Theo nhà thơ Thiên Hà, nhạc sĩ Anh Việt Thu tên thật Huỳnh Hữu Kim Sang, sinh năm 1939 tại Cao Miên. Một năm sau, gia đình trở về Việt Nam, mới làm khai sinh cho anh, ghi sinh ngày 24 tháng 8 năm 1940, tại Cái Bè, Mỹ Tho. Nhà thơ Vũ Anh Sương cho biết, họ Huỳnh có người em ruột tên là Việt Thu. Ðể nhớ đến trách nhiệm làm anh của mình, ông chọn bút hiệu Anh Việt Thu anh của Việt Thu phải bảo bọc người em bị bệnh tê liệt...
<!>
Gia đình ông gồm nhiều em: theo Hồng Ngọc Viễn Đông, ông là anh đầu, có ba em là Huỳnh Hữu Phi Long, Huỳnh Thị Kim Phụng và Huỳnh Hữu Việt Thu.
Thuở nhỏ ông theo học tại trường làng Tân Vĩnh, Vĩnh Long, trường quận Cái Bè, trường tỉnh Mỹ Tho và năm 1950 được lên Sài Gòn tiếp tục việc học. Trong những năm học trung học tại Sài Gòn, ông được người bạn cùng lớp là Ngô Văn My chỉ cho đánh đàn Tây Ban Cầm và từ đó anh tự học lấy. Có năng khiếu âm nhạc thời học sinh vì vậy tự học nhạc lý và sáng tác. Gia đình ông ở quê không khả giả nên khi học ở Sài Gòn, có thời gian dạy kèm ở các nhà người khác để kiếm tiền học phí và chi tiêu cá nhân.
Năm 1956, ở tuổi 17, Anh Việt Thu đã nổi tiếng với ca khúc Giòng An Giang (địa danh nổi tiếng của miền Nam là Thất Sơn, Châu Ðốc và Tiền Giang - một trong chín nhánh sông của Cửu Long Giang) cũng thời điểm thi vào trường Quốc Gia Âm Nhạc Sài Gòn. Ông học nhiều môn âm nhạc: nhạc pháp, hòa âm, đối âm, sáng tác, dương cầm... với các giáo sư như Hùng Lân, Nguyễn Văn Huấn, Ngô Duy Linh, v.v. Chủ Tịch Hội Sinh Viên. Tốt nghiệp khóa I trường QGÂN năn 1963 . Cùng năm đó, ông đệ trình luận án âm nhạc tại Nhạc Viện Tokyo (Nhật Bản) và tốt nghiệp hạng ưu khi trở về Việt Nam.
Sau khi tốt nghiệp, năm 1964 ông dạy nhạc ở trường trung học Tây Ninh ((nay là trường PTTH Trần Hưng Đạo), trường Trần Hưng Đạo Sài Gòn.
Năm 1965 đến năm 1966, ông thành lập đoàn Du Ca Phù Sa gồm ông, Anh Việt Thanh, Hà Phương, Phạm Minh Cảnh, hát từ Cần Thơ ra đến Huế. Năm 1966, ông là huấn luyện viên các khóa huấn luyện Thanh Ca Tác Động do Bộ Thanh Niên tổ chức tại Sài Gòn, cùng với Đỗ Quý Toàn, Nguyễn Đức Quang, Phương Oanh, Nguyễn Thanh, Ngô Mạnh Thu.. Khóa sinh do Ty Thanh Niên ở các tỉnh tuyển chọn và đưa về dự. Đây là tiền thân của Phong Trào Du Ca Việt Nam.
Trong các năm 1966-1968, ông được Đài Vô Tuyến Việt Nam mời về làm chương trình Phù Sa và cùng với Thiên Hà tuần báo Văn Nghệ Truyền Thanh. Năm 1971, ông có chương trình Giờ Âm Nhạc Anh Việt Thu trên Đài Truyền Hình Việt Nam. Giai đoạn 1972-1974, ông hợp tác với hãng Đĩa Hát Việt Nam thực hiện một số băng nhạc.
Ông cũng tham gia thành lập nhà xuất bản Ngạn Ngữ cùng nhà thơ Nguyễn Vương, để in sáng tác của ông văn thơ thân hữu. Việc thành lập nhà xuất bản cho thấy ông có lý tưởng, quý trọng những sáng tác, không chỉ vì danh vọng.
Trong bài viết của Lương An Cảnh:
“Khi gặp nhau, anh cho biết tên là anh Huỳnh Hữu Kim Sang, còn khi viết nhạc, anh lấy tên là Anh Việt Thu. Sau một thời gian, hai đứa thân nhau, anh rủ tôi về ở chung tại số 41 đường Da Bà Bầu, cạnh bên 34 nhà của Trường Kỳ số 39. Lúc bấy giờ, Anh Việt Thu đang dạy nhạc tại Trung Học Trịnh Hoài Đức tỉnh Bình Dương. Tuy bận rộn nhưng cũng nhận thêm chương trình Tổng Hội Sinh Viên phát thanh hằng tuần trên Đài Phát Thanh Sài Gòn. Thành phần nồng cốt gồm: Anh Việt Thu lo phần soạn hòa âm. Nhạc khí gồm Huỳnh văn Hóa, Cao Thanh Tùng, tôi và một số anh em khác được tăng cường tùy theo nhu cầu. Ca sĩ thì có thể thay đổi tùy chương trình.
Năm 1960, Tổng Hội Sinh viên tổ chức trại Hè Hội Thảo tại Đà Lạt, chúng tôi phụ trách phần văn nghệ và tổ chức hai buổi phát thanh tại Đài Phát Thanh Đà Lạt. Nhạc sĩ Anh Việt Thu học khóa đầu tiên về Hòa Âm của Trường Quốc Gia Âm Nhạc qua các thầy dạy là: Hải Linh, sau đó Linh Mục Ngô Duy Linh thay thế. Khi Trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế được thành lập, Linh Mục Ngô Duy Linh được đề cử ra làm Giám Đốc. Người thay thế sau cùng là giáo sư Nghiêm Phú Phi…
… Sau khi rời trường Quốc Gia Âm Nhạc, mỗi đứa có hướng đi một nơi. Tôi đi dạy học rồi bị động viên nên vào ngành Quân Nhạc, còn Anh Việt Thu dường như đi dạy ở Tây Ninh nên ít gặp nhau. Sau đó có lệnh gọi nhập ngũ nên tình nguyện vào Tâm Lý Chiến, Phòng Văn Nghệ chuyên sáng tác với cấp bậc (hạ sĩ quan đồng hóa) mặc dù anh có bằng Tú Tài. Thỉnh thoảng tôi có ghé thăm anh tại Cục Tâm Lý Chiến ngay đầu cầu Thị Nghè, đối diện cổng sau Vườn Bách Thảo. Sau hiệp định Ba Lê, anh cho biết rất bận rộn vì mỗi cuộc hành quân hay trận nào lớn, đều có lệnh phải sáng tác một bài để hát trên Đài Phát Thanh hay Truyền Hình khi trận đánh kết thúc.
Vì quá cấp bách, không biết bài sáng tác của mình có tốt hay không nên thường để những tên lạ, không dám để tên thật. Anh cho tôi hay là đang tuyển lựa những ca khúc quân hành hay để cho vào tuyển tập Đường Chúng Ta Đi do Cục Tâm Lý Chiến thực hiện…
Anh chết để lại vợ và 3 con, cha mẹ còn đầy đủ. Cha anh là ông Huỳnh Hữu Hương, một người em gái mà tôi chỉ nghe nói nhưng chưa gặp mặt, và em trai Út bị sốt tê liệt là Huỳnh Hữu Việt Thu. Đó cũng là bút hiệu của anh.
Trước tôi, Anh Việt Thu có ở chung với một người bạn là thi sĩ Anh Phương. Khi gặp tôi anh có hỏi tôi biết người đó không vì cùng tỉnh Sóc Trăng với tôi và con ông Hội Đồng Vị. Tôi nói chẳng những cùng tỉnh mà cùng làng và cùng xã với tôi nữa… Vì thế nên khi Anh Việt Thu nói thi sĩ Anh Phương, tôi không biết là ai… Anh ăn ở chung với chúng tôi. Sau này anh có nhà riêng và bảo chúng tôi về ở chung ở 37 đường Nguyễn Kim. Đến giờ cơm, chúng tôi mới trở về nhà cũ ăn cơm do mẹ Anh Việt Thu nấu, vì cha mẹ và đứa em Anh Việt Thu đã dọn lên Sài Gòn. Anh Hân luôn theo sát chúng tôi ở mọi nơi… Tôi chưa từng đọc thơ của Anh Phương và cũng không biết Anh Việt Thu có dùng thơ của Anh Phương để phổ nhạc hay lấy ý để viết lời không, nhưng trong tất cả những bài nhạc của Anh Việt Thu không có bài nào ghép tên Anh Phương vào cả.
Một hôm, gia đình Anh Phương bảo anh ta về vì có việc làm ở địa phương. Trong mấy tuần cuối trước khi chia tay, hai người thường dẫn nhau đi chơi, tâm sự rất khuya mới về. Không biết sự tâm đắc và mật thiết giữa hai người như thế nào mà cả hai lại nghĩ rằng: “Hai người có lẽ là hai vì sao trên trời bị lạc xuống trần gian và vô tình gặp lại nhau”.
Đã từ lâu, khi nói đến nhạc sĩ Anh Việt Thu và những sáng tác của anh đều có nhắc đến ca khúc Hai Vì Sao Lạc, nhưng chưa có ai nói đến hay hiểu ý nghĩa, nội dung của lời ca nói những gì và cũng không muốn tìm hiểu mà chỉ thích nhạc điệu của bài ca thôi…”
Vì vậy lời ca nói về hai người bạn trai mà nhiều người vẫn tưởng là phái nữ: “Người về, một mùa thu gió heo may. Về đâu có nhớ chăng những vì sao long lanh. Đưa tiễn người một đêm không trăng. Nói sao nên lời lòng buồn như chiều rơi. Như trong đêm khuya những bước chân qua thềm. Gợi niềm thương nhớ vô vàn…”.
Ca khúc Người Đi Ngoài Phố thấm đẫm nỗi buồn chia ly trong cuộc tình:
“Thôi chia tay nhau từ đây, nghe nước mắt vây quanh
Biết lỡ yêu đương, sẽ đau thương suốt cả một đời,
Nhưng mấy khi tình đầu, kết thành duyên mong ước
Mấy khi tình đầu, kết trọn mộng đâu em”.
Với người bạn thân nữa là Trần Văn Ngà (Thiếu Tá phục vụ trong ngành CTCT):
“Tôi gặp và quen biết Anh Việt Thu từ năm 1957 tại Sài Gòn khi chúng tôi học lớp tam nhị tại trung học tư thục Nguyễn Công Trứ, đường Hai Bà Trưng - đối diện với vòng rào của nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi và cũng gần nhà thờ Công Giáo Tân Định. Sau khi thi bằng Cao Đẳng Tiểu Học Đông Dương (Diplôme d'Étude Primaire Supérieure Indochinoise - DEPSI - tương đương văn bằng trung học Đệ Nhất Cấp sau này), trường Collège de Chaudoc (tiền thân trường trung học đệ nhị cấp Thủ Khoa Nghĩa) không có các lớp đệ nhị cấp nên tất cả học sinh ở Châu Đốc, có đủ điều kiện học lực, được chuyển đến trường Trung Học Phan Thanh Giản ở Cần Thơ hoặc có thể dự thi vào lớp seconde - đệ tam ở trường Trung Học đệ nhị cấp Petrus Trương Vĩnh Ký đối với nam sinh và nữ sinh thì xin hoặc thi vào trường Nữ Trung Học Gia Long. Gia đình không đủ tiền cho tôi học tiếp ở Cần Thơ hoặc Sài Gòn. Vì vậy, tôi xin đi dạy học từ niên học 1954-1955, liên tiếp 3 niên học, tại Núi Sam và tỉnh lỵ Châu Đốc.
Hè 1957, được người bạn tìm cho 2 chỗ dạy kèm tại tư gia, tôi quyết định lên Sài Gòn tiếp tục học lại. Với số tiền dạy kèm cũng đủ trả học phí và tiền ăn ở hàng tháng và tiền xài lặt vặt kể như thiếu thốn triền miên... Tôi quen biết Anh Việt Thu từ hoàn cảnh vừa đi học vừa đi dạy kèm tư gia, cũng như Anh Việt Thu cũng đang vật lộn với chữ nghĩa như tôi, từ xã An Hữu, quận Cai Lậy, tỉnh Định Tường (Mỹ Tho) lên Sài Gòn. Lúc đó - năm 1957 - Anh Việt Thu mới 17, 18 tuổi, còn tôi đã là 22 tuổi. Anh Việt Thu với mái tóc nghệ sĩ, vừa đẹp trai, da trắng, môi lúc nào hồng vừa điềm đạm hiền hòa, vui cười khi gặp bạn bè với nhiều tình cảm trìu mến và gương mặt phúc hậu dễ gây cảm tình với mọi người. Chúng tôi thường tâm sự về chuyện học hành và chuyện gia đình nên sớm thông cảm và mến nhau. Khi học chung lớp chừng một tháng, Anh Việt Thu đưa tôi về chơi ở nhà trọ, đường Bà Hạt hay Da Bà Bầu, tôi không nhớ rõ. Điều mà tôi nhớ rõ nhất, là chủ căn nhà đó là anh Năm, người thấp và có “bề thế” một giáo viên tiểu học, anh bị động viên trước năm 1954. Sau 3 năm phục vụ trong Quân Đội, anh xin giải ngũ với cấp bậc Trung Úy. Anh Năm xem Anh Việt Thu như một người em ruột vì anh còn độc thân, có công ăn việc làm, nhà cửa đàng hoàng nên Anh Việt Thu không phải lo chỗ ăn ở chỉ tìm chỗ dạy kèm tại tư gia kiếm tiền đóng học phí và xài vặt...
Khi Anh Việt Thu và tôi quen khá thân, Thu thường nói với tôi là Thu xem tôi như người anh cả trong gia đình. Mỗi khi có Má của Thu từ An Hữu (gần Bắc Mỹ Thuận - nay là cầu Mỹ Thuận) lên thăm, Thu thường mời tôi đến nhà chơi. Mỗi lần Má của Thu lên Sài Gòn thăm con, bà thường mang theo nhiều quà cáp cho con và đặc biệt là có nhiều loại trái cây, thuộc cây nhà lá vườn và có cả chim óc cao, chằng nghịt rô ti của vùng bắc Mỹ Thuận thường bán dọc 2 bờ bến bắc cho khách vãng lai, qua lại bắc Mỹ Thuận hàng ngày. Má của Thu gọi tôi bằng con như gọi Anh Việt Thu, rất trìu mến. Bà có vóc hình mảnh mai nhỏ nhắn, nước da trắng giống hệt hình dáng Mẹ tôi đang ở quê nhà Châu Đốc.
Hai bà mẹ cùng có một tấm lòng thương yêu con vô hạn, mong muốn con mình học hành đàng hoàng thành danh với đời dù gia đình nghèo, thiếu thốn. Khi chúng tôi thân nhau, Anh Việt Thu mới tâm sự nhiều với tôi, Thu đã sáng tác một bản nhạc đầu đời của người nhạc sĩ nghèo ở nhà quê mới lên thành đô và bản nhạc thứ 2 mới là bản nhạc Giòng An Giang lúc Thu mới 16, 17 tuổi. Anh Việt Thu vừa đệm đàn vừa hát khe khẻ Giòng An Giang cho anh Năm và tôi vừa đủ nghe. Giọng hát của Thu sao sâu lắng trầm buồn gợi nhắc tôi giòng nước đục ngầu chất đất phù sa của giòng sông An Giang, là nơi chôn nhau cắt rún - quê hương yêu dấu của tôi. Giòng An Giang mà Anh Việt Thư viết thành bản nhạc có giai điệu... Từ năm 1962, tôi nhập ngũ và về phục vụ ở Miền Tây nên tôi không còn dịp gặp anh Việt Thu ở Sài Gòn…
Trong lần tôi và Thu lên Chợ Nhỏ, cách không xa cổng trường Sĩ Quan Thủ Đức, chúng tôi vào một quán ăn mà Thu nói là em gái, tôi không hỏi kỹ là em ruột hay em vợ hay em bà con... Có dịp gặp lại tôi, sau hơn 10 năm gặp lại nhau, Anh Việt Thu trút hết bầu tâm sự về đời thường, đời binh nghiệp và những chuyện bất như ý trong sáng tác âm nhạc... Thu còn nói rõ lý do nào Thu lấy vợ mà cô vợ của Thu, khi tôi còn Sài Gòn chưa vào Quân Đội, hình như tôi có gặp đôi lần qua giới thiệu của Thu, cô là nữ sinh yêu thích nhạc Anh Việt Thu và anh là thần tượng của cô...”
Theo nhạc sĩ Phạm Minh Cảnh: “Anh Việt Thu là lính Địa Phương Quân đang xin về phục vụ tại Cục Tâm Lý Chiến, lúc bấy giờ Thu vừa lên lon Hạ Sĩ thì phải. Tôi có nhắn gởi, nếu Thu có gì trục trặc không phục vụ ở Sài Gòn được thì cho tôi hay để tôi xin Thu về Cần Thơ làm việc chung với tôi trong lãnh vực phát thanh Quân Đội của Vùng 4 Chiến Thuật. Tôi còn nói rõ, tôi có khả năng xin Anh Việt Thu về Ban Phát Thanh Báo Chí của Quân Đoàn 4 mà tôi đang phụ trách vì là hàng binh sĩ và là nhạc sĩ, tôi xin không khó, còn cấp hạ sĩ quan và nhất là sĩ quan xin đổi về khó khăn hơn vì phải trình qua nhiều chặng và phải trình cấp lớn hơn...”.
Trích dẫn những dòng của bạn bè thân đã một thời chung sống bên nhau để hiểu rõ về hoàn cảnh và tài năng về âm nhạc khi còn trẻ. Tuy có vài thời điểm, hoàn cảnh và nơi chốn không trùng hợp nhưng để đối chiếu.
Khi tuổi hai mươi, Anh việt Thu đã nổi tiếng qua ca khúc Tám Điệp Khúc. Sau đó những sáng tác khác liên tiếp ra đời: Chân Dung, Ða Tạ, Người Ngoài Phố, Hai Vì Sao Lạc… Xa Dấu Ngựa Hồng, Nhớ Nhau Hoài, Gió Về Miền Xuôi, (phổ thơ Thiên Hà) v.v. Ngoài ra có hàng trăm ca khúc khác. Điển hình như: Anh Còn Gì Cho Em, Chân Dung, Lời Phủ Dụ Từ Tâm, Lời Ru Tiếng Nhớ, Mùa Xuân Đó Có Em, Những Niềm Thương Mến, Tạ Ơn Người (1971), Trên Đầu Súng, Trong Cuộc Tình Sầu…
Tập nhạc Đường Chúng Ta Đi, gồm 16 bài hát: Đường Chúng Ta Đi, Lời Trần Tình, Gọi Tên, Về Nguồn, Người Vào Chiến Sử, Dựng Cờ, Sớm Mai Hồng, Những Bước Chân Kiêu Hùng, Với Tin Yêu, Trên Đường Đi Tới, Đi Về Phía Mặt Trời, Anh Về, Vuốt Mặt, Trên Đầu Súng, Tạ Ơn Người, Bài Ca Dao Đầu Lòng, Gian Khổ Có Nhau. Phát hành năm 1971.
Trong tập nhạc nầy có 2 ca khúc rất quen thuộc, Ca khúc Trên Đầu Súng:
“Trên đầu súng xâm lăng xiềng xích với bạo tàn
Trên lưỡi lê nô lệ cùm gông phải gục ngã
Tay nâng niu cây súng súng thép với đạn đồng mới đã lên nòng
Và những loạt đạn đồng vàng vun lúa trổ tràn đồng sâu…”
Ca khúc nầy thường được sử dụng trong sinh hoạt Chính Huấn với các chiến sĩ ngày xưa và nay vẫn còn phổ biến ở hải ngoại trong các đoàn thể tranh đấu…
Ca khúc Đường Chúng Ta Đi mở đầu với câu nói bất hủ của Nguyễn Thái Học
“Đường đi khó ... đường đi không khó ...
Không khó vì ngăn sông cách núi
Mà khó vì lòng người ngại núi e sông”…
“Đường chúng ta đi qua bao gian khổ chông gai
Đóa hoa hồng nở trên mỗi bước tới
Giọt mồ hôi, từng giọt nóng hổi
Mở toang tương lai
Ôi buổi lên đường…”.
Tập nhạc Dạ Khúc Kim Sang, gồm mười tác phẩm nhạc không lời dành cho dương cầm và vĩ cầm, đoạt giải Schola Cantorum (Roma, Ý) năm 1962.
Trường ca Anh Hùng Ca Xuân Nguyễn Huệ, đoạt giải Nhất xuân Bính Ngọ 1966 do Cục Vô Tuyến Truyền Thanh tổ chức, gồm các bài: Sông Gianh, Vùng Lên, Hận Sông Gianh, Tiếng Hát Từ Lòng Đất, Những Cánh Đồng Biên Giới, Vùng Mặt Trời.
Năm 1972, nhạc sĩ Anh Việt Thu là một trong 12 nhạc sĩ du ca có mặt trong tuyển tập nhạc Hát Cho Những Người Sống Sót (Bút Nhạc xuất bản 1973).
Tuy không thành công về tài chánh như vài nhạc sĩ khác nhưng về danh tiếng trong sáng tác và hoạt động trong lãnh vực nầy đã ảnh hướng sâu rộng trong giới thưởng ngoạn. Anh Việt Thu sáng tác cả trăm bản nhạc nhưng chỉ có một số bản nổi tiếng và được hát nhiều lần cho tới hôm nay tại hải ngọai.
Về cấu trúc nhạc phẩm thông thường có phiên khúc 1, 2 đến điệp khúc và trở lại phiên khúc, hết thúc.
Anh Việt Thu sáng tác nhạc phẩm với tựa đề Tám Điệp Khúc mà trong phiên khúc với 8 lời ca và chỉ một điệp khúc:
“Trời làm cho mưa bay giăng giăng mây tím dệt thành sầu. Bàn tay năm ngón mưa sa. Dìu anh trong tiếng thở. Đưa tiễn anh đi vào đời. Mẹ Việt Nam ơi! Hai mươi năm ngăn lối rẽ đường về.
Trời làm cho mưa bay giăng giăng mây tím dệt thành sầu. Bàn tay đón gió muôn phương. Bàn tay gối mộng. Đưa tiễn anh đi vào đời. Mẹ việt Nam ơi! Ai chia ly tan tác cả ngàn đời…
(Phiên khúc): Tiếng hát hát trên môi. Giấc ngủ ngủ trong nôi. Một đàn, đàn chim nhỏ bay khắp trời Việt Nam mến yêu. Ôi tiếng chim muông gọi đàn. Mẹ Việt Nam ơi! Con xin dâng hiến trọn cả đời.
Trời làm cho mưa bay giăng giăng mây tím dệt thành sầu. Nằm nghe tiếng hát đu đưa dìu anh trong giấc ngủ. Ôi tiếng ru ru ngọt ngào. Mẹ Việt Nam ơi! Ai chia ly tan tác cả ngàn đời.
Trời làm cho mưa bay giăng giăng mây tím dệt thành sầu. Từng đêm ấp ủ trong tim. Từng đêm khe khẽ gọi. Anh nhớ thương em từng giờ. Mẹ Việt Nam ơi! Ai chia ly tan tác cả ngàn đời.
Trời làm cho mưa bay giăng giăng mây tím dệt thành sầu. Trùng dương sóng nước bao la. Trùng dương vang tiếng gọi. Ôi sóng thiêng em về Trời. Mẹ Việt Nam ơi! Con xin ghi xin khắc nguyện lời thề.
Trời làm cho mưa bay giăng giăng, mây tím dệt thành sầu. Rừng thiêng lá đổ âm u. Rừng thiêng vang tiếng gọi, Ôi núi thiêng em về nguồn. Mẹ Việt Nam ơi! Con xin ghi xin khắc nguyện lời thề…”.
“Trời làm cho mưa bay giăng giăng mây tím dệt thành sầu. Bàn tay năm ngón mưa sa. Dìu anh trong tiếng thở. Đưa tiễn anh đi vào đời. Mẹ Việt Nam ơi! Hai mươi năm ngăn lối rẽ đường về”.
*
Cũng như vài văn nghệ sỹ khác, Anh Việt Thu không nhập ngũ vào trường Bộ Binh Thủ Đức mà Hạ Sĩ Quan đồng hóa.
Theo Hoàng Trọng, Anh Việt Thu là cựu quân nhân, thuộc binh chủng địa phương quân… năm 1970 về phòng Văn Nghệ Cục Tâm Lý Chiến. Theo nhật báo Người Việt, năm 1970, ông được cử về Phòng Văn Nghệ Cục Tâm Lý Chiến, Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị. Theo bài Dòng Nhạc Anh Việt Thu (Cổ Thơ Magazine), nhạc sĩ Đỗ Kim Bảng kể rằng ông làm chung với Anh Việt Thu ở đó. Anh Việt Thu có người anh bà con làm nhà xuất bản và nhờ Đỗ Kim Bảng dịch cuốn sách từ tiếng Pháp ra tiếng Việt tựa đề Hai Lần Tuổi Hai Mươi, do đó thường xuyên liên lạc với nhau.
Nhà văn Nguyễn Đình Toàn viết: Những ngày còn làm việc tại Phòng Văn Nghệ thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị (do Thiếu Tá Ðinh Thành Tiên, tức thi sĩ Tô Thùy Yên làm trưởng phòng), Anh Việt Thu chắc chỉ mời ngoài 30 tuổi. Nếu chúng tôi nhớ không lầm thì khi ấy, cùng làm việc trong Phòng Văn Nghệ còn có nhạc sĩ Trần Thiện Thanh tức ca sĩ Nhật Trường nữa. Chính trong thời gian này, Anh Việt Thu khám phá bị ung thư nhiếp hộ tuyến (hay phổi?) rồi qua đời… Những người quen biết Anh Việt Thu cho biết, ông là người ít nói. Ông hiền lành và sống với bạn bè rất nhiệt tình. Có một thời ông muốn làm nhà xuất bản nhạc, nhưng hình như chỉ in được một, hai tập nhạc ngoại quốc lời Việt, rồi thôi.
Có thể coi Anh Việt Thu là thế hệ nhạc sĩ sau cùng sinh trưởng tại miền Nam (nếu lấy ngày 30/4/1975 làm dấu mốc) những người viết nhạc với tâm hồn đôn hậu của người miền Nam, ít cầu kỳ, cả trong giai điệu lẫn ca từ. Nghe nhạc Anh Việt Thu người ta nghĩ đến những kinh rạch chứ không phải những ao hồ. Ao, hồ có một vẻ gì đó u uẩn, tù túng. Kinh, rạch, như lòng người miền Nam, khi thủy triều rút đi, khô cạn, phơi mở không còn gì giấu giếm, lúc thủy triều trở lại, lại kín đáo, tràn đầy… Nhà văn Nguyễn Mạnh Côn có lần nói rằng, ông rất thích bài hát này của Anh Việt Thu, mặc dầu nghe cả bài trong một lúc khó nắm bắt tác giả nói gì, nhưng nghe từng đoạn tách rời, âm điệu day dứt của nó làm cho rất buồn….
Về gia cảnh, ông lập gia đình với Nguyễn Nữ Hiệp, nữ sinh Gia Long năm 1965. Có 2 con trai Việt Bằng, Việt Thanh. Với máu nghệ sỹ, có đồng nào tiêu đồng đó nên nghèo vẫn nghèo. Có nhiều lời kể rằng vợ ông có máu ghen vì có nhiều bóng hồng mê nhạc.
Giữa thập niên 1960’ khi tôi vào Sài Gòn học, ở trọ trong khu thánh thất Từ Vân trên đường Nguyễn Huệ, Phú Nhuận. Dãy nhà trọ của nhà thơ Phương Đài, con cụ Song Thu, phía sau đó những căn nhà nhỏ. Khi tôi bước vào quân ngũ, thỉnh thoảng ghé thăm, nghe chị Phương Đài nói nhạc sĩ tài hoa nhưng rất nghèo! Anh Việt Thu ở trong đó, đi về bằng xe đạp.
Cũng như nhạc sĩ Đặng Thế Phong thời tiền chiến, nhạc sĩ Anh Việt Thu tài hoa nhưng mệnh bạc!
Nhà thơ Thiên Hà viết về người bạn thân: “Với Anh Việt Thu phải nói là người bạn thâm giao của Thiên Hà…
Do cơn bệnh hiểm nghèo những ngày cuối đời Anh Việt Thu tâm sự với Thiên Hà, anh mơ ước có một căn nhà bên cạnh dòng sông như ở Tân Qui, đường Trần Xuân Soạn hay Bình Đông. Có lẽ anh muốn ngắm nhìn dòng nước mỗi ngày như ở vùng An Hữu quê anh thời thơ ấu. Khi Thiên Hà đẩy xe đưa Anh Việt Thu vòng quanh bệnh viện cho khuây khỏa chuyện các thầy thuốc đã bó tay. Qua khoảng sân còn sót từng giọt nắng chiều Anh Việt Thu nhìn bầu trời bao la mà thèm những bông hoa nắng. Hiểu ý bạn Thiên Hà hái một đoá Mẫu Đơn bên vệ đường an ủi, động viên bạn mình. Nhưng rồi cơn bệnh nan y đã ngắt đi cuộc sống của nhạc sỹ Anh Việt Thu tại Y viện Quảng Đông (nay là Bệnh viện Nguyễn Tri Phương) Sài Gòn lúc 2 giờ 40 ngày 15 tháng 03 năm 1975 và đưa đi an táng tại quê nhà…
Trong số bạn bè đưa Anh Việt Thu về quê hương, ngàn đời yên nghỉ, ngoài chúng tôi được các anh Nguyễn Vương, Lê Ngọc Thạch, Hoàng Trọng Tâm cho làm đại diện, tôi còn nhận ra các nhạc sĩ Phạm Minh Cảnh, thi sĩ Phạm Lê Phan là hai người bạn cùng phòng làm việc với Anh Việt Thu. Cùng một số đông bạn hữu xa gần, đọc báo, nghe đài phát thanh, cáo phó, đã đón Anh Việt Thu tận quê nhà”.
Trải qua nửa thế kỷ, nhiều nhạc sĩ nổi danh thời Việt Nam Cộng Hòa đã ra người thiên cổ trong đó có những nhạc sĩ qua đời trong bất hạnh, thương đau trước và sau ngày mất nước! Nếu không cò những ca khúc đã đi vào lòng người, có lẽ bị chìm trong quên lãng.
Little Saigon, December 2025
Vương Trùng Dương
1 attachment

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét