Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Năm, 11 tháng 12, 2025

Góp ý về bài viết : Các chữ Hán Việt thường dùng sai – Lê Vĩnh Húy" - Đỗ Chiêu Đức


Nhân đọc bài "Các chữ Hán Việt thường dùng sai – Lê Vĩnh Húy". trên trang web. Nhóm Thân Hữu NNHN. Tôi thấy cần phải góp ý và nói rõ thêm về những điểm sau đây :
1. Từ CHÚNG  - a) CHUNG CƯ hay CHÚNG CƯ ? Trích... “Chung cư” cũng là danh từ mới, dịch chữ “Apartment” trong Anh ngữ. “Chung” đây là tiếng Việt, trái nghĩa với “riêng.” “Cư” 居 là chữ Hán, nghĩa là “Ở.” Gán ghép vậy giống như cho gà trống “đạp” vịt mái, đặng kiếm ổ trứng ung.
<!>
Trong Hán Việt chỉ có Chung 終 là “hết,” hoặc “chết.” “Chung cư” vì vậy thành ra chỗ người chết ở, tức là… nghĩa trang. Hết biết!
“Apartment” là khu nhà dành cho nhiều gia đình ở, phân ra nhiều căn buồng. Tây dịch “Apartment” là “Pension,” Tàu kêu là “Công ngụ” 公寓. Chữ Công 公 nầy mới đúng nghĩa “Chung đụng” trong tiếng Việt.
Còn bên mình khi dịch, thì lấy chữ “Cư” chớ không lấy “Ngụ.” Đã vậy thì phải là “Chúng cư” 眾居 mới hợp nghĩa, vì Chúng là số đông (như “chúng sinh”). Ngưng trích.

Theo tôi nghĩ :
Từ CHUNG CƯ là từ được viết gọn lại của nhóm từ CÙNG CHUNG CƯ NGỤ, đã được quần chúng sử dụng từ trước 1975 đến nay, nghe đã quen tai, không cần thiết phải đổi lại thành CHÚNG CƯ, nghe vừa xa lạ vừa chói tai, vừa lập dị vừa không hợp với TẬP QUÁN NGÔN NGỮ. Xin được giải thích...
Trước tiên, xin được nói về TẬP QUÁN NGÔN NGỮ, TẬP QUÁN 習慣 là Thói Quen, NGÔN NGỮ 言語 là Tiếng Nói. TẬP QUÁN NGÔN NGỮ là Thói quen của một Tiếng nói nào đó mà mọi người đã quen sử dụng và chấp nhận Ý nghĩa của nó theo Thói Quen đó. Ví dụ :
Từ CHẮC là CHẮC CHẮN, được sử dụng theo nghĩa KHÔNG CHẮC CHẮN gì cả ! Xem các câu sau đây :
- Trời oi bức quá, chiều nay CHẮC mưa. (Không CHẮC có mưa).
- Trời mưa, CHẮC nó không đến đâu ! (Chưa CHẮC).
- Tối nay có đi xem phim không ?- CHẮC đi ! (Chưa CHẮC đi).
Trả lời là "CHẮC đi" để tỏ cái Ý "KHÔNG CHẮC đi" gì cả ! Đó là TẬP QUÁN NGÔN NGỮ ! Thế thì...

Khi nói "CHUNG CƯ" là mọi người đều hiểu ngay rằng đó là nơi có nhiều người CÙNG CHUNG CƯ TRÚ, chớ không phải là CHỖ NGƯỜI CHẾT Ở, hay NGHĨA TRANG gì cả , vì "CHUNG CƯ" là TẬP QUÁN NGÔN NGỮ được mọi người cùng chấp nhận từ trước 1975 cho đến nay, thì TẠI SAO ta phải đi bới lông tìm vết, bảo nó không chính xác mà phải nói là CHÚNG CƯ 衆居 cho đúng với cách nói của từ Hán Việt ?! CHÚNG CƯ vừa chói tai khó nghe, vừa không hợp với TẬP QUÁN NGÔN NGỮ !
Ta có bảo người Pháp chào nhau bằng câu : "Comment allez vous ?" là sử dụng SAI động từ ALLER (đi) không ? Và người MỸ chào nhau bằng câu : "How are you doing ?" là dùng không chính xác động từ TO DO (làm) không ? Cũng như người Việt ta chào nhau bằng câu : "Có KHỎE không ?", không phải ta dùng sai từ KHỎE đâu; người Hoa chào nhau bằng câu : "Sực fàl mì ? 吃飯沒" (Ăn cơm chưa ?) không phải là họ nói SAI đâu, mà tất cả đều là do TẬP QUÁN NGÔN NGỮ được mọi người cùng chấp nhận mà thôi !!! Sở dĩ tôi phải nói dài dòng như thế là chỉ để làm cơ sở cho những nhận xét kế tiếp của phần bên dưới nữa.


b) Tên đầy đủ của nước Mỹ là "United States of America" viết tắt là USA, người Hoa dịch là MỸ LỢI KIÊN HIỆP CHÚNG QUỐC 美利堅合衆國. MỸ LỢI KIÊN là dịch Âm của từ AMERICA; Còn HIỆP CHÚNG QUỐC là dịch nghĩa của UNITED STATES là Tập họp các Bang lại với nhau. Nếu muốn hiểu cho đúng nghĩa của nhóm từ HIỆP CHÚNG QUỐC thì có nghĩa :"Tập họp tất cả QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN sống cùng trên mảnh đất nầy lại để thành một nước". Vì Mỹ là nước do tất cả di dân trên thế giới họp lại mà thành, nên QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN ở đây rất đa dạng, gồm tất cả các màu da, thành phần xã hội, chủng tộc, tôn giáo tín ngưỡng... Nên mới gọi là HIỆP CHÚNG QUỐC 合衆國; Nếu gọi là HIỆP CHỦNG QUỐC 合種國 thì nghĩa sẽ hạn hẹp ở phần CHỦNG TỘC mà thôi, Vì trong HIỆP CHÚNG đã bao gồm cả HIỆP CHỦNG trong đó rồi ! Nên gọi cho đúng tên nước Mỹ phải là : HIỆP CHÚNG QUỐC HOA KỲ !
Chớ không nên có giọng điệu mĩa mai như ông Lê Vĩnh Húy đã xúc phạm đến cả nước Việt Nam ta nữa. Trích :
Nhưng nhiều người giỏi chữ quá, đã hiểu thành “Liên hợp các chủng tộc,” nên kêu là “Hợp chủng quốc” 合種國. Theo đó mà suy tiếp thì nước Việt có tới 54 sắc tộc, chắc phải kêu “Tạp chủng quốc?” Ngưng trích.

2. CÔNG XÚC TU SỈ 公觸羞恥.
Đây là một từ chuyên dùng có tính chuyên môn của ngành Luật Học, chỉ một tội phạm hình sự : TU 羞 là mắc cở, là thẹn thùa; SỈ 恥 là Sỉ diện,là Nhục nhã. CÔNG XÚC TU SỈ là Làm những điều sỉ nhục, hỗ thẹn xúc phạm đến người khác nơi công cộng. Như cố ý rờ rẫm sờ mó phụ nữ nơi công cộng; Trần truồng chạy ngoài đường phố... Thiết nghĩ, từ nầy rất ít ai dám sử dụng, ngoại trừ ngành Luật, tòa án và báo chí... Ta chỉ nên nêu lên cho mọi người biết rõ nghĩa để cẩn thận khi sử dụng mà thôi !

3. CỨU CÁNH 究竟 :
CỨU 究 gồm có bộ HUYỆT 穴 là hang động ở trên, phía dưới là chữ CỬU 九 là hình dáng của một người đang bò vào hang động. Nên CỨU là Tra Cứu, tìm hiểu đến cùng. CÁNH 竟 được ghép bởi ba bộ LẬP NHẬT và NHÂN với hội ý là người đứng dưới mặt trời, người là điểm cuối cùng, nên CÁNH là Đến cùng, đến nước chót. Như ông bà thường nói "Hữu chí CÁNH thành 有志竟成" có nghĩa "Có chí đến cùng cũng thành công". Nói gọn lại là "Có Chí Thì Nên". Vì thế...
CỨU CÁNH 究竟 có nghĩa đen là "Tra cứu đến nước chót". Nhưng ta thường dùng với nghĩa RỐT CUỘC, CUỐI CÙNG. Ví dụ: Anh làm như thế, CỨU CÁNH là vì cái gì ? CỨU CÁNH thường dùng để chỉ MỤC ĐÍCH cuối cùng của việc làm hay của hành động nào đó. Nên câu “Cặp giò của Ronaldo là Cứu Cánh cho đội tuyển Bồ Đào Nha.” không phải là câu "nói xàm" như Lê Vĩnh Húy đã viết... Trích...
...Nhưng vì có chữ “Cứu,” khiến nhiều người liên tưởng với Cấp cứu, Cứu tinh, dẫn tới chỗ cho Cứu cánh là “yếu tố cứu giúp cuối cùng trong cơn nguy cấp.” Nhờ vậy tụi bình luận viên được dịp nói xàm, kiểu “Cặp giò của Ronaldo là cứu cánh cho đội tuyển Bồ Đào Nha.” Ngưng trích.


4. DA LIỄU :
Đúng như Lê Vĩnh Húy đã viết, Trích : "Thiệt ra đây vốn là “Hoa liễu” 花柳. Danh từ Hán Việt nầy, lúc đầu là rút gọn thành ngữ “Tầm hoa vấn liễu” (Tìm hoa hỏi liễu), cách nói bóng bẩy vụ chui vô ổ điếm. Từ đó Hoa liễu dùng để chỉ các thứ bịnh lậu, bịnh phong tình".
Sau 1975, chữ “Hoa liễu” bị phối giống thoái hóa, thành “Da liễu.” Ngưng trích.
Sao lại nói là "bị phối giống thoái hóa"? DA LIỄU là từ phát sinh bằng cách Nôm hóa từ HOA LIỄU theo như TẬP QUÁN NGÔN NGỮ của quần chúng nhân dân Việt Nam. Vì các chứng bệnh phong tình hay phát ra ngoài làm thay đổi màu sắc và hình dáng của làn da, như da bị căng bóng hơn, đỏ hơn hoặc có các đóm đen khác thường... Nên giới bình dân gọi trại từ HOA LIỄU thành DA LIỄU cũng là căn cứ vào thực tế quan sát mà ra, sao lại gọi là "bị phối giống thoái hóa" ? Đó là từ phát sinh từ quan sát thực tế đó chứ ! NÓ là "Tiến hóa" chớ không phải "Thoái hóa" và nếu NÓ không được mọi người chấp nhận, thì tự khắc NÓ sẽ bị mọi người đào thải ngay !

Về các từ : 5. ĐA PHẦN, 6. ĐẢM BẢO 擔保, 7. GIẢ THIẾT – GIẢ THUYẾT thì ngữ nghĩa của các từ nầy cũng đã khá rõ ràng, như ai cũng biết ĐA PHẦN là PHẦN NHIỀU; ĐẢM BẢO là BẢO ĐẢM, còn GIẢ THIẾT 假設, THIẾT là Thiết Lập, là dựng nên, chuyện không có mà ví dụ như có. Còn THUYẾT 說 là NÓI, nên GIẢ THUYẾT 假說 là chuyện không có mà nói ví dụ như là có. Nên GIẢ THIẾT và GIẢ THUYẾT nghĩa cũng tương tự như nhau, còn một từ tương tự nữa là GIẢ NHƯ 假如 thì nghĩa cũng "sem-sem" mà thôi !

8. KHUẤT TẤT 屈膝 :
KHUẤT 屈 là Cong; TẤT 膝 là Đầu Gối. Nên KHUẤT TẤT là "Cong đầu gối lại" là "Qùy gối", là "Chịu thua", là "Đầu hàng", là "Chịu lép vế" trước ai đó. Vì KHUẤT còn có nghĩa là OAN ỨC. Như : "thụ khuất 受屈" là "Chịu oan", "khiếu khuất 叫屈" là "Kêu oan". Nên nghĩa phát sinh của KHUẤT TẤT là "Còn ấm ức", còn "Có ẩn tình gì đó"... mà đành chịu. Ví dụ như : Chuyện ấy nghe hình như còn có KHUẤT TẤT gì trong đó !
Đơn giản thế thôi, chứ không như ông Lê Vĩnh Húy giảng giải tràng giang đại hải đến 24, 25 dòng mà không nêu bật được nghĩa chính của từ muốn giảng.

9. LANG BẠT KỲ HỒ 狼跋其胡 :
LANG BẠT KỲ HỒ 狼跋其胡 đúng là có xuất xứ từ Kinh Thi, thiên Bân Phong, bài Lang Bạt 《詩經.豳風·狼跋》hai câu đầu là :
狼跋其胡, Lang bạt kỳ hồ,
载疐其尾. Tải chí kỳ vĩ.
Có nghĩa :
Sói bước tới vướng yếm bìu,
Bước lui thì vướng đuôi nhiều lông kia.
Bước tới thì vướng cái yếm trước cổ, bước lui thì lại đạp nhằm đuôi, có nghĩa như "Tiến thoái lưỡng nan", nên ông Lê Vĩnh Húy đã giảng là : trích...

...“Lang bạt kỳ hồ” thường được hiểu sai là “bềnh bồng vô định, rày đây mai đó.” Thiệt ra nghĩa của nó hoàn toàn trái ngược: “Là tình trạng lúng túng kẹt xương khu, tiến thối đều không xong.”
...Nên “Lang bạt kỳ hồ,” về ý nghĩa tương tợ thành ngữ “Như gà mắc tóc” bên ta. Ngưng trích.

Không sai ! về nghĩa gốc là như thế. Nhưng trong ngôn ngữ của Việt Nam ta, nếu nói câu : "Ông ấy đang Lang bạt kỳ hồ" là người ta sẽ hiểu ngay là "Ông ấy đang sống bềnh bồng vô định, rày đây mai đó". Chớ không ai hiểu là "Ông ấy đang như gà mắc tóc" hay "Ông ấy đang lúng túng kẹt xương khu, tiến thối đều không xong" cả ! Tại sao ?! Tại vì đó là TẬP QUÁN NGÔN NGỮ là Thói quen của tiếng nói mà mọi người đều chấp nhận !(Xin xem lại phần đầu!) và...
Không chỉ có "LANG BẠT KỲ HỒ" bị hiểu khác với "nghĩa gốc" ra, còn có rất nhiều thành ngữ khác của người Hoa cũng thế. Cụ thể như thành ngữ LÃO MÃ THỨC ĐỒ 老馬識途 là "NGỰA QUEN ĐƯỜNG CŨ" có tích như sau :
Tề Hoàn Công đem binh đi giúp nước Yên đánh bại được quân Sơn Nhung, trên đường về lại bị dẫn dụ lạc vào sa mạc Hàn Hải với gió cát mịt mù không nước uống, lạnh lẽo buốt giá không biết đường ra, quân sĩ kiệt quệ chết chốc rất nhiều . Tướng Quốc Quản Trọng mới tâu với Tề Hoàn Công về đặc tính nhận được đường về của loài Ngựa, bèn chọn một số ngựa già, thả cho chúng tự tìm lối ra, rồi ra lệnh cho toàn quân đi theo sau. Quả nhiên sau vài lần quanh quẹo đã ra khỏi được sa mạc hiểm ác kia.

"LÃO MÃ THỨC ĐỒ" là thành ngữ chỉ những con ngựa già có khả năng tìm về đường cũ đã đi qua, dùng để chỉ những người già dặn có kiến thức, có kinh nghiệm sống, có thể hướng dẫn ta đi những con đường đúng. Còn "NGỰA QUEN ĐƯỜNG CŨ" của ta thì chỉ những người đã làm việc xấu việc sai, dù cho có cải hóa sửa đổi lại rồi, cũng dễ dàng đi lại con đường sai lầm cũ, tật xấu khó chừa !

Vậy, có thể nói là ta đã sử dụng sai rất nhiều thành ngữ có gốc Hoa không ?! KHÔNG ! Như tôi đã nói, đó là TẬP QUÁN NGÔN NGỮ, là Thói quen của tiếng nói từng miền, từng vùng, từng dân tộc... VÂNG ! NÓ sai với "nghĩa gốc" của "Xuất xứ", nhưng NÓ "ĐÚNG" với thói quen của ngôn ngữ mà mọi người đang sử dụng ! Nên, những từ như :

10. SỞ HỮU 所有 : Cái mà ai đó có được.(Sao lại đem Luật Sở Hữu vào đây, rồi mĩa mai cay độc). Trích...
“Sở hữu” là “những thứ thuộc về mình, của cải mình có được.” Nói vậy có phần mù mờ. Thú vị là ở đây ngành luật đã giúp định nghĩa rõ ràng, cụ thể: “Quyền sở hữu phải gồm đủ ba quyền: chiếm hữu, sử dụng và định đoạt.”
“Sở hữu” là “những thứ của ta, tức là vật ngoài thân, không dính liền lủng lẳng bên mình.” Nhiều nhà báo cách mạng bi giờ thích nói Nho, đã xài chữ “Sở hữu” vô tội vạ. Thí dụ: “Tiền đạo A sở hữu chân trái sút phạt điệu nghệ,” hoặc “Mỹ nhân B. sở hữu vòng eo 56cm mê hồn,” v..v… Cái chân hoặc vòng eo đó, đương sự không thể toàn quyền sử dụng, cầu thủ thượng thặng như Cristiano Ronaldo nhiều khi cũng sút phạt như hạch; còn vòng eo Ngọc Trinh, tuy tui chưa từng có dịp tận tay đo qua, nhưng ai cũng biết hổng phải lúc nào cổ cũng giữ được cỡ eo đó. Và Ronaldo nếu chặt chân đem bán, thì cái giò vàng kia cũng vô dụng, chẳng nên cơm cháo gì. Trường hợp đó mà xài chữ “Sở hữu” thì chỉ là đem khoe cái ngu của mình đặng cho chúng cười miễn phí. Ngưng trích.
Lý luận dài dòng, vô vị, trịch thượng, lên giọng kẻ cả !

11. TA THÁN 嗟嘆: Lời than thở kêu ca (CA nầy đâu có nghĩa là CA HÁT đâu)
12. THỤC MẠNG 贖命 hay BÁN MẠNG hay TRỐI CHẾT gì cũng đều là từ thông dụng mà thôi.
13. TRIỀU CƯỜNG 潮強 là Nước thủy triều mạnh lên mà thôi. Rất dễ hiểu, nên thông dụng. Có gì đâu mà thắc mắc !
14. XÁN LẠN 燦爛 đều là chữ Hình Thanh, bên phải chỉ ÂM, bên trái chỉ Ý là bộ HỎA 火 là LỬA. Nên XÁN LẠN 燦爛 có nghĩa là (Ánh lửa) Rực rỡ, Chói Chan. Vì thế nhóm từ "TIỀN ĐỒ XÁN LẠN 前途燦爛" là "Con đường trước mắt tươi sáng rực rỡ" thường dùng để chỉ những sự thành công vượt bực ở tương lai.
Điều đáng nói là : Nếu mình giỏi chữ Nho, giỏi Hán Việt, thì mình nên giải thích rõ ràng để cho bà con sử dụng cho đúng, đừng hiểu sai hiểu lầm... chớ sao lại đi giễu cợt bà con một cách mĩa mai tội nghiệp... Trích...
...Nhiều người lại hiểu đây là chữ láy trong tiếng Việt, nên viết thành “Sáng lạng.” Dám hỏi: “Hồi sáng các hạ ra đường lạng lách cho đã, giờ kịp vô nhà thương chưa?” Ngưng trích.

15. YẾU ĐIỂM 要點 :
Trích... Chữ nầy dễ bị hiểu thành “Điểm yếu,” tức là “nhược điểm.”... Nhưng “Yếu” là “quan trọng, cần thiết.” Như Thiết yếu, Trọng yếu, Yếu nhơn (nhơn vật quan trọng)… Nên “Yếu điểm” là chỗ quan trọng, không phải chỗ yếu kém. Ngưng trích.
Không sai ! YẾU ĐIỂM 要點 là "Điểm Trọng Yếu". Nhưng đôi khi "Điểm Trọng Yếu" cũng là NHƯỢC ĐIỂM 弱點 của mình đó. Ví dụ như : Quân địch tấn công vào YẾU ĐIỂM của quân ta. Vì là "Điểm Trọng Yếu" nên quân địch mới nhắm tới để tấn công. Thành ra YẾU ĐIỂM mà lại là NHƯỢC ĐIỂM, vì là chỗ để cho quân địch nhắm vào !
Chữ nghĩa đôi khi lắt léo, tinh vi, thú vị là vì thế ! Nên thiết nghĩ...

Xuất phát từ động cơ tốt, muốn làm rõ nghĩa để sử dụng từ ngữ một cách chính xác hơn, nhưng cách trình bày nhận xét và phê bình của ông Lê Vĩnh Húy không được tế nhị, mà lại luôn có giọng điệu mĩa mai cay độc (mời đọc bài của Lê Vĩnh Húy kèm theo sau bài viết nầy). Nhớ...

Khoảng giữa năm 1994, dân Sài Gòn đọc được một bài đăng trên báo Sài Gòn Giải Phóng của Giáo Sư Lương Duy Thứ, Trưởng Khoa Trung của Đại Học Tổng Hợp vừa chuyển sang thành Đại Học Khoa Học Xã Hội & Nhân Văn, nội dung bài báo đề cập đến việc nên dùng từ " CHÚNG CƯ " thay thế cho từ " CHUNG CƯ " giống như bài viết nầy đã đề cập. Sau đó, các báo, đài đều hưởng ứng dùng từ CHÚNG CƯ thay thế cho CHUNG CƯ, nhưng , chỉ một thời gian sau và mãi cho đến hiện nay, đã hơn 30 năm qua , thì... đâu vẫn hoàn đấy ! Tập thể Quần Chúng nói tiếng Việt vẫn thích dùng từ CHUNG CƯ hơn là CHÚNG CƯ !!! Tất cả báo đài trước mắt đều quảng cáo cho các CHUNG CƯ CAO CẤP, như CHUNG CƯ CAO CẤP Phú Mỹ Hưng chẳng hạn ! chớ không phải CHÚNG CƯ nữa !
Từ đó, ta có thể xác định lại một lần nữa là : Cái TẬP QUÁN NGÔN NGỮ của quần chúng, NÓ mạnh mẽ biết chừng nào !. Nên, theo tôi thì...
Những từ nào đã được tập thể quần chúng nhân dân sử dụng rộng rãi rồi thì... thôi, ta nên chấp nhận (không chấp nhận cũng không được !) Nó như là một thành viên mới trong gia đình, nếu tự bản thân Nó không ổn, chắc chắn Nó sẽ bị đào thải mà thôi ! Ví dụ như từ " CHÚNG CƯ " đã nêu ở trên.


Trên đây là những góp ý rất chân thành và khách quan của tôi, nhằm mục đích làm trong sáng và phong phú hơn tiếng Việt một cách thực tế, phù hợp với " TẬP QUÁN NGÔN NGỮ" hằng ngày của cộng đồng người VIỆT nói tiếng VIỆT, chớ không lập dị hoặc bới lông tìm vết gì cả !

Trân trọng !
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức

Các chữ Hán Việt thường dùng sai
.

1. CHUNG – CHÚNG – CHỦNG
a) CHUNG CƯ hay CHÚNG CƯ?

“Chung cư” cũng là danh từ mới, dịch chữ “Apartment” trong Anh ngữ.
“Chung” đây là tiếng Việt, trái nghĩa với “riêng.” “Cư” 居 là chữ Hán, nghĩa là “Ở.” Gán ghép vậy giống như cho gà trống “đạp” vịt mái, đặng kiếm ổ trứng ung.

Trong Hán Việt chỉ có Chung 終 là “hết,” hoặc “chết.” “Chung cư” vì vậy thành ra chỗ người chết ở, tức là… nghĩa trang. Hết biết!

“Apartment” là khu nhà dành cho nhiều gia đình ở, phân ra nhiều căn buồng. Tây dịch “Apartment” là “Pension,” Tàu kêu là “Công ngụ” 公寓. Chữ Công 公 nầy mới đúng nghĩa “Chung đụng” trong tiếng Việt.

Còn bên mình khi dịch, thì lấy chữ “Cư” chớ không lấy “Ngụ.” Đã vậy thì phải là “Chúng cư” 眾居 mới hợp nghĩa, vì Chúng là số đông (như “chúng sinh”).

b) HỢP CHỦNG QUỐC hay HỢP CHÚNG QUỐC?

“United States” nghĩa là “Liên hợp các tiểu bang,” dịch ra Hán Việt là “Hợp chúng quốc” 合衆國

Nhưng nhiều người giỏi chữ quá, đã hiểu thành “Liên hợp các chủng tộc,” nên kêu là “Hợp chủng quốc” 合種國. Theo đó mà suy tiếp thì nước Việt có tới 54 sắc tộc, chắc phải kêu “Tạp chủng quốc?”

CÔNG XÚC TU SỈ 公觸羞

Do có chữ “Tu sỉ,” nên dễ lộn với “Tu sĩ” (giới tăng lữ), từ đó hiểu lầm là “xúc phạm các thầy tu."

Thiệt ra, “Công” là “Công khai, Công cộng;” “Xúc” là “Túc phạm;” “Tu” là “mắc cỡ;” “Sỉ” là “nhục nhã.” “Công xúc tu sỉ” vì vậy là ngang nhiên có ngôn ngữ, hành vi vô liêm sỉ, làm người khác mắc cỡ ở nơi công cộng. Nói chung là “hành vi vi phạm thuần phong mỹ tục.” Thí dụ: Cởi truồng chạy nhong nhong ra đường, theo luật Việt Nam hiện hành thì bị phạt hành chính, còn thời Pháp thuộc là can tội “Công xúc tu sỉ.” Tội danh này, các nước xài Hán ngữ kêu là tội “Phi lễ” (vô lễ, bất kính với người xung quanh).

3. CỨU CÁNH 究竟

“Cứu” đây là “chỗ tận cùng.” “Cánh” là “sau hết, xong xuôi.” Cứu cánh vì vậy nghĩa là “kết quả, rốt cuộc, sau cùng.” Người mình hay nói: “Cứu cánh biện minh cho phương tiện,” tức là sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn, miễn sao đạt được mục đích cuối cùng là được.

Nhưng vì có chữ “Cứu,” khiến nhiều người liên tưởng với Cấp cứu, Cứu tinh, dẫn tới chỗ cho Cứu cánh là “yếu tố cứu giúp cuối cùng trong cơn nguy cấp.” Nhờ vậy tụi bình luận viên được dịp nói xàm, kiểu “Cặp giò của Ronaldo là cứu cánh cho đội tuyển Bồ Đào Nha.”

4. DA LIỄU

Danh từ nầy cũng kiểu gán ghép tùy tiện. “Da” là tiếng Việt, ghép với “Liễu” là Hán Việt.

Thiệt ra đây vốn là “Hoa liễu” 花柳. Danh từ Hán Việt nầy, lúc đầu là rút gọn thành ngữ “Tầm hoa vấn liễu” (Tìm hoa hỏi liễu), cách nói bóng bẩy vụ chui vô ổ điếm. Từ đó Hoa liễu dùng để chỉ các thứ bịnh lậu, bịnh phong tình.

Sau 1975, chữ “Hoa liễu” bị phối giống thoái hóa, thành “Da liễu.”

5. ĐA PHẦN

Danh từ “Đa phần” được hiểu là “phần lớn.” Trong đó “Đa” (Nhiều) là chữ Hán, lại được ghép với “Phần” là tiếng Việt. Kiểu nửa quê nửa tỉnh nầy đúng là xài tiếng “Hán bồi.”

Tiếng Việt mình vốn đã sẵn chữ “Phần lớn,” “Phần đông,” “Phần nhiều,” sao không lựa đó mà xài cho dễ hiểu? Như muốn “xổ Nho” sang miệng, thì phải là “Đa số,” hoặc “Đại bộ phận.” Còn thích lươn lẹo lẽo lự thì cứ hô “Một bộ phận không nhỏ.”

6. ĐẢM BẢO 擔保

“Đảm” là “gánh vác;” “Bảo” là “giữ gìn.” Ghép lại thành ra nghĩa là “sẽ không để xảy ra trục trặc gì đó.”

Thiệt ra nói “Đảm bảo” không sai. Có điều, người xưa khi mượn chữ Hán, đã đảo lộn trật tự các thành tố của từ cho phù hợp văn phạm Việt ngữ. Thí dụ: “Lệ Ngoại” 例外 đảo lộn thành “Ngoại lệ,” “Cao độ” 高度 thành “Độ cao,” “Trọng tải” 重載 thành “Tải trọng” v..v

Ngoài ra, ở đây chữ “Bảo,” cùng chung một mạch với Bảo vệ, Bảo lãnh, Bảo chứng, Bảo an… Nên “Đảm bảo” theo đó cũng được ông bà mình đảo thành “Bảo đảm.”

Kịp tới khi đám Việt cộng qua Tàu học chữ, lại rước về nguyên xi hai chữ “Đảm bảo.”

7. GIẢ THIẾT – GIẢ THUYẾT

a). GIẢ THIẾT 假設: Là một “dữ kiện coi như có thiệt,” được chấp nhận trước là đúng, đặng làm chỗ dựa hầu chứng minh giống ôn gì đó. Thí dụ: “Nếu mai trời sập, thì đảng ta vẫn không chịu sụm.” “Nếu mai trời sập” là một Giả thiết.

b). GIẢ THUYẾT 假説: Có nghĩa ngược lại, chỉ là tạm giải thích một hiện tượng, sự việc nào đó chưa được chứng minh; tức là chỉ phỏng đoán. Thí dụ: “Do hồi đó anh Phúc trồng cả tỷ cây đa, nên giờ ảnh thành chú Cuội.” “Thành chú Cuội” là một Giả thuyết.

8. KHUẤT TẤT 屈膝

Động từ “Khuất tất,” vì gồm hai chữ liền vần, nên dễ lầm tưởng là chữ láy. Ngoài ra, do “Tất” đồng âm với “bít-tất” (tức “đôi vớ” trong Nam, ngoài Bắc có khi cũng kêu gọn là “Tất”), khiến có người hiểu là “che khuất đôi tất.” Vì vậy, “Khuất tất” dễ bị lầm, cho là đồng nghĩa với “ám muội.”

Nhưng đây là chữ Hán Việt.

“Khuất” là “co lại, hàng phục.” Thí dụ, Mạnh tử có câu: “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” (Giàu sang không buông thả, nghèo hèn không dời đổi chí hướng, uy quyền không thể khuất phục).

Còn “Tất” là đầu gối. Trong thể văn biền ngẫu có loại câu “Hạc tất” (Gối hạc), là câu văn chia làm ba đoạn, hai đoạn đầu với cuối dài hơi hơn, đoạn giữa ngắn, giống chỗ đầu gối con hạc. Có câu đối nôm cực kỳ sinh động, tả như vẽ cảnh thầy khóa thời xưa thi rớt:

“Ngỏng cổ cò trông bảng không tên, trời đất hỡi, văn chương xuống bể;

Lủi đầu cuốc về nhà gọi vợ, mẹ nó ơi, tiền gạo lên trời!“

Mấy chữ “trời đất hỡi,” “mẹ nó ơi” đó chính là chỗ Hạc tất.

“Khuất tất” vì vậy nghĩa đen là “hổng thấy đầu gối,” tức động tác quỳ sụp xuống; nghĩa bóng chỉ “thái độ khuất nhục.” Thí dụ, trong Hán thư (truyện Tư Mã Tương Như), có câu “Giao tý thụ sự, khuất tất thỉnh hòa” 交臂受事, 屈膝請和 (Giơ tay chịu khiến, quỳ gối xin hàng).

Không ít người vướng phải lối hiểu sai nghĩa, dùng “Khuất tất” với cái nghĩa “có điều gì ám muội, không minh bạch.” Thí dụ: “Trong vụ nầy có điều khuất tất.” Ở đây, phải dùng “khuất lấp,” hoặc “mập mờ” mới đúng.

9. LANG BẠT KỲ HỒ 狼跋其胡

Thành ngữ này do có chữ “Lang,” khiến liên tưởng tới “lang thang,” rồi chữ “Bạt” lại khều thêm “phiêu bạc,” tới chữ “Hồ” dường như cũng dính dáng với “giang hồ.” Do đó, “Lang bạt kỳ hồ” thường được hiểu sai là “bềnh bồng vô định, rày đây mai đó.” Thiệt ra nghĩa của nó hoàn toàn trái ngược: “Là tình trạng lúng túng kẹt xương khu, tiến thối đều không xong.”

Vốn đây là chữ trong Kinh Thi (thiên Bân phong): “Lang bạt kỳ hồ, tải chí kỳ vĩ” 狼跋其胡, 载疐其尾 (Con sói già bước tới thì giẫm trúng yếm da trước cổ, lui lại thì đạp nhằm đuôi mình).

“Lang” là loài sói; “Bạt” là giẫm lên; “Hồ” là cái yếm da lòng thòng trước cổ loài thú.

Hầu hết tụi bốn chân đều có yếm da ở cổ. Yếm nầy dễ thấy nhứt ở mấy con bò già, đã “đách” có công dụng quái gì, lại lòng thòng vướng víu mắc ớn. Có điều, yếm da xệ tới vướng chơn không bước được thì là cách phóng đại, cốt để nhấn mạnh cái ý “bị vướng víu.”

Nên “Lang bạt kỳ hồ,” về ý nghĩa tương tợ thành ngữ “Như gà mắc tóc” bên ta.

Còn như muốn tả tình trạng trôi dạt bềnh bồng, nên dùng thành ngữ “trôi sông lạc chợ,” hoặc thích “xổ Nho” thì xài “Phiêu bạc giang hồ” cho nó xôm tụ!

10. SỞ HỮU 所有

“Sở hữu” là “những thứ thuộc về mình, của cải mình có được.” Nói vậy có phần mù mờ. Thú vị là ở đây ngành luật đã giúp định nghĩa rõ ràng, cụ thể: “Quyền sở hữu phải gồm đủ ba quyền: chiếm hữu, sử dụng và định đoạt.”

“Sở hữu” là “những thứ của ta, tức là vật ngoài thân, không dính liền lủng lẳng bên mình.” Nhiều nhà báo cách mạng bi giờ thích nói Nho, đã xài chữ “Sở hữu” vô tội vạ. Thí dụ: “Tiền đạo A sở hữu chân trái sút phạt điệu nghệ,” hoặc “Mỹ nhân B. sở hữu vòng eo 56cm mê hồn,” v..v… Cái chân hoặc vòng eo đó, đương sự không thể toàn quyền sử dụng, cầu thủ thượng thặng như Cristiano Ronaldo nhiều khi cũng sút phạt như hạch; còn vòng eo Ngọc Trinh, tuy tui chưa từng có dịp tận tay đo qua, nhưng ai cũng biết hổng phải lúc nào cổ cũng giữ được cỡ eo đó. Và Ronaldo nếu chặt chân đem bán, thì cái giò vàng kia cũng vô dụng, chẳng nên cơm cháo gì. Trường hợp đó mà xài chữ “Sở hữu” thì chỉ là đem khoe cái ngu của mình đặng cho chúng cười miễn phí.

11. TA THÁN 嗟嘆

“Ta” là thán từ, biểu thị “tiếng kêu xót thương.” “Thán” là “thở dài, tiếng than.” “Ta thán” nghĩa là “tiếng kêu ca, than khóc.” Thí dụ: “Lòng dân ta thán.”

Còn “Ca thán” chắc là vừa ca hát vừa than khóc, chuyện thường thấy trong đám ma buổi tân thời. Người thích xài chữ “Ca thán” nếu không phải dòng dõi “Hít-le,” ắt cũng con cháu “Phùng Há.”

12. THỤC MẠNG

“Thục” là “chuộc.” “Thục mạng” 贖命 là “chuộc mạng,” tức đem tiền tài, phẩm vật ra nộp nhằm chuộc mạng sống, hoặc để miễn tù tội.

Không hiểu sao, gần đây người ta lại hiểu “Thục mạng” là liều mạng, bạt mạng cô hồn. Thành thử thỉnh thoảng đọc báo lại thấy có “chạy thục mạng,” “đánh nhau thục mạng.” Không phải cứ xài Hán Việt mới tỏ ra học xa hiểu rộng. Ở đây phải là “chạy trối chết,” “uýnh nhau trối chết” mới đúng.

Xài đúng chữ thì cho dù câu văn chất phác nhưng sinh động, còn hơn dùng Hán Việt màu mè mà xàm xí mứng.

13. TRIỀU CƯỜNG

“Triều cường” cũng là tiếng tân thời, để chỉ mực nước sông hoặc nước biển dâng cao bất thường trong khoảng thời gian nhất định. Nhiều người cho đây là do tiếng Hán Việt “Cường triều” 強潮 đảo lại mà thành.

Ngặt nỗi tiếng Tàu hề không có chữ “Cường triều.” Để chỉ mực nước dâng cao, tụi Tàu nói “Trướng triều” 漲潮, là “con nước dâng đầy.”

Nói về mực thủy triều, người mình thiếu cha gì chữ diễn tả: Nước lớn, Nước đứng, Nước ròng, Nước lớn đầy… Như nước lớn quá cỡ, thì là “Nước rong,” mắc mớ gì kêu “Triều cường” vậy bây?

14. XÁN LẠN 燦爛

“Xán” và “Lạn” đều nghĩa là “tươi sáng.” “Xán lạn” do vậy diễn tả “thứ gì đó sáng chói, đẹp đẽ.” Thí dụ: “Tiền đồ xán lạn.”

Nhiều người lại hiểu đây là chữ láy trong tiếng Việt, nên viết thành “Sáng lạng.” Dám hỏi: “Hồi sáng các hạ ra đường lạng lách cho đã, giờ kịp vô nhà thương chưa?”

15. YẾU ĐIỂM 要點

Chữ nầy dễ bị hiểu thành “Điểm yếu,” tức là “nhược điểm.

Nhưng “Yếu” là “quan trọng, cần thiết.” Như Thiết yếu, Trọng yếu, Yếu nhơn (nhơn vật quan trọng)… Nên “Yếu điểm” là chỗ quan trọng, không phải chỗ yếu kém.

Lê Vĩnh Húy

Không có nhận xét nào: