( Gởi Mũ Nâu Tôn Thất Tuấn, Mũ Xanh Nguyễn Đình Phương và Dương Hồng Phong... )
Đêm mùa đông. Cơn lạnh bên ngoài tràn vào trong nhà qua những nơi không thể che chắn. Nhà?!!! Cách gọi thật mỉa mai khi cái gọi là "nhà" đó, chỉ là một kiểu lán trại, do chính bàn tay người tù tạo dựng lên bằng vật liệu của rừng núi Trường Sơn cung cấp. Nóc làm bằng lá cọ, được lợp lên thật khít khao. Vách là những phên tre đan cỏ tranh cũng khá dầy, đủ để nắng mưa không làm cho người tù tàn binh thêm kham khổ. Nhưng với cơn lạnh của Trường Sơn thì vô phương, bởi cửa ở hai đầu "nhà" không có cánh ra vào, còn phên, vách thì trống cả bên trên lẫn phía dưới!
"Nhà" có 25 người và 10 giường đôi, chia đều mỗi bên 5 chiếc, ở giữa có lối đi xuyên suốt từ trước ra sau. "Nhà trưởng" nằm riêng một mình ngay cạnh cửa ra vào phía trước. Cửa này hướng ra sân tập họp, cũng là sân thể dục tập thể của tù tàn binh. Cửa sau, là lối dẫn xuống suối và nhà xí tập thể. Hai người nằm chung trên một chiếc giường làm bằng lau sập đập dập, nên có chút hơi ấm để nương tựa vào nhau; đủ để hai thân thể ốm đói, dật dờ, lan man vài tiếng qua từng đêm khắc nghiệt.
Hôm đó, đêm chỉ mới bắt đầu và còn lâu mới đến lúc có kẻng báo hiệu giờ đi ngủ, nên trong "nhà" vẫn râm rang tiếng chuyện trò. Rải rác đó đây, có những đốm lửa le lói tỏa sáng ở dưới vài gầm giường. Đó là cảnh quen thuộc hầu như hằng đêm của anh em tù chúng tôi.
Không người này, thì cũng người khác nấu nướng chút gì đó để nhét vào bụng. Nếu không phải rau lang, đọt dương xỉ, hay rau má luộc bằng lon Guigoz, thì cũng là vài củ khoai lang, khoai mì mót được - lúc cuốc đất trên rẫy gần trại; hay chặt cây trong rừng - đem về nướng lên, rồi vội vàng nhấm nháp với chút muối để trấn an bao tử trước khi ngủ.
Đêm đó có vẻ như nhộn nhịp hơn thường lệ một chút, vì nhà 2 chúng tôi vừa xong nhiệm vụ làm tổng khậu chiều hôm qua. Đây là một việc làm luân phiên. Mỗi "nhà" chịu trách nhiệm nấu ăn cho cả trại trong một tuần. Tuy phần ăn cho mỗi đầu người vốn đã hết sức giới hạn, tổ làm bếp cũng nhín nhút được chút đỉnh mang về chia nhau cho anh em chấm mút cũng rất... đỡ vả!
Đến 10 giờ đêm, tiếng kẻng - phát ra từ những âm thanh rền rỉ của một thanh sắt, khi được gõ vào chiếc vỏ đạn treo trước chòi đọc sách báo của trại tù - vang lên. Nhưng không phải là nhịp độ khoan thai, đều đặn báo giờ đi ngủ, mà là nhịp khẩn thiết nghe như đang báo động.
Mọi người chưa biết chuyện gì đang xảy ra, thì đã có tiếng chân rầm rập chạy ngoài sân thể dục và cả phía cửa sau. Cũng ngay lúc đó, có tiếng loa vang dội trong đêm: "Yêu cầu tất cả ra sân tập họp!". Xen vào tiếng loa là giọng hét the thé của gã quản giáo: " Mọi người ra ngoài sân ngay. Khẩn trương nhanh nhanh lên!"
Bình thường thì anh em chúng tôi luôn đưa mắt nhìn nhau, cười thầm vì loại ngôn từ kép này, nhưng đêm nay không ai còn tâm trạng đó nữa. Vì khi vừa ra tới bên ngoài là đã thấy toàn trại, gồm 500 tù tàn binh đang lục tục xếp hàng ngay trước "nhà" của mình. Sau đó, cảnh vệ xông thẳng vào trong 2 căn nhà 1 và 2 của chúng tôi, bắt đầu một cuộc lục soát khẩn cấp.
Tôi và người bạn chung giường đưa mắt nhìn nhau, lo lắng cho số phận của chiếc lon Guigoz luộc nhúm rau lang pha chút mỡ trừu, treo dưới giường. Phen này bị "dính chấu" là cái chắc! Vì lửa trong cái "lò" con - vốn là lon sữa bò đựng mỡ trừu, đốt bằng miếng giẻ xé ra từ một mảnh vải cũ nát - chắc chắn chưa cháy hết. Còn nhúm rau má luộc dù chưa kịp mềm, cũng đã tỏa "hương khói thơm tho" khi chúng tôi bị lùa ra khỏi "nhà".
Chắc chắn chúng tôi không chạy khỏi "tội"! Vì không thể kịp thời phi tang chứng cứ. Hơn nữa; ngay trên đầu nằm của mỗi người đều có treo một quyển sách học trò 50 trang; cũng là sổ ghi chép những gì "thu hoạch" được từ những buổi lên lớp của chính trị viên toàn trại, hoặc các buổi họp định kỳ với quản giáo. Trên quyển sổ có ghi tên của từng người. Không thể lầm lẫn vào đâu được!
Chừng nửa tiếng sau, quản giáo bước ra gọi tên một số trong chúng tôi trở vào. Toàn là những thủ phạm bị bắt quả tang đang "cải thiện", hoặc cất giữ bất cứ thứ gì bị cho là trái với điều lệ của trại tù. Biên bản ngắn, gọn, kể "tội" Dương Hồng Phong và tôi ghi câu: "Tàng trữ muối, mỡ. Nấu nướng linh tinh. Khả năng có thể gây hỏa hoạn." Cuộc khám xét bắt đầu thật sôi nổi và quyết liệt bao nhiêu; thì sau khi kết thúc, không khí trở nên ngột ngạt, nặng nề với một sự im lặng mang đầy vẻ áp đảo tinh thần bấy nhiêu.
Hôm sau, mọi sinh hoạt đều như thông lệ cuối tuần. Thể dục tập thể, vệ sinh toàn trại, giờ sinh hoạt tự do ( để tù có thời gian lo việc cá nhân hay chăm bón cây cảnh quanh "nhà").
Kẻng trưa, kẻng chiều báo hiệu giờ ăn, giờ nghỉ ngơi, đều không có gì khác lạ. Nhưng sau bữa ăn chiều chưa bao lâu, lại có tiếng kẻng vang rền và lời kêu gọi tập họp từ chiếc loa cầm tay nghe lanh lãnh giữa không gian đặc quánh của rừng núi lúc hoàng hôn.
Ngay sau khi tù tàn binh đã sắp hàng xong và cảnh vệ đã ôm súng đứng bao quanh sân tập họp, thì từ bên doanh trại bộ đội, một nhóm người có vẻ là thành phần cốt cán; cùng một tiểu đội nón cối với vẻ mặt chăm bẵm và lạnh lùng, ôm súng bước nhanh qua sân của trại tù.
Họ đứng trên phần đất cao ráo, nơi có cột cờ và nhà "giao ban" nằm ngay chính giữa sân; kề bên có hai gian nhỏ hơn. Bên phải là nơi bày biện sách báo. Bên phải là phòng khám bệnh và phát thuốc.
Sau màn giới thiệu chính mình và thành phần đang đứng sau lưng, tay chính ủy của tổng trại tuyên đọc lý do triệu tập tù tàn binh, đại khái nhắc lại sự khoan hồng của nhà nước và nhấn mạnh" ...Các anh là những tàn binh được cách mạng cho đi học tập cải tạo. Nhưng vẫn còn những kẻ phản động đã tham ô tài sản của nhà nước khi bớt xén tiêu chuẩn thực phẩm... Cấp trưởng là những người đứng đầu, nhưng lại bao che cho hành vi có tính cách phá hoại chính sách đãi ngộ của cách mạng, gây ảnh hưởng tới học tập cải tạo của tù tàn binh..."
Sau khi đã xong phần luận tội, gã chính ủy lên giọng nói như hét:
"Những tên có Tên sau đây bước ra khỏi hàng!" Nhưng anh ta chỉ vừa dứt lời là một loạt AK nổ dòn dã từ phía bên ngoài trại tù, rồi có tiếng la hét, rượt đuổi ở hướng vườn rau "cải thiện" của toàn trại. Thêm vài cú chỉ thiên nữa rồi mới im bặt. Chúng tôi nhốn nháo nhìn về hướng vừa nổ súng, hoang mang không biết chuyện gì đang xảy ra ở phía đó.
Vài phút sau, cổng chánh, cũng là lối ra vào duy nhứt của trại tù ở phía sau lưng chúng tôi mở toang. Đi trước là một người bị trói tay, lếch thếch từng bước chân nặng nề. Theo sau lưng anh là bốn, năm gã bộ đội mặt hầm hầm kè súng ngang hông.
Phạm nhân bị áp giải lên đứng ngay tại cột cờ, quay mặt xuống chúng tôi. Không ai lạ gì anh này, vì đây chính là "người tù mát dây", biệt danh chúng tôi đặt cho anh vì vẻ mặt ngơ ngáo và dáng dấp lừng khừng của người bạn đồng cảnh ngộ.
Anh này khai bệnh thần kinh ngay từ khi chúng tôi bị đưa lên đây từ trại tập trung đặt tại Trung Tâm Huấn Luyện Hòa Cầm/ Đà Nẵng hồi tháng 5/1975. Hành động và cử chỉ của anh quả thật có phần hơi khác lạ đối với người bình thường. Thật hay giả không ai biết. Nhưng anh cũng được cán bộ cho lao động nhẹ ngay từ lúc chúng tôi khởi công đốn cây, phá rừng và khai quang toàn bộ khu vực được chọn làm trại tù này.
Sau khi trao đổi với nhóm bộ đội vừa giao nộp "phạm nhân", gã chính ủy tiếp tục công việc dang dở vì phải giải quyết chuyện bất ngờ vừa mới xảy ra. Rốt cuộc, chỉ có "nhà trưởng" và "nhà phó" của hai nhà 1 và 2 chúng tôi bị gọi tên. Từng người một tách ra khỏi hàng, đưa tay chịu trói, rồi bị áp giải lên đứng cạnh anh bạn "lao động nhẹ" trên kia.
Buổi "tuyên án" kết thúc bằng một lời răn đe rất đao to búa lớn của tay chính trị viên. Tù tàn binh chúng tôi cũng tan hàng sau khi 5 "phạm nhân" và đám áp tải, cùng mấy tay cán bộ gộc khuất dạng sau cánh cổng của doanh trại bộ đội. Ai nấy vào "nhà" trong tâm trạng thấp thỏm. Câu chuyện thì thầm trong đêm đều nói về chuyện bị khám xét này. Chắc chắn chuyện giấu diếm chút thực phẩm của những nhóm phụ trách nấu ăn, đã bị theo dõi từ lâu; nhưng phải đợi đến khi hai "nhà" chúng tôi vừa xong tua nấu bếp mới bị họ tóm gọn.
Do có "chức phận" nên hai bác Lê Văn May và Nguyễn Trọng Khoa của Nhà 1 - hai quân nhân cấp úy lớn tuổi nhứt Tiểu Khu Quảng- Đà đang chờ hoàn tất hồ sơ xuất ngủ - cùng với sĩ quan Hành Chánh/Tài Chánh kiêm Trưởng Hướng Đạo kỳ cựu Phạm Thanh Vân và anh Nguyễn Thịnh, sĩ quan ngành Công Binh Kiến Tạo, đều là chánh phạm và bị đưa qua nhốt bên doanh trại bộ đội. Tất cả 46 người còn lại của hai "nhà" là đồng lõa. Hình phạt dành cho chánh phạm cùng với đồng lõa là 7 ngày ăn cơm với muối!
Đến quá nửa đêm chúng tôi choàng dậy khi quản giáo Nguyễn Văn A và một gã bộ đội ôm súng bất ngờ cầm đèn pin bước vào, quét rọi lòng vòng, kèm theo câu nói "Ai biết thì lấy cho tui áo ấm của anh Vân và anh Thịnh để đem qua bên đó ngay!" Dường như đêm đó không ai có thể ngủ lại được, dù chỉ vài tiếng sau là mọi người phải dậy để "trả nợ quỷ thần" bằng công việc lao động khổ sai thường ngày!
" Đêm đó lạnh cắt da, 5 người chúng tôi bị nhốt vào một chuồng gỗ chỉ rộng chừng 4 mét vuông lại thấp lè tè và trống trải bốn bề. Tay bị trói mà trời thì lạnh tái da. Năn nỉ mãi họ mới cho quản giáo về lấy thêm áo mặc cho ấm. Nhưng mà chuyện khôi hài đến toát mồ hôi, đủ để nhớ đời mới đáng nói. Đó là khi chúng tôi xin đi tiểu, thằng nhóc coi tù càu nhàu một chập rồi mới chịu đi xin ý kiến sếp của hắn. Dãy nhà của đám bộ đội chỉ cách chuồng cọp nhốt bọn tôi chừng 20 chục mét thôi. Vậy mà phải gần 15 phút mới thấy có người xách đèn bão tới nơi. Lúc đó tụi này mới hết hồn vì có đến cả chục mạng là ít. Mà đứa nào cũng AK cầm ngang người!
Thế là chúng ra lệnh cho 5 anh em chúng tôi ra ngoài để đến sắp hàng ngang trước hàng rào sát mé con suối. Trời tối đen. Hai cây đèn bão chỉ đủ soi sáng lờ mờ bóng dáng của mọi người. Phía trước là bóng tối, sau lưng là đám bộ đội lầm lì ôm súng chờ lệnh gì đó không rõ. Nghĩ tới cảnh tượng của một tiểu đội hành quyết đang chờ lệnh nổ súng tại pháp trường, là tự dưng tôi thấy hết mắc tiểu. Nhưng không lẽ chúng bắn mình từ phía sau lưng?!
Còn đang hoang mang thì...'Tất cả chú ý!' Tiếng hô của gã trưởng toán bộ đội làm chúng tôi giật mình. Sau đó, có tiếng chân của đám nón cối từ phía sau lưng tiến tới thật gần rồi dừng hẳn lại. Chết mẹ! Chuyện gì đây?! Chưa kịp định thần, thì tiếng ra lệnh lại vang lên 'Lễ cởi trói!'
Chúng tôi thở phào liếc nhìn nhau, muốn phì cười ngay lập tức. Chúng nó trịnh trọng bày trò cho ra vẻ văn minh chăng? Có Trời mới biết vì sao có cái 'Lễ' lạ đời dành cho tù ở trong tù như thế!..."
Trong cả tháng sau đó, lời kể của bác Lê Văn May là liều thuốc bổ của chúng tôi, khi ai nấy đều ôm bụng cười mỗi lần nhắc nhau về kiểu thực hiện chính sách nhân đạo của nhà nước cộng sản một cách khôi hài đó. Chuyện "mua vui cũng được một vài trống canh" này chỉ lắng xuống khi tình cờ chúng tôi biết có đợt phóng thích vào đúng ngày 30 Tết của năm Bính Thìn ( Thứ Sáu 30/01/1976 ).
Sáng hôm đó, một nhóm tù từ trại 5 - ở phía trong núi, cách chúng tôi chừng 2km - đi ngang qua khu vực canh tác của trại 4 chúng tôi. Nhìn họ thong dong, tươi cười, vác ba lô bước trên đường là chúng tôi hiểu ngay. Dù không được tiếp xúc nhưng vài anh vừa rảo bước vừa vẩy tay với chúng tôi, kèm theo câu nói ngắn, gọn "Ráng nghe! Tụi này về trước đây!"
Mặc dù sau đó, sinh hoạt trong trại của chúng tôi vẫn không có gì thay đổi, nhưng hy vọng về một ngày sẽ được thả về như họ, trở thành đề tài mới làm mọi người hưng phấn lên thấy rõ.
Thỉnh thoảng, câu chuyện đầy kịch tính của ngày 5 người tù tàn binh bị tuyên án rồi sau đó được làm "Lễ cởi trói", vẫn là một chuyện vui để đời của 500 anh em tù tàn binh của Trại 4 chúng tôi. Hôm đó là ngày 13/12/1975!
HUY VĂN
( HUỲNH VĂN CỦA )
(... Để cùng nhớ Trại 4/ Tổng Trại 1/ Hiệp Đức - Quảng Nam )

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét