn từ nhiều nơi) và chính ngay tại Chơn Thành, PC của «Lê Lợi» cũng bắt đầu “lo”. Lại pháo nổ xuống…
Ngày 13, tình hình như c… Thằng 8 bị vây, thằng 5 bị pháo và Chơn Thành thì nhúc nhích không được. «Lê Lợi» vất bỏ cái máy, ông không muốn nghe thêm một chữ nữa – Đại Tá Đức, Thiết đoàn trưởng phối hợp hành quân chết – chiếc trực thăng vừa bốc lên khỏi cao độ hơn 10 thước, viên đạn oan nghiệt kết thúc đời người anh hùng mũ đen – Đại Tá Đức, mắt sáng nụ cười tươi, hàng ria mép đen nhẫy vừa mới phút trước đây còn anh tôi hàn huyên thân ái, mới phút trước đây: Anh để tôi lên xem “thằng con” như thế nào… Chết rồi, người bằng hữu lừng lững đi vào hư không. Đại tá Lưỡng cúi mặt xuống. Con beo gấm thất thủ trước chiến trường vuột tầm tay.
Chiến trường trở nên xấu hơn khi Tiểu đoàn 5, nơi có vị trí pháo binh báo cáo hết đạn.
– Vậy thì gọi về Lai Khê, bảo thằng Thu (Ban 4 của Lữ đoàn) qua nói với tiền trạm Tiểu đoàn 5, cho người hướng dẫn đem một xe đạn lên đây để tiếp cho “thằng cha” nó.
Trung sĩ Hoàng Thi, Thường vụ Tiểu đoàn lãnh nhiệm vụ áp ải xe đạn từ Lai Khê đến Chơn Thành và từ đây một mình một súng, Thi làm “độc hành đại bảo tiêu” đi 4 cây số hay đường hầm Tử thần để giao đạn cho đơn vị…
Đến Chơn Thành, Thi mượn máy Lữ đoàn liên lạc với Tiểu đoàn trưởng:
– Trình đích thân, em đã tới nơi của «Lê Lợi», bây giờ em đem kẹo lên.
– Không được, đang đánh nhau tùm lum ở đây, dọc đường lại đầy tụi nó đi sao được…
– Dạ em nghĩ tụi nó có là để đợi phục kích các đơn vị đâu phải phục kích một chiếc xe, em chạy cái ào sức mấy nó bắn kịp…
55 Nguyễn Chí Hiếu đồng ý, hết đạn chỉ còn trông vào sự may rủi đặt trên can đảm của người Trung sĩ này. Thi leo lên xe GMC, gã tài xế thuộc đại đội quân vận tăng phải nhăn nhó:
– Trung sĩ, đường đang đánh nhau làm sao mình đi được.
– Đồng ý là có đánh nhau, nhưng nó đâu ngờ được có một chiếc xe GMC chạy lên trong giờ phút này, mầy xả hết ga, xa lộ mà mầy, sợ gì, tao cũng vợ 3 con chứ đâu không sợ chết.
– Lỡ có mìn thì sao?
– Có mìn thì mìn chống chiến xa ở vệ đường thôi, mầy cứ nghe lời tao, ào một cái chẳng can chi… đ.m... mầy không lái thì tao lái.
Chiếc xe GMC đội pháo rời khỏi Chơn Thành với tốc độ 70 cây số một giờ. Người Kinh Kha tân thời mang lon Trung sĩ bỏ cần tác xạ khẩu đại liên 60 vào vị trí suto…
– Đấy cứ chạy như thế, mày có chết thì cũng chết sau tao, sợ gì em…
Gã tài xế không nói một tiếng, chân ga lút cán chiếc xe không phải chạy nhưng bay trên lớp nhựa đen, hai bên đường đạn AK và B40 thổi tưng bừng. Trật hết cả, mầy thấy chưa có thằng nào dám ra đường đón mình đâu. Thi bắn khẩu đại liên theo hướng trước mặt, chiếc quan tài di động chứa đầy đạn thoát đi như phép lạ… Nhưng Thi không bao giờ đến với “gia đình” được, một toán Việt Cộng được báo máy chạy túa ra đường chận chiếc xe.
– Làm sao Trung sĩ ? ?
– Phóng thẳng đè qua tụi nó….hết ga luôn.
– Trình Đại bàng, em cố đưa đạn lên nhưng không được…
8 bị vây kín, 5 bị pháo cô lập, Tiểu đoàn 3 Pháo binh tê liệt, vị trí dã chiến chưa có đủ thời gian để chuẩn bị. Lữ đoàn và TĐ 6 ở Chơn Thành kẹt cứng trong vòng đai chi khu. «Lê Lợi» thiết kế cùng với thiết đoàn 1/5 bung rộng qua phía Đông để tấn công lên hướng Bắc. Hai chiến xa mở đường vừa vào chưa được 3 cây số bị kẹt cứng bởi hệ thống đầm lầy, suối con, bàu nước đan vào nhau chằng chịt… 2 ngày dậm chân tại chỗ đi qua. Tàu Ô, con suối chỉ hơn 4 cây số sao quá khó khăn để đến đôi mắt người chỉ huy chớp liên hồi. Tránh hết sức cũng không được, mình vào bẫy của nó… Bộ óc chiến trận xoay hoài trên cái trục mang số 13. Nếu mình đừng bị lệ thuộc vào con đường chắc sẽ xoay trở được.
Rút tất cả về lại Chơn Thành giao vùng trách nhiệm và con đường “khốn nạn” lại cho Sư đoàn 21. Lữ đoàn nhận nhiệm vụ mới. Đại tá Lưỡng thở hơi ngắn: Bỏ được đường 13 thì tốt rồi nhưng nhiệm vụ sắp tới sẽ như thế nào? Những đường nhăn lại vạch thật đậm trên vầng trán. Ngày thứ 8 của chiến trường khối óc chưa một giờ ngừng nghỉ, chưa một phút được nghỉ, đúng chính xác như thế – giấc ngủ chập chờn những hình ảnh xô bồ, náo động và đỏ cháy những lửa – Người Lữ đoàn trưởng đưa tay lên bóp bóp hai thái dương – Ngày hôm kia “thằng Bảo” lại chết! Đại tá Lưỡng “cứng óc” trong một khoảng thời gian. Cố Đại tá Nguyễn Đình Bảo, người đàn em thân yêu của ông tử trận ngày 12/4 tại Charlie, Kontum.
Nhẩy trực thăng – Nghề của “Lê Lợi”
Buổi họp tại Trung Tâm Hành Quân căn cứ Lê Khê đưa đến kết luận: Bằng tất cả mọi giá, phải đưa Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù vào An Lộc. Sáng ngày 13 lúc 7g 15, T54 đã đến sát hầm chỉ huy của Tướng Hưng. Vào An Lộc bằng đường bộ sẽ quá chậm trễ…” Chính cá nhân Đại tá Tư Lệnh phó Sư Đoàn 5 cũng phải thủ một khẩu M72…” Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù phải vào An Lộc trong thời gian ngắn nhất. Tướng Minh Tư Lệnh Quân Khu 3 đưa mắt hỏi ý kiến Tướng Đống trong việc ném “thằng 1” vào An Lộc… E ngại, điều này không phải cảm nghĩ riêng của mỗi người nhưng là tình trạng chung của các cấp chỉ huy: Đưa 1 đơn vị vào trong rừng phòng không, các bãi đáp đã có đủ yếu tố tác xạ, tối thiểu cũng do 1 pháo đội đại bác trách nhiệm: Nhưng chỉ còn biện pháp này.
– Thế nào Lưỡng, nhảy không? Nghề của ông mà!
– Nhẩy thì cũng nhảy Trung tướng, nhưng phải cho tôi đi một vòng để tìm bãi đáp. Khó là lúc đáp xuống, nếu xuống được thì nhất định tôi vào được.
Chiếc trực thăng chỉ huy ở một cao độ lạnh người lượn vòng thứ 5 trên An Lộc. Đại tá Lưỡng hỏi Thiếu tá Quyền (sĩ quan hành quân):
– Thấy cái đồi ở phía đông nam không?
– Thấy, Đại tá.
– Chỗ đó!!
– Vâng, Đại tá, mình đi thêm một vòng để thấy cho rõ…
Chiếc trực thăng lại chao đi thêm một lần nữa, nhầm lẫn hớ hênh là mua đứt mạng sống của bao nhiêu người và đổ vỡ hẳn kế hoạch tăng viện, tất cả đều do phút này quyết định.
– Đây tao sẽ cho xuống ở đây. Ấp tên gì lạ quá?
– Dạ ấp Srok Ton Cui, có lẽ là tên Miên.
– Ừ, cái ấp đó nó sẽ được dãy đồi ở Tây Bắc che giấu, trực thăng khi vào vùng bay sát ở dưới lên, tránh được “đề lô” tụi nó quan sát. Hơn nữa, không bao giờ tụi nó nghĩ mình dám đổ quân ở phía Đông. Nó giữ chặt phía Nam vì phía đó cũng là đường về của mình. Mình nhảy nơi cái ấp đó, xong chiếm ngay mấy ngọn đồi, vậy là giữ được đầu cầu, phải cẩn thận trong thời gian đầu tiên…
– Vâng, Đại tá.
Quyền không bàn điều gì thêm. «Lê Lợi» “đánh hơi” chiến trường không chút sơ hở…
– Anh Năm nếu không vì hàm râu quai nón mang lon Trung úy vẫn còn vừa!
Nhưng Đỉnh không “con” chút nào trong trận địa. Khoá 15 Đà lạt, từ đầu cuộc chiến, lon lá lên toàn ở mặt trận, kinh nghiệm dày như khi mới rút con “thứ ba” đã chịu quay vì biết nó có đôi xì “kít” trong khi mình có đôi đầm mặt. Quan Năm Đỉnh không thua người một chút nào dù với khuôn mặt quá trẻ. Các em mê ở chỗ này nhưng cũng là “nhược điểm” đau khổ nhất của người. Chỉ có trời và vợ biết. Đỉnh xua liền thằng Vinh lên đồi…
– Để em xin trong An Lộc bắn ra mấy trái trên đó lên cho chắc ăn.
– Đừng để lính biết, bảo lính đào hầm nhanh lên, chiều rồi, xong mầy ở luôn lại đây.
Phương Tây đỏ lửa : An Lộc
Tiểu đoàn xuống đủ, E hay “Đồi Gió” biệt danh được đặt cấp tốc, giờ đây là gió lửa, gió nhân tạo đầy mảnh thép, ầm vang tiếng nổ.
– Gắng ở lại đây nghe em, tao xuống dưới kia. Có cái ấp dễ tải thương kín đáo hơn. Mầy thâm niên nên coi thằng 1 (Đại đội 1) ở bên E2 luôn.
– Tôi nghe Trung tá.
– Nón đỏ, nón nâu đây, đói, khát quá…
– Nghe rõ, bạn gắng đợi ngày mai, bây giờ quá chiều tôi qua bạn không được.
Vinh nghe được một tiếng thở dài thật mệt qua không gian truyền ngữ như vậy không hiểu mình sau này có khá hơn được không?
Ngày 15/4 BCH/Lữ đoàn, Tiểu đoàn 5 và 8 cũng xuống bãi đáp cũ bình yên. «Lê Lợi» leo lên đỉnh Đồi Gió họp 2 Tiểu đoàn trưởng 5 và 8:
– Mình đi liền, anh Ninh (TĐ8) đưa thằng con vào An Lộc, nhưng khoan vào hẳn, anh tới ngang chỗ con suối thì ngưng đợi tôi. Tôi và Hiếu (TĐ5) vào ấp Sóc Gòn, mình dọn đường vào cho thật sạch, có gì còn bung ra lại để đường đơn vị khác sau này vào cho dễ dàng. Đồi Gió – An Lộc, 4 cây số trên những cao độ thoai thoải, qua khu rừng cao su Phú Hòa, nếu muốn đi chỉ mất khoảng 2 (?) giờ (?: chữ mờ, người đánh máy đoán không được bao nhiêu giờ), đi với lục soát cẩn thận – Cẩn thận, «Lê Lợi» vượt xa đức tính quí giá này hơn nữa – Ông thấy rõ cái “chật” của chiến trường, trước khi vào cái bẫy bắt buộc, không quên mở rộng tối đa không gian cho đơn vị – Muốn đánh nhau phải có một chiến trường – An Lộc không phải là vị trí tốt để tác chiến, cái túi thụ động ngột ngạt, ông muốn có trời xanh và khoảng trống để các “đứa con” sẽ tung hoành hết kích thước của lính Nhẩy Đù. An Lộc là cái bẫy – Đại Tá Lưỡng ngần ngại khi bước chân vào thành phố này – Nhiệm vụ chiến thuật của một Lữ đoàn đến đây bị chặt hết khả năng vùng vẫy… Nhưng nhà binh và nhiệm vụ là những điều bẳt buộc, ông chỉ là một sĩ quan trung cấp. Chức vụ Đại tá một Lữ đoàn có là bao so với cuộc chiến.
Chiến trường quá “khổ”
Từ Đồi Gió, Lữ đoàn chia làm hai cánh quân chính do «Lê Lợi» chỉ huy “xấn” 2 đứa con 5, 8 vào với An Lộc. Cánh thứ 2 gồm Ngọc Long (Lữ đoàn phó), Tiểu đoàn 6, một pháo đội TĐ3PB... ở lại Đồi Gió. Toán quân này sẽ có vinh quang và tàn khốc riêng. Tiểu đoàn 6 Dù chỉ trong thời gian “chưa tàn điếu thuốc” của cuộc chiến dằng dặc sẽ đi từ cực điểm này đến cực điểm khác, những điểm thấp và cao nhất của chiến sử đơn vị. Tiểu đoàn 6 hậu thân Đơn vị Nhảy Dù lừng danh nhất của Quân Đoàn viễn chinh Pháp và cũng như định mệnh đặt để: Nó sẽ đến chót đỉnh Vinh Quang như “số 9” tiềm ẩn trong nó hoặc đi sâu xuống hẳn vào kinh hoàng khốc liệt mà không thể có đơn vị bộ chiến nào vượt nổi. Chuyện Tiểu đoàn số 6 sẽ được nói sau. Chúng ta đi theo cánh quân của «Lê Lợi». An Lộc một đoạn trường đang chờ đợi với tột đỉnh khắc nghiệt. Điểm dứt hơi chiến tranh Việt Nam.
Một lần, hai lần, không vào được – Rút quân ra, phải đánh bom mới được, tụi nó tổ chức phòng thủ cả nửa tháng. Súng tay mình không phá vỡ nổi. 20 phi tuần khu trục Việt Nam, chiến đấu cơ của Mỹ cũng phụ lực tham chiến, bom đánh suốt ngày. Buổi chiều, Tiểu đoàn “dứt” mục tiêu. Ấp hình lục giác bây giờ biến thành thập, thập nhị giác hay không còn một hình khối nào nữa… 300 thước vuông nhận hơn 30 “pass” bom vừa tây và ta đã biến thành một đống vỡ vụn, cây trốc gốc; nhà bốc cháy… Nhưng so với An Lộc bên cạnh, ấp Sóc Gòn chỉ là lò than nhà.
Ngày 17/4, Tiểu đoàn 8 qua suối Quảng Lợi, vượt đường xe lửa, trời chưa sáng, 4 giờ, ánh sáng tím của đêm bước qua ngày nhập nhoè trên tàng cây. Lữ đoàn cùng Tiểu đoàn 5 cũng rời bỏ ấp Sóc Gòn tiến song song với 8 dọc theo đường 303 vào An Lộc.
8 Dù vào thẳng không trở ngại, đến ngay vòng đai An Lộc lúc 7 giờ sáng.
– Nhảy Dù! Nhảy Dù! – Người lính Địa phương quân gác ở vọng canh cực Đông nhảy vọt lên khỏi hố, anh ta báo hiệu cho những người bạn bên cạnh… Pháo địch rơi xuống 2 trái, một ở chi khu, một ở B15, người lính liền xuống hầm. Trước mắt lính Tiểu đoàn 8, An Lộc không còn sự sống.
Cánh quân Tiểu đoàn 5 khựng lại ở đường rầy không thể dùng phi pháo, muốn dùng cũng không có... Tiểu đoàn ngừng lại đưa 1 đại đội lên đánh, phải đánh theo lối đặc công, địch ở hầm quá sâu.
13 giờ, Đại Tá Lưỡng bước chân hẳn vào vòng đai An Lộc:
– Không còn gì hết Quyền hả ?
– Vâng, kinh thật, tôi không thể tưởng tượng nổi.
Hai người trao nhau câu nói ngắn, lính phải phân tán thành từng toán nhỏ di chuyển từ hầm này sang hầm khác. Chỉ là một cách để gây tự tin và khỏi thiệt hại vô ích. Địch có tiền sát viên ở các cao độ phía Bắc điều chỉnh vào toán quân từng trái đạn chính xác như để bi vào lỗ… Thêm một số bị thương, chẳng thấy được mặt Cộng Sản như thế nào!
Đại tá Lưỡng mượn chiếc xe Jeep của Liên đoàn 3 Biệt Động Quân do Quyền lái chạy như bay trên mặt đường lởm chởm hố và vương vãi xác người… Tướng Hưng còn 2 hộp bia và 1 chai bia lớn, mở ra lập tức.
– Mời anh Lưỡng… tốt quá, có được anh, tôi vững tâm.
Đại tá Lưỡng uống hớp bia cuối cùng của Tướng Hưng. Ông Tướng mới nhất của quân lực cố nở nụ cười tươi trên khuôn mặt tan nát vì lo âu “có anh, tôi mừng lắm”.
– Chào Chuẩn Tướng, tôi về để lo điều động mấy đứa con, tôi sẽ “clear” và giữ hướng Nam.
– Đúng vậy, anh gắng cẩn thận…
Trên xe đi đến BCH Tiểu khu nơi Đại tá Nhật (Tỉnh trưởng Bình long) «Lê Lợi» hỏi Quyền:
– Mầy biết tao vào An Lộc bằng cách nào không ?
Quyền không hiểu ý câu nói, anh đưa mắt hỏi thầm.
– Tao vào bằng lưng, chân bị vọp bẻ quá, tao phải xoay lưng đi ngược vào An Lộc… Cái mặt mà sưng bằng cái lưng là điềm không khá, khó lắm đó mầy.
Quả thật rất khó hơn mọi khó khăn mà Lữ đoàn đã gánh chịu từng bao nhiêu năm. Mậu Thân thành phố Huế bỏ ngõ. Cộng quân vây chặt trùng trùng, điểm kháng cự chót là Mang Cá với Tướng Trưởng lặng cứng âu lo… Đại tá Lưỡng đã một lần vào thành phố cuối đáy tuyệt vọng như thế, nhưng dù với Tiểu đoàn 7 Dù đã bị phục kích nát ngay tại cửa An Hòa, ông vẫn còn Tiểu đoàn 2 và 9 để nới rộng vòng đai chiến đấu của Sư đoàn 1 ra đến Tây Lộc cửa chánh Tây, cửa Thượng Tứ. Mậu Thân cũng không phi pháo chỉ với những đứa con bị thiệt hại trầm trọng ông vẫn vùng vẫy, vẫn bung vẫn xấn tới vào mục tiêu. Và Hạ Lào ngày ngày bay trên lưới đạn, không phải chỉ một tấm lưới nhưng hằng hằng lớp lớp đạn phòng không đan chặt trời cùng đạn pháo binh với đầu nổ cao gây những đóa hoa chết đầy không gian… Đại tá Lưỡng đã qua những chiến trường nặng độ như thế nhưng vẫn trở tay được, vẫn tìm được một đường chiến đấu. An Lộc điểm dứt hơi chật chội, lính Nhảy Dù đang nằm dưới một vòm lưới khổng lồ. Ném thằng 8 qua phía Tây thành phố xong băng xuống chính Nam…
– Anh cho tối thiểu cũng phải 3 đại đội ra khỏi hàng rào mới làm ăn được, giữ trong nầy thì bó tay mình, vô ích.
Trung Tá Văn bá Ninh gật đầu nhận lệnh, ông cũng đồng quan niệm. An Lộc quá chật và thụ động.
Tuyến “Hoả Tiễn” và Tăng
Tiểu đoàn 8 trừ gồm 3 đại đội do Tiểu đoàn Phó Tuyển sau khi đến hàng rào cực Tây, trở hướng tiến về phía Nam ra khỏi hàng rào An Lộc. Trước mắt đoàn quân, con đường 13 vắng lặng như khối vật chết, rừng cao su xanh thẫm, lớp đất đỏ nâu sậm – cảnh vật hấp hối lặng lờ nặng chĩu – Tai ương đè lên mỗi phân đất mà người lính bắt buộc phải dẫm lên – Di chuyển trên một bãi mìn cũng căng cứng bằng thế này mà thôi… Lực lượng nầy cũng đang di chuyển qua một bãi mìn di động: mìn không gian, mìn được phóng từ nơi xa, nổ chụp lên đầu… 1200 thước 3 đại đội Tiểu đoàn 8 đi mất buổi chiều… Không phải đi nhưng di chuyển theo một chiến thuật quái dị, di chuyển từ một gốc cây, di chuyển theo lối cóc nhảy, lối loài bò sát của côn trùng sâu bọ; 1200 thước An Lộc – Ngã ba Xa Cam, 3 đại đội đi trên một dây tử thần đã bị cắt đứt ruột… Đóng quân, tung quân lục soát và đụng… Mỗi lần đụng là một lần thiệt hại, Tiểu đoàn 8 tưởng như không có một đời sống nào khác hơn là sự chết đang bao trùm. Mỗi cuộc tấn công địch dùng 2 trung đoàn, 2 trung đoàn được yểm trợ tối đa pháo binh – Pháo binh với 105, 155, 130 bắn tối thiểu cũng từ 6 vị trí trở nên lên ụp xuống… làm sao để phản pháo và lấy gì để phản pháo – khẩu cuối cùng của An Lộc đã bị phá hỏng, chỉ còn ổ súng cối Nhảy Dù nhưng súng cối chỉ là để phòng thủ, tự vệ đâu phải là pháo binh để dọn đường cho cuộc phản công.
– Bắc Bình lên ngay dùm tôi, bên phải tôi trống quá.
– Tôi biết, bên này cũng bị kẹt, bây giờ chỉ bắn che cho anh thôi…
– Vâng, Bắc Bình cứ bắn như thế …
Đó là những lời nói cuối của Vân, Trung úy, thành phần “chóc” của TĐ8. Vân bị một trái 75 chém đứt cánh tay, máu chảy từng đường lớn, sức lực nào để chống nổi với cái chết đang ào xuống, máu chảy đến giọt cuối và Vân đi khuất.
Tiến không được thì rút về cố thủ. Tuyển biến thành một hỏa tiễn liên lục địa, anh hét vang vang. Anh nổ bùng, bốc lửa “…c…đ.m kẹt thì tung ra, đánh bỏ mẹ tụi nó hết, bắn đợi thật gần mới bắn, 20 thước mới được bắn…”
Không đánh địch ở xa, Tuyển đánh ngay vị trí, đánh tăng, thứ tăng liều lĩnh ngu ngốc tưởng chỉ với khối thép bề thế áp đảo được lính Nhảy Dù. Vị trí phòng thủ không đầy 200 thước chu vi của Tuyển biến thành một cái đinh thu hút địch, chúng bao quanh Tuyển như đàn kiến đói giành nhau hạt đường.
Đêm 22 rạng 23 tháng 5, Cộng quân dùng 2 công trường 7 và 9 “phối thuộc” Đại Đội 5 Tiểu đoàn 107 Trung đoàn 203 chiến xa từ xã Thanh Bình (hay đồn điền Xa Cam) kéo ra quốc lộ chia làm 2 nhánh. Nhánh thứ nhất quẹo tay phải theo đường về phương Nam đánh Trung đoàn 15 Bộ Binh. Thành phần thứ 2 gồm trung đoàn 272 (nổ lực chính) thuộc công trường 7 có 2 T54, 2 BTB PK 50 dẫn đầu quẹo phía Bắc. Tiểu đoàn 8, Tiểu đoàn sẵn sàng, hơn ai hết. Lính Nhảy Dù biết rõ thiết giáp Cộng quân chỉ là đồ chơi, lính Thiết Kỵ của chúng chưa có đựợc kinh nghiệm và khả năng để điều khiển chiếc xe, nói rõ hơn chúng chỉ biết lái đến một vị trí đã được chỉ định.. Và bộ binh tùng thiết (theo xe bọc sắt) thì quá khờ khạo không biết phối hợp và điều động theo chiến trường.
3 người lính của đại đội 81 cùng đứng dậy một loạt khi chiếc T54 ùn đi tới, bóng đen khối sắt lấp lánh dưới trăng non.
– Tao bắn trước!
– Không được, 3 đứa cùng bắn, tao hô 1,2,3 rồi mình “phơ”.
– Bắn!
Chiếc T54 thứ hai tốt số hơn né được trái M72 đầu tiên đâm vào bờ rừng nằm cứng. Hai người lính nhảy ra… Để tôi ném lựu đạn, đừng bắn để ném lựu đạn…
5 “con cua” bị rang muối trong 11 phút đầu tiên, cách phòng tuyến Tiểu đoàn 8 dài nhất là 50 thước và ngắn nhất là không có thước nào! Vì thiếu PK50 cuối cùng thay vì tấn công Tiểu đoàn 8 ở phía Tây con đường lại tấn công về phía đông nơi Trung đoàn 48BB, bị đơn vị này bắt, chiếc PK50 lùi dần lùi qua đường và vào hẳn vòng đai phòng thủ của TĐ8. Lính ta quá ngạc nhiên với hiện tượng một cái xe cứ đưa đít chạy ngược. Nên khi nó vào trong vòng Tiểu đoàn, không ai có thể bắn được (sợ đụng đồng bạn). Chiếc xe lùi thêm nữa, đi lên nấp hầm đại đội trưởng 81, hai sợi dây xích hỏng khỏi mặt đất quay tít, thân xe ngúc ngắc cựa quậy và máy tắt... Lính ta nhào tới, máy lại nổ. Trò đùa chấm dứt khi anh Hạ sĩ Chút leo lên thẩy 1 trái lựu đạn. 20 xác chết cháy đen được mang ra.
Tiểu đoàn 8 không những “diệt gọn” những tăng đánh phần đất mình, Tuyển liên lạc với C130 Spector (Phi cơ 130 có gắn súng 105, bắn và nhận diện mục tiêu bằng Radar) hạ luôn 5 chiếc chạy hướng Nam trước khi tấn công Trung đoàn 15. Quá hăng hái và thích thú, Tuyển “vung tay quá trán” không những quá trán mà còn quá cả đầu, vết thương cũ đứt tung chỉ, máu thấm ướt qua hai lớp áo mới hay.
Mong ngày đi qua mau
Nhưng An Lộc địa ngục không phải chỉ ở vòng ngoài nơi Tiểu đoàn 8 Dù ở ngã ba và Xa Cam, An Lộc đúng nghĩa, đúng là ở An Lộc Thị Xã từ phía Bắc Tòa Hành Chánh cho đến B15 ám danh “Khánh Ly”. Từ nơi CTCT đến, Bộ chỉ huy Lữ đoàn 1 hay cũng là Bộ chỉ huy Tiểu Khu.. Không ngừng nghỉ không ngắt khoảng, pháo không phải vài trái không phải vài loạt, pháo TOT (Tác xạ tập trung bắn từ nhiều vị trí), pháo ngày đêm, trưa, chiều, hỏa tiễn súng cối điểm giọt đổi món và SA7 cầm tay là trò chơi trên không khí dưới đất không còn mục tiêu để đùa. Một tiếng động trực thăng ở trên cao, có thể chỉ là một trực thăng chỉ huy đã ầm! ầm! Bãi đáp cạnh Tòa Hành Chánh, “Khánh Ly”, bãi pháo ngoài ngã ba cùng nổ tung vật vã… Máy bay thả dù phải bay mãi trên cao, trên các cụm mây, phải nối các tầng mây dày đặc mới hy vọng tránh khỏi phòng không và hỏa tiễn tầm nhiệt – Thứ hỏa tiễn nhỏ nhưng độc địa kinh tởm. Thả 10 cái dù thì hết 8 cái rơi bên ngoài, sân vận động dài chỉ 100 thước, tàu bay ở cao độ trên 8000 bộ, dù nào có thể rơi xuống được trong bãi thả bằng lỗ mũi..lại phải biến chế thêm điều khiển, dù lái..Tiếp tế đồ ăn cũng là một điều nguy nan.
Chỉ có ở An Lộc, Tiểu đoàn 5 Dù, Tiểu đoàn ngoại hạng của binh chủng đơn vị khai sinh ra Tướng Ân, Tướng Trưởng, Tướng Nam, Tướng Thi mới bị tổn thất nặng. 4 đại đội trưởng tác chiến, 1 Tiểu đoàn phó bị thương mà không đụng được một trận ra hồn. Tiểu đoàn trưởng Nguyễn chí Hiếu chỉ việc nằm im dưới 3 thước hầm để đợi ngày qua và pháo dứt. Chỉ ở An Lộc mới có những bộ tham mưu làm việc 24/24 với một “tenue” độc nhất: áo thun, quần xà lõn hay sang trọng hơn: 1 quần nhà binh cắt cụt ống…
Đại tá, Trung tá Nhảy Dù ngồi mơ ước những hạnh phúc “lớn”:
– Moa chỉ cần một cái đùi gà, một đùi gà luộc, nhỏ chừng nầy cũng được. (Ngọc Long đưa 3 ngón tay) xong bỏ ít lá rau răm, chút tiêu, muối và ớt thiệt cay…. rồi bóc! bóc! 2 hộp bia thiệt lạnh. Xong rồi, cọc! cọc ! Moa… ăn!
Trung Tá Nhảy Dù, cựu tùy viên quân sự – người đã đi hết nửa vòng thế giới, đã uống champagne ở Table Mandarin – trong bóng tối của hầm chỉ huy ở An Lộc chỉ mơ ước được một miếng thịt gà bằng 3 ngón tay.
Và cũng chỉ ở An Lộc mới có một thương binh gẫy chân đến ngày thứ 31, thịt chỗ bị thương đã nặng mùi, khi trực thăng mới chạm được càng trên lớp đường nhựa anh ta đã “chạy” vọt lên – Chạy bằng hai chân nhanh như một gã lực sĩ điền kinh.
Trên tàu bay chiếc Slick chở con số làm chóng mặt nhân viên An Phi: 18 người. Gã thương binh nước mắt ràn rụa “sửa” lại vị trí của bàn chân – Bàn chân quập vào phía trong khi ống chân chĩa thẳng ra ngoài!!! Máy bay không có xác chết nhưng nặng mùi tử khí.
An Lộc ngột ngạt, chật chội, thụ động; An Lộc là “Túi” mà kẻ vào trong đó chỉ có việc nằm co mình hứng pháo và mất hết khả năng tung hoành vùng vẫy. Không phải đợi đến ngày thứ 72, «Lê Lợi» mới biết được điều ấy, ông biết từ Ngày N+10 của chiến trường lúc ông cùng Quyền lượn trên các cao độ của Đồi Gió để tìm bãi đáp cho cuộc trực thăng vận ngày 14/7 và ông đã thấy đúng kích thước của nó – Cao độ 75, điểm tựa để An Lộc có thể thở, điểm thoát hơi tối cần thiết. Tiểu đoàn 6 Dù cùng Bộ chỉ huy nặng sẽ ở lại đồi nầy với pháo binh – ý định chiến thuật của ông chính xác và tinh vi đã không thực hiện được… Trở lại Đồi Gió, điểm “dứt hơi” hay nút an toàn độc nhất của An Lộc – chính xác hơn của Lữ đoàn 1 Nhảy Dù…
Đồi Gió, nút thoát hơi của An Lộc
Đồi Gió là gì? ở đâu? Bên cạnh một An Lộc quá to lớn bởi sự tàn khốc và bi tráng, Đồi Gió quả nhỏ bé và tội nghiệp như dãy cao độ không tên mà Tiểu đoàn 6 Dù đã xuống trong ngày 14/7. Nhưng thật ra đây là điểm chiến thuật đầy tính chất sáng tạo mà chỉ có thể một cấp chỉ huy như Đại tá Lưỡng mới cảm thấy được toàn bộ quan trọng của một vị trí vô danh trong chiến địa trùng trùng… Nếu những xã Tàu Ô, Tân Khai, Xa Trạch, Xa Cam là những nút chận dọc đường 13 mà Cộng quân cố bám chặt theo tiêu chuẩn “chốt cứng chân đứng, diệt gọn, cơ động nhanh. Vây ép bám chặt, đánh chậm, đánh chắc…” Lữ đoàn 1 Dù cũng đã thử lửa vượt qua những chốt cứng này rồi. Không thể được, quân số Lữ đoàn không thể mở rộng tối đa được 1 cây số mỗi bên, và cuộc trực thăng vận là một điều bắt buộc… Nhưng Đồi Gió không chỉ là một bãi đáp, Đại tá Lưỡng thấy nó còn là một điểm tựa, điểm tựa thật nhỏ nhưng vô cùng cần thiết. Giữ được nó, An Lộc có được một sườn phía Đông an toàn, từ đó có thể làm bàn đạp tiến dễ dàng lên hướng Bắc hay rẽ xuống hướng Nam. Dãy cao độ chạy theo hướng Đông Bắc Tây Nam với 3 cao điểm 160, 185 và 140 đã được nhận định đúng kích thước… Tiểu đoàn 6 ND cùng một pháo đội 105 của TĐ3PB Dù có nhiệm vụ giữ điểm tựa… Trong chiến sử có những đơn vị bất ngờ được chọn lựa thi hành những nhiệm vụ quá khổ ; bất ngờ không phải là ép buộc, nhưng tình thế đưa đẩy đơn vị đó hoặc những biến cố ngặt nghèo… Và nó đứng vững trong toàn thể kinh ngạc. Tiểu đoàn 6 Dù, một trong những đơn vị đó – như tiền thân của nó trước kia 6ème BEP đã đương đầu với Sư đoàn nặng 320 Bắc Việt trong một cuộc chạy đua trên trăm cây số núi rừng Việt Bắc.
Ngày 15 khi Lữ đoàn cùng 2 Tiểu đoàn 5,8 bắt đầu rời đồi vào An Lộc, Đỉnh ở lại cùng Bộ Chỉ huy nặng của Lữ đoàn gồm Lữ đoàn Phó, Đại đội Trinh Sát 3 Dù và pháo đội 105… Bắt đầu giờ định mệnh của Tiểu đoàn 6, khi bức công điện của mặt trận Bình Long gởi về Bộ Chỉ huy Trung ương cục “01D Dù Ngụy (Tiểu đoàn Dù) chiếm Đồi Gió, gây khó khăn trong việc chiếm Bình Long phải “diệt gọn” D ngụy với tất cả phương tiện… Chuyển xong chữ chót”.
Đạp đổ định mệnh
– Một mình tao nó đánh chưa được, bây giờ có thêm mầy sức mấy tụi mình thua…
– Bắt tay được với mầy là tao quá giỏi….Tụi nó nằm chật đường như dân đi biểu tình, nó không che giấu ý định phục kích.. Tao đoán mầy với tao đang bị với 2 Tiểu đoàn…
– Nó đánh xa luân chiến, nhiều đơn vị thay thế nhau “nhồi” mình... Mới 3 ngày vào đây đã thấy khó.
Đỉnh ngồi ở E thở được hơi dài sau 9 giờ ngồi trực máy, khi nghe được hai Đại đội bắt tay được nhau..
Khổ hai thằng nhỏ đêm nay sức mấy ngủ được. Sẵn có một phi tuần Daisy cutter (ngắt hoa cúc) thứ ngắt hoa bằng vũ khí tinh độc CBU… Đỉnh hướng dẫn đánh ào xuống phía Bắc ĐĐ 63. Tiếng bom reo trong đêm nghe kinh dị nhưng cả Hoàng và Tuấn đều đồng thanh báo cáo:
– Đúng rồi! Đúng rồi, xin 12 (Tiểu đoàn trưởng Đỉnh) cứ tiếp tục gần hơn nữa mới bung tụi nó ra được…
Lính của Đại đội 63, 64 suốt đêm không ngủ được, dựng dứng tròng hai mắt để chơi trò chuyền banh cùng Bắc quân qua con đường đá 245 với bề ngang 6 thước. Banh của mỗi lần giao nhau là một trái lựu đạn.
Ngày 18, 63 và 64 được lệnh trở về đồi. Đỉnh bảo Hoàng và Tuấn báo cáo kết quả sơ khởi của đêm chạm súng.
Ngày 18, ngày tương đối bình yên; pháo hơi dứt, lính bắt đầu ra khỏi hầm để nhìn về phía An Lộc…
– An Lộc đó hả?
– Ừ, cháy hoài, cháy cả mấy ngày rồi!!
– Mình ở đây thế mà “sướng”!!
Tiểu đoàn 6 ở Đồi Gió không “sướng” một chút nào hết vì những giờ ngắn bình yên của ngày 18 qua quá mau. Ngày 19 tưởng cũng là ngày tốt, ngày hên, sắp sửa “được” tải thương và tiếp tế thì pháo địch xuống… Bắc quân phục hận trận đêm 17 và đã biết rõ Bộ Chỉ huy 6 Dù ở lại đồi chứ không phải dưới ấp Srok… Pháo mờ trời!! Đỉnh cố gắng dịch cho cố vấn Peyton cái thành ngữ đặc biệt để nói rõ cường độ của cơn pháo… Peyton trước kia là cố vấn phó của TĐ5 Dù, và Đỉnh cũng là Tiểu đoàn phó ở đây.
– Lúc trước tôi và “Sir” đều Thiếu tá và cùng chung chức vụ phó bây giờ “Sir” là Trung tá, tôi không thể mầy tao như kỳ Tiểu đoàn 5 được. – Peyton đi đường giáo khoa thư dưới mặt đất rung rinh trong khi Đỉnh đang cứ giật bắn ngưòi vì đạn pháo binh ta bị pháo kích chạm nổ.. Tiếng nổ phụ là gì nhỉ ? Tiên sư lúc muốn nói thì nhớ không nổi!! Nhớ làm sao nổi được dưới cơn giông bão đại pháo đến từ nơi xa và “Tiếng nổ phụ” của hơn ngàn đạn 105 chỉ cách 50 thước đang nổ dây chuyền…
– Cái gì nổ quá lớn vậy “Sir”?
– Tiếng nổ phụ… mẹ, quên rồi, giờ nầy cứ “xơ” với “múi” đến khổ. Đạn pháo binh mình đấy Peyton.
– Yes, sir. – Đúng truyền thống Ăng-lê, Peyton điềm nhiên tỉnh táo thưa gởi trước mỗi câu nói…
– Ầm! – một tiếng thật sát vào miệng hầm, Peyton bắn vào vách, đúng hơn bị dán sát vào vách.
– Sir, tôi bị thương.
– Biết rồi, nói mãi…
Đỉnh lục túi lấy băng cứu thương cá nhân mình băng cho Peyton, lòng thầm nói : Tiên sư, mình có số “sát” cố vấn, chẳng thằng nào ở quá một tuần!!
Vinh “con” ào xuống như núi lở. Cộng quân bung ra, khép lại, Vinh tiếp tục lấn.. Chân Đồi Gió và Ấp Srok lại kẹt thêm cái suối Rô, Vinh cựa quậy khó khăn dưới đám lau sậy, ruộng sũng nước…
– Nó bâu tôi như đỉa, dứt không nổi anh Năm.
Vinh hét với Đỉnh trong máy… Tối quá, chỉ có sờ ngực áo mà đánh lưỡi lê thôi… quên, sờ nón sắt mà nhận bạn. Nhưng dù Cộng quân cố chận bằng mấy lớp hàng rào người, 11 giờ đêm Vinh cũng rờ được cái ấp… nơi Đại đội 61 đang giang tay chờ từ lúc trời chập tối. 400 thước từ chân đồi đến người lính gác của ĐĐ 61, thành phần của Tiểu đoàn 6 đi mất 3 giờ, 3 giờ thêm một số thương binh vì lưỡi lê và mảnh lựu đạn của 400 thước cận chiến!
Bây giờ, 0 giờ, giờ của ngày 19 bước qua 20, Cộng quân không phải là chỉ một thành phần, một cánh quân, nhưng là một lũ người, một lớp sóng người chen vai thích cánh, lố nhố đầy chân Đồi Gió, chân đồi phía Tây lẫn chân đồi phía Đông.
Cộng quân tràn ngập đường 245 như trẫy hội, Cộng quân bao quanh ấp SrokTon Cui như đám người đói vây quanh vị trí phát chẩn…
Không phải là một cuộc điều quân để chuẩn bị tác chiến nhưng là một chợ người lộn xộn, ồn ào, la hét để tìm đơn vị, chuyển lệnh.
– Ngày hôm nay máy bay Ngụy nhiều quá!
– Đ…m mày, sao mầy không bắn!
– Tao chỉ có AK.
– AK thì AK bắn cho Ngụy sợ…
Trong này Đỉnh thì thầm liên lạc với các Đại đội trưởng 61, 62, và 60:
– Các toa dặn lính đừng bắn, tụi nó đi đâu cho nó đi, chỉ bắn khi nào nó tấn công vào mình mà thôi.
– Chúng tôi nhận hiểu. – Cả 3 Đại đội trưởng đều thở dài. Lấy gì mà bắn nữa!!
Nhưng dù vô trật tự đến đâu, Cộng quân cũng tập hợp lại được hàng ngũ. 3 giờ sáng tiếng kèn thúc quân vang lên lồng lộng… Xong rồi, tụi nó dứt mình.
Tiếng kèn thúc quân xoáy trong đêm, vang dọc theo đường 245. Bỏ mẹ, nó bố quân cả 3 cây số đường dài. Đỉnh run tay khi nghe hiệu lệnh từ đầu đến cuối hàng quân.. Đồng thời từ phía Bắc đầu đường 245 có tiếng động cơ máy nổ, ánh đèn pha quét ngang dọc trong bóng đêm. Tăng T54, Bắc quân “dứt điểm” Tiểu đoàn 6 Dù không nương tay…
3 giờ đúng, Đồi Gió bị tấn công trước. Tiểu đoàn phó Phạm Kim Bằng, mặt sắt đen sì, con người quá khổ, chậm rãi, điềm tĩnh và hùng tráng như một hiệp sĩ thời cổ đứng ra khỏi hầm, điều khiển 2 Đại đội 63, 64 phản công.
4 giờ, trong bóng tối ngã màu tím của ngày sắp đến, 4 chiếc T54 chia từ hai hướng Đông và Đông Bắc bắt đầu lên đồi, lính tùng thiết Bắc quân chạy lố nhố theo sau để tính bề diệt gọn. Trăng thượng tuần gần sáng dọi sáng ánh trăng lạnh xuống sườn đồi vằng vặc, khối sắt đen lóng lánh tiến dần vào cùng động cơ vang ầm ĩ, ngọn đèn vẫn giữ nguyên độ sáng ở vị thế “pha”, luồng sáng dọi thẳng lên đồi hỗn xược, thách thức.. 2 chiếc T54 đầu tiên bò lần lần từng thước đồi dựng đứng.
Băng vội con mắt đẫm máu, Bằng nghiến răng, nhướng cặp mắt còn lại giữ vững đồi cho đến đợt tấn cộng thứ 16. 12 giờ trưa ngày 20, Bằng kiệt lực, xuôi tay bỏ rơi chiếc combiné gọi Hoàng đến:
– Thay moa, đem 2 Đại đội về 169 (Tây Nam đồi Quốc Tuấn với một cái “yên ngựa” chập chùng trên 2 cây số đường rừng rậm). Nhớ đem theo hết thương binh, tụi chết phải chôn lại…
Vĩnh biệt chiến hữu, vĩnh biệt Tuấn, vĩnh biệt Đồi Gió – đồi Quốc Tuấn, địa danh quá lạ và quá nhỏ bên cạnh An Lộc ngút trời. Địa ngục nào cũng có một thứ lửa – Lửa nào cũng nóng và thiêu đốt sinh linh.
Mọi con đường đều dẫn đến An Lộc. «Lê Lợi» không còn đường vùng vẫy, cao độ phía Đông Nam, “điểm tựa” của An Lộc điểm sáng tạo của bộ óc chiến địa hạng nặng trở lại vẻ hoang vắng của núi rừng, khói vẫn bốc cao trên đất đá điêu tàn.
Trở lại ấp Srok Ton Cui, Tiểu đoàn 6 hay đúng nghĩa hơn 3 Đại đội 60, 61, 62 lính pháo binh với 70 thương binh nặng nhẹ. Đỉnh vuốt mặt, những sợi râu tua tủa từ ngày 11 đến bây giờ – 11 giờ đêm của tối 20 – chạm vào tay nhắc nhở đến một điều: mình phải sống và chiến đấu để bảo tồn đơn vị… Nhưng đánh bằng cách nào? và lấy gì để đánh? Đạn đại liên, M72, lựu đạn hết. XM16 chỉ còn 20 viên của những người ít “đụng” nhất. Kể từ khi cánh quân của Bằng và Lữ đoàn bỏ đồi “Quốc Tuấn” cùng đỉnh 169 thì mặt Tây của Đỉnh lạnh, lạnh cứng, như cái kềm ép chặt gọng… Bắc quân chiếm 2 cao địa, trí 1 giàn 75 sơn pháo và cứ “một yếu tố” với 1 mục tiêu: ấp Srok Ton Cui…
11 giờ đêm, trăng lại quá sáng, rừng cây thưa lóng lánh ánh trăng. Đỉnh tìm đủ cách để liên lạc cùng «Lê Lợi»… Sau một hồi lần mò, Đỉnh vào được một tần số – hệ thống tiếp vận của Mỹ ở núi Bà Đen… Lại phải thêm một màn thông dịch đến “mờ người” Đỉnh mới “chớp” được tần số của «Lê Lợi». Hai người cách nhau 5 cây số đường chim bay nói chuyện được qua đài trung gian, cách hơn 100 cây số.
– Sẽ có 3 “line” B52 đánh xuống chỗ anh, cách anh 500 thước thôi, ở 3 hướng Bắc, Đông và Nam, xong theo hướng Đông Nam đến bờ sông Bé có trực thăng về… Gắng lên, đời anh và tôi chỉ có một lần.
– Nghe rõ anh, nhưng chưa chắc có cái màn khói đó cho anh, pháo ở đây tiêu hết rồi…
– Tôi nghe rõ…
Đỉnh bỏ máy, dọi ánh đèn hạt đỗ xuống tấm bản đồ nhàu nát. Các Đại đội trưởng và Nghiêm cùng chúi đầu vào. Đỉnh run run bàn tay đặt ngón tay út xuống chỗ chữ “Srok Ton Cui”, ngón tay hướng về phiá Đông Nam… hướng Sông Bé. Không có sông Bé ở tờ bản đồ nầy, nó ở tờ bên cạnh! Nghiêm lẹ tay lật thêm tấm bản đồ… 1,2,3 gang tay đi trên miếng giấy màu xanh ngoằn ngoèo những vòng cao độ vàng… rừng và đồi. 2 gang, ngón tay cái mới chạm phải vạch xanh xanh: Sông Bé – 30 cây số đường thẳng, bao nhiêu cây số trên mặt đất? Đỉnh mở to hai mắt, đôi mắt thường ngày long lanh đẹp đẽ nay nóng đỏ khô khan lướt qua khuôn mặt những người thân tình… những khuôn mặt phờ phạc dưới trăng lóng lánh những đồng tử toé lửa… 30 cây số đường rừng, đi được đến không? Bờ sông Bé, nghìn trùng nơi cuối trời!!
– Các toa về bảo lính chia đạn cho nhau, mang theo hết thương binh, đi hàng một, mgười nầy theo lưng người kia, 62 đi trước đến 60 và pháo binh. 61 đi cuối. Vinh lựa thằng dẫn đường phải thật giỏi… Hướng Đông Nam, lấy phương giác cho chính xác…
– Như vậy để em đi khinh binh luôn Trung Tá, tụi nó đi lạng quạng là bỏ mẹ…
– Xong rồi, xin «Lê Lợi» màn khói.
– Khói không có, thôi anh dọt đi…
– Tôi nghe.
Đất còn nồng mùi lửa, rừng còn nóng mùi bom, khói trộn tro than bốc lên ngùn ngụt trên nền trời trong xanh… Tiên sư sao trời sáng quá! Sao trời không có mây che mặt trăng nhỉ?… Lần đầu tiên trong lịch sử binh chủng: Đại úy Đại đội trưởng làm khinh binh số 1, Thiếu Tá sĩ quan hành quân làm khinh binh số 2 và Trung Tá Tiểu đoàn trưởng làm khinh binh số 3…
Vinh, Nghiêm, Đỉnh theo thứ tự dẫn đầu hàng quân, 1 hàng dọc hướng về Đông Nam. 10 phút sau khi binh sĩ cuối cùng của Đại đội 62 rời khỏi ấp, một trận bão pháo từ 10 vị trí cùng tập trung xuống Srok Ton Cui và một đoàn tăng từ phía Đông để đèn pha dọi sáng rực, đè bẹp lên cây rừng dàn hàng ngang đâm vào ấp…
Khởi đi từ 1g 42 phút, cánh quân của Đỉnh liên tiếp bị phục kích thêm 2 lần nữa, đi theo suối thì bị Bắc quân, đi trên cao độ thì sợ bại lộ, từng người một nối đuôi dìu nhau đi trong cuối đáy tuyệt vọng… 17g ngay tại một trảng trống để đợi trực thăng móc về, Tiểu đoàn bị thêm một cú “dứt” thứ 3… Hướng Đông Nam : An toàn khu nơi đặt Bộ Chỉ huy tiền phương của mặt trận Bình Long.
Phục hận
Về 45 phút chót của chiến trường, Đại đội 62 của Vinh “con”, lại Vinh con “dứt nọc” hết 65 tên của 2 Đại đội C7, C8 đúng chữ “dứt nọc” với một người được sống sốt. Tù binh Nguyễn văn Tiền.
Đúng 17g15 ngày 8/6 Vinh đứng lên mặt đường nhựa, ngã ba vào Xã Thanh Bình (đồn điền Xa Cam) bắt tay Ni (Tiểu đoàn 8 Dù) đơn vị cực Nam của An Lộc.
– Xong rồi, mày và tao xong việc, ai về nhà nấy!!
Viên cố vấn Mỹ nước mắt đầy má vì hãnh diện run tay khi chụp tấm hình lịch sử của An Lộc….
“Tôi chỉ xin có một điều báo với quí vị: Tiểu đoàn 6 Dù đã bắt tay với An Lộc”. Chuẩn tướng Hậu Tư Lệnh SĐ21, kiêm Tư lệnh lực lượng giải tỏa An Lộc, trong đó Tiểu đoàn 6 là thành phần tăng phái đã nói câu trên để mở đầu và kết thúc buổi họp tại Lai Khê lúc 16 giờ cùng ngày…
Chiến sử An Lộc còn nhiều. Rất nhiều, không phải mỗi cá nhân nói hết được, phải có một ủy ban, phải viết ngàn ngàn trang giấy… Trong cấp thời, chỉ với 1 đơn vị tăng phái, viết về An Lộc đã thấy đủ hết cay đắng cũng như hùng tráng ngập trời… Chỉ mới 1 đơn vị. Tương lai gần khi tiếng súng dứt chúng ta trở lại An Lộc nơi lịch sử sẽ phải nhớ và ngậm ngùi. Đất cao cả vinh quang không phải cho một người, một đơn vị, một quân lực… An Lộc là của chúng ta, của quê hương bi tráng anh hùng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét