Tôi được đưa vào Tổng Y Viện Cộng Hoà trong giờ phút sinh tử của Sài gòn và để lại nơi đó một phần ánh sáng. Khi tôi tỉnh dậy một Đại úy bác sĩ cho tôi biết Việt Nam Cộng Hòa đã mất khiến tâm hồn tôi tan nát dòng lệ tuôn trào từ trong đôi mắt băng kín lăn trên má chảy xuống môi đẫm vị mặn! Bỗng tôi nghe có tiếng khóc đâu đó nhưng không hình dung được từ trong phòng này hay ở phòng khác? Tôi không biết tiếng khóc đó có phải từ những vết thương làm đau đớn, hay tiếng khóc của những người lính can trường đành phải buông súng bại trận!
<!>
Tôi làm trong ngành Chiến tranh Chính Trị nên được học và nghiên cứu nhiều về các tư tưởng, chủ thuyết trên thế giới trong đó có chủ thuyết Cộng Sản. Tôi cũng thường ra chiến trường dể tìm hiểu thêm tâm lý người lính trận. Tôi liên tưởng đến những cuốn sách của các văn hào, những học giả ngoại quốc viết về thời kỳ Liên Bang Sô Viết sau cách mạng Nga năm 1917, và cuộc cách mạng văn hóa của Mao Trạch Đông tại Trung Cộng mà rùng mình. Tôi chợt nghĩ về thân phận của mình ngày mai trong chế độ xã hội chủ nghĩa rồi sẽ ra sao! Trước mắt tôi là bóng tối, đối với người bị mù bẩm sinh ý niệm thời gian không có, nhưng đối với người bị bệnh hoặc bị thương về mắt thì trong chiếc băng vải đầy bóng tối thời gian chỉ còn lại kỷ niệm! Ý niệm thời gian trong Triết học là trừu tượng, nhưng trong thực tế, một ngày cho cuộc du lịch ngắm cảnh lại qua rất nhanh, còn thời gian trong chiến trường là những phút giây trôi rất chậm! Vì đó là những khoảnh khắc sinh tử của sự sống, cái mất còn đánh đổi bao máu xương cho tự do của người Lính. Tôi tỉnh dậy trong trong chiếc băng mắt đầy bóng đen như rơi vào hố thẳm, mới chỉ một ngày mà cảm thấy từng giây phút dài lê thê hàng thế kỷ! Thê thảm hơn chỉ vài ngày sau khi miền Nam thất thủ lọt vào tay cộng sản miền Bắc, người ta thấy một đoàn thương binh của chế độ cũ, lớp cụt què, lớp đui mù, thân thể họ loang lổ rỉ máu, có người băng vải trắng cuốn đầy mình, có người những vết thương lở lói chưa kịp băng. Họ lếch thếch dìu nhau lê bước trông giống như đám hồn ma bóng quế từ khu nhà mồ chui ra. Họ vừa bị đuổi ra khỏi bệnh viện, trong đám người khốn cùng này có tôi, và sau đó bị đưa đi tù tập trung nhiều năm! Ngừng tiếng súng, chiến tranh chấm dứt người dân Việt có kẻ khóc người cười.
Những giọt nước mắt ở thời điểm đó mang nhiều ý nghĩa, có những giọt nước mắt vui mừng vì sự đoàn tụ gia đình, cha mẹ gìa gặp lại những đứa con, vợ chồng, anh chị em gặp lại nhau sau bao năm xa cách. Nhưng lại có biết bao giọt nước mắt khóc cho thân phận của kẻ đã bị mất quê hương ngay trên đất nước mình. Làm sao mà không khóc nhỉ? Vì từ ngàn xưa người dân Việt vẫn xem nơi làng quê vùng miền là quê hương, nay người dân miền Nam thấy nơi đó mình bị người miền khác tràn vào xâm chiếm khiến gia đình ly tán, bao người phải vượt biên tìm tự do, còn nhũng người ở lại thì hoang mang sợ hãi! Trong dòng lịch sử của đất nước đã có nhiều lần xảy ra nội chiến anh em tương tàn. Trịnh Nguyễn phân tranh đối đầu từ 1627 đến 1772. Sự chém giết lẫn nhau tàn khốc, chia cắt phân Đằng Ngoài, Đằng Trong kéo dài gần 150 năm, nhưng dất nước vẫn thống nhất được hàn gắn bởi tình Dân tộc nghĩa Đồng bào. Tàn chiến chinh, đất nước đã thống nhất, người dân hai miền dù lúc trước có phân đôi thành hai thể chế đối chọi nhau, nhưng tất cả đều chung một dân tộc nên mọi hận thù được xóa bỏ. Người dân miền Nam đã từ lâu thấm nhập một nền văn hóa khai phóng, nhân bản do đó trong suy nghĩ họ tưởng rằng được sống an bình khi chiếc cầu Bến Hải Nam Bắc thông thương nên xúc động tuôn trào những giọt nước mắt. Khi những giọt lệ còn hoen khóe mắt thì các vết thương trên da thịt quê hương lại rỉ máu! Họ ngỡ ngàng và thất vọng khi thấy đã hết chiến tranh mà không được sống an bình để cùng nhau xây dựng lại quê hương, vì bạo lực đã biến đất nước trở nên nghèo đói và sợ hãi!
Ngày tôi được thả về cả nhà quá bất ngờ đều bất khóc trong mừng rỡ. Cảnh cũ, người xưa vẫn âm thầm trong cuộc sống, đêm đầu tiên tôi được hưởng màu sắc của Sài gòn bị cúp điện. Hôm đó, khi màn đêm vừa buông xuống thì bóng tối bao trùm thành phố, những chiếc đèn dầu le lói được vặn lớn, ánh sáng lung linh mờ ảo, như những tia sáng yếu ớt từ những vì sao của những hành tinh xa xăm không làm đủ sáng trong phu phố. Sáng hôm sau khi thức dậy, vạt nắng hồng ban mai đã xuyên qua khung cửa sổ mang chùm tia sáng làm sảng khoái tâm hồn tôi. Đêm qua, tôi đã được một giấc ngủ ngon tại nhà mình, mà không bị giật mình vì tiếng kẻng tù báo thức giục giã đi lao động. Sau khi ăn sáng xong, tôi được người thân đưa đi thăm lại Sài gòn. Lòng tôi thật bồi hồi vì thấy lại những con đường phố xưa người trên phố vẫn đông, vẫn hàng cây sao cao vút, hàng me úp xanh lá rơi như mưa bụi. Vẫn còn đó những căn nhà Tây màu sơn tường vàng ngà, nay có cũ hơn nhưng con đường vẫn thơ mnộng. Thỉnh thoảng tôi mới thấy những chiếc xe hơi, xe Vespa, xe Honda cũ chạy nguợc xuôi . Người Sài gòn hôm nay di chuyển bằng xe đạp, những chiếc xe đạp cũ mới nối đuôi nhau đầy đường. Thiếu nữ Sài gòn hôm nay nhìn vẫn đẹp, dù chỉ mặc những chiếc áo rất đơn giản ra đường, quan niệm sống của họ đã thay đổi nên không còn mặc những chiếc áo dài tha thướt của năm xưa! Đi quanh vài khu phố Sài gòn mà hồn tôi bỗng tê tái, những cửa hàng cửa hiệu lộng lẫy khi xưa đã đổi thành những cửa hàng hợp tác xã, những cửa hàng ăn uống bình dân. Dọc những con đường dài là những quán cà phê cóc, những khu chợ trời bày bán đồ gia dụng cũ, quần áo cũ, tất cả được dặt trên tấm nhựa bày la litệt chiếm cả lề đường rất đông người mua kẻ bán. Nằm gẫm lại đời, tôi đã sống qua những cuộc biến động thăng trầm của thời thế, cũng như trải qua bao nỗi gian truân trong trại tù, có lẽ thời gian tôi về tạm trú ở nhà mẹ ruột là được sống trọn vẹn với gia đình. Mẹ tôi già đi nhiều và chọn cuộc sống ở ẩn, không còn buôn bán kinh doanh như năm xưa. Nhờ những người thân ở Bắc vào chỉ dẫn nên mẹ tôi đã biết cách dấu ít tài sản, cũng nhờ thế mà còn chút tiền sống cho đến hôm nay. Mẹ tôi cho biết, các người bạn và những người quen của bà bị nhà nước khép là tư bản mại sản nên bị vơ vét chiếm hữu hết tiền của! Vợ tôi ra trường sau năm 1975 nên được đi dạy học, dù đồng lương giáo viên không nhiều. Tôi về Sài gòn được gần hai tuần thì vào nằm nhà thương ngay vì bị kiệt sức. Nhờ có bác sĩ giỏi điều trị với thuốc men đầy đủ, nhất là được sự chăm sóc của gia đình nên sức khỏe của tôi dần hồi phục, tinh thần bớt căng thẳng.
Một hôm đi lễ ở nhà thờ Đức Bà, tan lễ chúng tôi đi dạo trên đại lộ Lê Lợi, tình cờ gặp lại người bạn cũ thời trung học, sau lên đại học hắn chọn ngành Y khoa, ra trường làm bác sĩ Quân Y thuộc binh chủng Thủy Quân Lục Chiến. Sau biến cố năm 1975 hắn và tôi lại vào tù chung ở Trảng Lớn. Gặp tôi Nguyễn Bá Linh mừng rỡ vì nghĩ tôi đã chết trong tù. Chúng tôi kéo nhau vào quán ăn gần đó nói với nhau vài câu chuyện tầm phào. Bá Linh nói:
- Tôi sẽ đến thăm vợ chồng ông, ở đây không nói chuyện được!
Tôi chỉ cười gật đầu, và mời Linh đến nhà chơi. Linh hẹn ngày và nói sẽ mang rượu Mỹ đến.
Tôi nói:
- Tôi đâu biết uống rượu, ông mang rượu là thừa! Bá Linh:
- Chị đừng làm đồ ăn, tôi ghé Chợ Lớn mua ít thức ăn mang đến.
Nói rồi Linh chào ra quầy tính tiền trả hết chi phí bữa ăn cho chúng tôi. Trên đường trở về nhà hình ảnh những người bạn học, bạn lính và bạn tù hiện trong đầu với biết bao kỷ niệm vui buồn. Thỉnh thoảng tôi có những người bạn cũ đến thăm, họ kể cho tôi nghe những nỗi niềm sau ngày miền Nam giải phóng là cuộc đổi đời bi thảm. Họ cho biết đã có biết bao cuộc sống trù phú của dân miền Nam bị biến mất vì kẻ chiến thắng đã vơ vét cướp đoạt hết nhà cửa, tài sản những người giàu có, rồi trấn áp đuổi hàng triệu người thuộc chế độ cũ đi kinh tế mới nơi rừng thiêng nước độc. Rất nhiều người trong số đó vì chịu không nổi nên đã quay lại thành phố tìm mưu sinh như những kẻ mất hồn vì phải sống vất vưởng nơi những vĩa hè, đầu đường xó chợ, hay dựng những túp lều sơ xài bằng bao cát trong các nghĩa trang để sống lay lất qua ngày! Trưa hôm đó, đúng như lời đã hẹn Bá Linh đến thăm chúng tôi với một sách đồ ăn. Linh chào mọi người, tôi mời Linh vào ngay bàn ăn. Mẹ tôi vui vẻ nói:
- Cháu đến thăm là qúy rồi, mang quà cáp làm chi? Linh nói:
- Cháu chỉ mua vài món đặc biệt của quán ăn, nhà hàng này gần chỗ cháu làm nên tiện đường ghé mua. Tôi hỏi:
- Sao ông không đẫn chị đến chơi? Linh trả lời:
- Bà ấy làm ở tiệm thuốc Tây nên thứ Bảy vẫn phải đi làm.
Tôi hỏi:
- Tiệm thuốc có phải vào cơ quan nhà nước không? Dược sĩ lương có cao không?
Bá Linh:
- Tất cả tiệm thuốc đều thuộc về nhà nước, còn dược sĩ, bác sĩ thì cũng chỉ là công nhiên viên, lương cũng như bà xã của ông thôi!
Tôi muốn nói nhưng không thành lời: "Trí thức thời này rẻ mạt!". Bá Linh nhìn tôi cười và nói:
- Chúng ta ăn là chuyện phụ, tâm sự với nhau mới là chuyện chính. Sau đó chúng tôi dùng cơm. Mẹ, và vợ tôi chỉ dùng qua bữa rồi hai người lấy cớ có việc riêng để cho chúng tôi vừa ăn vừa nói chuyện. Tôi hỏi:
- Ngày đó ông được về sớm theo diện nhà nước cần chuyên viên, hay có ai bảo lãnh? Ông có thuộc gia đình cách mạng gì không không? Linh trả lời:
- Không! Như ông biết ba tôi là giáo sư trường Kiến Trúc, được chính phủ VNCH cấp học bổng đang nghiên cứu khoa học ở Pháp thì miền Nam bị đứt phim! Bá Linh nói tiếp:
- Thằng em trai của tôi cũng bị tù ở Trảng Lớn ông có gặp không? Tôi trả lời:
- Có, tôi và anh ấy cùng trại, nhưng tôi bị biệt lập đưa vào"khối cùi", có ý nghĩa hết thuốc chữa, đây là khối bị khép vào tội nặng vì cho là thành phần nguy hiểm có tư tưởng phản động vì không suy nghĩ giống họ! Bá Linh nói:
- Ông kể cho tôi nghe chuyện Trảng Lớn sau ngày tôi được thả về. Lòng tôi bỗng trĩu xuống vì những nỗi buồn ẩn dấu.
Tôi nói:
- Nhắc đến trại tù lòng tôi thấy đau nhói, cổ họng bỗng nghẹn đắng! Tôi uống vội cốc nước và chậm rãi nói:
- Chuyện trại tù thì chỉ có những chuyện buồn, dù ở tù lâu hay mau cũng giống nhau, nghĩa là ttất cả tù nhân phải thức dậy, đi ngủ và lao động đều nghe theo tiếng kẻng!
Bá Linh:
- Đời tù nhân và sự tự do khác nhau ở điểm đó Tôi hỏi:
- Ông về được làm ở bệnh viện Sài gòn hay ở tỉnh?
Bá Linh:
- Làm sao họ cho tôi làm ở bệnh viện được! Tôi làm bác sĩ Tâm thần ở quận 11 gần Chợ Lớn. Linh nói tiếp:
- Ở thời đại đảo điên này ở đâu cũng có người bị tâm thần..tôi cũng bị tâm thần thời đại thì làm sao chữa được cho người bệnh tâm thần! Nhiều lúc thấy họ mất trí tôi lại thấy họ được thoải mái tự do cười nói. Nghe bác sĩ Linh nói chuyện giọng vang quá lớn làm tôi sợ có có người rình nghe. Tôi đứng dậy định vào nhà trong để lánh câu chuyện, nhưng Linh kéo tôi ngồi xuống nói tiếp:
- Các ông ở tù về nhát quá! Cái gì cũng sợ! Tụi công an mải lo đi kiếm ăn, hơi đâu mà rình nghe!
Tôi hơi thẹn, cười xòa nói:
- Không phải tôi nhát, mà do thói quen trong tù tôi bị nhiễm tính đề phòng nên cũng bị tâm thần thời đại rồi! Tôi nói tiếp:
- Thôi, tôi kể cho ông nghe mấy chuyện cười liên quan đến tôi hồi ở Trảng Lớn. Ngày đó trong một phiên họp hội thảo của đội, tôi phát biểu ý kiến khác với bài học lên lớp về Xã hội Chủ nghĩa. Một ăng ten trong đội đã báo cáo với quản giáo nên tôi bị nhốt biệt giam ở conex một thời gian. Ông biết trời Tây Ninh đêm thì lạnh cắt da, ngày mùa hè nóng như lửa, thanh vỉ sắt để ngoài trời còn bốc khói, huống chi con người bị nhốt trong cũi sắt! Nhất là ngày đó tôi mới bị thương, các vết thương chưa lành nên bị mưng mủ đau đớn vô cùng! Có điều trong nỗi khốn cùng tột độ đó tôi vẫn làm được thơ. Bài Người Tù Và Bóng Tối ra đời trong cũi sắt đó.
Bác sĩ Linh cắt ngang lời kể và nói:
- Ông có thể đọc cho tôi nghe bài thơ đó không? Tôi uống một hớp nước và nói:
- Tôi chỉ đọc một đoạn, ông nghe xong thì quên ngay đi, đừng nhắc lại câu chuyện này với người khác đến tai công an thì phiền phức! Tôi bỗng nhắm mắt lại hồi tưởng lại khung cảnh bài thơ trong câu chuyện buồn: "Người Tù Và Bóng Tối
«Ta phóng đời qua lỗ khóa con,
Để còn trông thấy bóng trăng non.
Thèm nghe tiếng gió lời tâm sự,
Và biết em buồn nhưng sắt son.
Ta muốn làm chim cất cánh bay,
Về miền xa thẳm tít trời mây
Thả hồn lướt cánh bay trong nắng,
Giải thoát đời qua kiếp đọa đày!
Ở đây đêm buốt như dao nhọn
Ngày tháng lặng trôi đá cũng mòn!
Bóng tối quanh ta mùi cũi sắt,
Đời buồn hiu hắt bóng trăng non. »
Sau đó họ thả tôi ra và đưa về giam ở khối cùi, tôi là người đầu tiên của khối này một mình! Gần một tháng sau có thêm một số bạn tù, trong đó có họa sĩ Hiếu Đệ, anh ấy làm việc trong ngành Chiến Tranh Chính Trị chuyên vẽ những biếm họa về CS. Anh ấy là giáo sư hội họa cùng với ba anh ở trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài gòn. Anh còn là thày dạy vẽ cho tôi, và ở gần nhà tôi đường Huỳnh Quang Tiên Phú Nhuận nên tình cảm thày trò, anh em rất thắm thiết. Có một lần tôi bị làm kiểm điểm gắt gao vì một vở kịch câm, họa sĩ Hiếu Đệ được chỉ định vẽ một cụ già tượng trưng cho Bà Mẹ Việt Nam. Họa sĩ Hiếu Đệ vẽ xong bức chân dung gọi tôi đến hỏi: - Đố cậu xem hình này giống ai? Tôi trả lời:
- Sao anh lựa thằng mù mà hỏi! Hiếu Đệ
- Cậu cũng là dân hội họa mà..Tôi vẽ hình Cụ Diệm cho chúng thờ chơi! Tôi giật mình về lối chơi bạo này! Quả nhiên thoạt mới nhìn là hình một cụ già, nhưng nhìn lâu thì giống Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Cùng hôm đó trong lúc đang lao động nhà văn Hà Thúc Sinh lén đến chỗ tôi đang cuốc đất, gặp tôi anh than:
- Tôi bị ép phải thực hiện vở kịch câm, tôi đã từ chối nhiều lần nhưng bọn quản giáo hỏi tôi có ý gì mà từ chối. Hiện chúng đang ghìm tôi, do đó tôi đành phải làm, mong anh giúp tôi một tay! Tôi hỏi:
- Tôi giúp được gì cho anh? Hà húc Sinh:
- Tôi định dùng ý tưởng ẩn dụ lồng trong vở kịch để chế riễu bọm vẹm, nhưng kiếm người thủ vai đó rất khó, vì nguy hiểm! Tôi sợ trình bày điều này với các anh em văn nghệ họ lo ngại! Riêng anh ở khối cùi nên biết anh sẽ không sợ, mong anh đừng từ chối. Tôi nói:
- Tôi mới bỏ cặp nạng ra, hiện vết thương đùi vẫn chưa lành hẳn. Anh vẫn chưa cho tôi biết nội dung của vở kịch anh viết gì, bài bản ra sao và tôi sẽ giữ vai gì? Như thế tôi mới có thể trả lời là nhận vai hay không". Nét mặt của Hà Thúc Sinh trở nên rạng rỡ, anh nói: "Anh sẽ giữ vai tù trưởng, nghĩa là ‘trưởng tù’ của một buôn làng miền cao nguyên nhiệm vụ dẫn dân quân bắt một phi công Mỹ lái B52 bị dân quân dùng súng AK bắn rớt. Phải bắt sống đem về buôn làng đấu tố. Hà Thúc Sinh nói tiếp:
- Bọn VC đã tuyên truyền là chúng ta đi học tập cải tạo chứ không phải đi tù., chúng ta dùng từ ngữ đi tù để lên án chúng. Tôi nói:
- Ngày trước tôi có đi công tác vùng cao nguyên, vào nhiều buôn làng, tiếp xúc với các vị chức sắc trong buôn, tôi nghe họ gọi các vị chức sắc đó là già làng, gọi tù trưởng chỉ có chúng mình hiểu thôi. Hà Thúc Sinh:
- Kịch câm nên không phân biệt được già làng hay tù trưởng, miễn là ngầm nhắc nhở chúng ta đang ở tù!. Tôi nói:
- Tôi đồng ý đóng vai đó, nhưng đề nghị với anh, thay vì dùng súng Ak của Nga, độ chính xác khoảng 500m bắn rớt được B52 bay cao 20 Km, chúng ta nên để dân quân dùng vũ khí nội địa cung tên, ná bắn rớt B52 thú vị hơn! Sau khi bắt được viên phi công Mỹ, tôi sẽ qùy xuống lạy viên phi công đó để lòng thành khẩn. Tù trưởng là đại diện cho dân quân, nghiĩa là đại diện chính quyền cách mạng, nhưng khi gặp người Mỹ lại run sợ qùy lạy! Hà Thúc Sinh cười vui và nói:
- Ý tưởng thật là tuyệt vời! Ngày tết, các tù nhân ở Trảng Lớn đều được phép nghỉ lao động, riêng chúng tôi phải diễn văn nghệ. Hôm đó cả trại đến hội trường xem, riêng tôi và họa sĩ Hiếu Đệ cán bộ quản giáo dẫn đến hội trường. Khi vở kịch câm diễn đến đoạn bắt được viên phi công Mỹ, tôi định qùy xuống lạy một lần đủ để biểu trưng sợ Mỹ, nhưng vì vết thương còn đau nên khi qùy xuống tôi bị té nhào, sau đó chống hai tay lấy thế để qùy nhưng vẫn đứng dậy không được! Tôi đành phải lạy nhiều lần để sân khấu khỏi bị temps mort, và cố lấy sức đứng dậy. Một vài cán bộ chính ủy trung đoàn và sư đoàn ngồi xem hét to lên:- Bắt được giặc Mỹ sao không hô đả đảo bọn xâm lược, gặp Mỹ mà run, còn qùy lạy! Cả trại ngồi xem đều im lặng vì sự cuồng nộ của người cán bộ chính ủy. Không khí hội trường trở nên căng thẳng. Một cán bộ nhẩy lên sân khấu thuyết giảng thao thao bất tuyệt bài học Đế Quốc Mỹ là kẻ thù số một của dân tộc. Tôi bị điệu lên phòng chính ủy để ông ta hỏi cung. Tôi đã trả lời thật là do vết thương cũ làm đau khi cúi xuống bị té nhào, vì đứng dậy khó khăn nên phải qùy lâu. Cũng may cho tôi là người chính ủy này không nhận ra đám dân quân buôn làng dùng cung ná bắn rơi B52, cho nên tôi chỉ bị làm bản kiểm thảo rồi cho về lại khối cùi. Một tuần sau có đợt đi cắt cỏ tranh về lợp nhà, tôi bị quản giáo chỉ định lao động trong toán đi. Các bạn trong khối nhao nhao phản đối vì sợ tôi không thấy đường đạp trúng mìn bẫy khi xưa còn gài lại sẽ chết chung. Nhưng quản giáo ra lệnh bắt tôi phải đi. Trên đường gần đến bãi cỏ tranh các bạn trong toán đều tránh xa tôi, nhưng quản giáo vẫn phải đi gần để canh chừng tôi, vừa quan sát cả khối. Bỗng quản giáo ra lệnh cho tôi cùng đến một gò đất trống rất cao và ngồi ở đó không được đi đâu. Trước mặt gò đất là đám cỏ tranh cao hơn đầu người còn những quả mìn chưa nổ. Thế là tôi ngồi chơi đến chiều cùng toán vác cỏ tranh về trại. Mấy tháng sau, đợt biên chế đầu tiên dành cho những thành phần "ác ôn, nguy hiểm". Cả khối cùi chỉ có mình tôi có tên trong danh sách biên chế đi. Từ đó tôi giã từ Trảng Lớn để đến các trại tù khác! Bá Linh:
- Một câu chuyện cười ra nước mắt! Nhớ chuyện tù mà ôi thấy ngậm ngùi, tôi hỏi Linh:
- Ông kể cho tôi nghe chuyện đời sống sau khi ông về? Linh nói:
- Có rất nhiều chuyện, nhưng tôi chỉ kể vài sự kiện chính thôi: Sau ngày giải phóng ở khắp nơi trên đất nước này những trại cải tạo được lập ra để nhốt tù những thành phần ưu tú gồm hàng trăm ngàn sĩ quan và công chức chế độ cũ. Sau đó thì họ đổi tiền, rồi thành lập Hợp tác xã. Họ biến nông dân thành kẻ làm công, còn ruộng đất, lúa gạo là huyết mạch của nông dân cũng phải đưa vào hợp tác xã. Khi có giỗ chạp, ma chay, cưới hỏi, người nông dân muốn lấy lúa gạo ra theo tiêu chuẩn cho mỗi hộ đều phải xin phép lên xã, mới được phép rút ra, nhưng mấy ai được cấp phát theo đơn xin!", Tôi hỏi:
- Tôi nghe gia đình nói có một số người quen ngày trước rất khá giả, sao không ở Sàigòn lại phải đi kinh tế mới? Linh nói:
- Sách lược kinh tế mới là hình thức cướp tài sản nhà cửa của lớp người giàu có, họ bị nhà cầm quyền cô lập để dễ kiểm soát, vì những đối tượng này được quy là mầm mống của sự hậu thuẫn phản động. Tôi hỏi :
- Ông là bác sĩ gốc lính, cải tạo về việc đi lại của ông có bị kiểm soát không ? Linh trả lời:
- Tôi có giấy chứng nhận hành nghề do sở y tế thành phố cấp nên đi lại trong hành phố vẫn bình thường. Nếu bị công an chận hỏi tôi xuất trình giấy hành nghề là được đi ngay. Nhưng sự an ninh và đi lại đối với những gười khác vẫn bị kiểm soát nghiêm ngặt. Phải có giấy phép đi đường mới đến các nơi khác được. Ở trong các thành phố CS kủng bố tinh thần người dân bằng cách cấm hội họp tụ tập. Không khí trấn áp đè nặng lên từng khu xóm, con hẻm, góc phố… Cứ ba người tụ lại với nhau đều bị công an kêu lên tra vấn, nếu tất cả cùng trả lời ăn khớp không liên quan đến những điều quốc cấm nghĩa là bàn đến chính trị thì được thả về, nếu một trong ba người nói khác thì cả ba phải đi cải tạo tư tưởng vì vị khép tội có tư tưởng chống đối nhà nước! Nói xong Linh đứng lên xin phép chúng tôi để về, Linh nói:
- Đến thăm bác và anh chị lại được bác mời dùng cơm, xin cảm ơn bác. Lần khác cháu sẽ đến nói chuyện lâu hơn. Chúng tôi tiễn Linh ra cửa và trở vào phòng nằm suy nghĩ miên man, trong đó có suy tính việc ra đi.
Người đầu tiên đến nhà thăm tôi làThanh Xuân, thời trung học nó học cùng lớp với tôi, sau khi đỗ tú tài toàn tôi học Luật, còn nó theo học ngành sư phạm, ra trường được bổ nhiệm về dạy cấp 3 tại một trường công ở tỉnh thuộc miền Tây. Đám bạn của tôi đều bị động viên vào quân đội, nhưng nó sau khi thụ huấn xong ở quân trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức được trở về ngành dạy học lại, do đó không phải đi tù.
Tôi hỏi:
-Sau năm 75 mày dạy học ở đâu? Xuân cười lớn nói:
- Tao mất dạy!
Tôi ngạc nhiên vì lối trả lời đó, và ngỡ ngàng chưa hiểu nó muốn nói gì. Xuân nghiêm mặt nhìn tôi nói:
- Sau ngày giải phóng tao bị bắt buộc ngưng dạy học vì lý lịch gia đình! Như mày đã biết gia đình tao toàn là sĩ quan cao cấp, bố tao, chú tao và anh tao đều đi tù nên chúng đâu cho tao đi dạy nữa, do đó tao chuyển sang nghề bán chợ trời nơi đường Huỳnh Thúc Kháng.
Tôi nói:
- Mày là thày giáo biết gì mà bôn bán? Xuân cười nói:- Đúng là tù ra, chẳng biết quái gì! Ngày xưa thời thế tạo anh hùng, thời nay thời thế tạo chuyên viên chợ trời. Ở đó hôm nay gồm đủ thành phần thất nghiệp như bác sĩ, giáo sư, kỹ sư, sĩ quan cải tạo về, lính, nhà văn, ký giả, nghệ sĩ, nhạc sĩ, ca sĩ ..Tất cả vì bụng đói nên phải mưu sinh."
Tôi hỏi:
- Thế mày buôn bán cái gì? Xuân trả lời:
- Tao mua bán xe đạp, đồng hồ, radio, máy ảnh.. nghĩa là mua được gì thì bán cái nấy.
Tôi hỏi:
- Làm sao mày phân biệt đồ thật đồ giả? Xuân trả lời:
- Lúc đầu tao khó phân biệt thật giả, nhưng nghề dạy nghề, nay tao đã là một chợ trời chuyên nghiệp! Xuân thấy tôi ngẩng người ra, biết là tôi chưa tin lời hắn nói, nên lại tiếp tục giải thích:
- Thời đại củi châu gạo quế, kiếm được miếng ăn để đỡ đói bụng thì mửa con mắt! Do đó chợ trời mọc khắp nơi từ đại lộ đến hang cùng ngỏ hẻm bày bán những món hàng thượng vàng đến hạ cám nào là ve chai, lạc soong đồng nát, quần áo cũ, quạt máy, tủ lạnh, máy giặt, máy lạnh…Khách đa số là bộ đội đến mua gởi về miền Bắc làm quà. Họ bị những lời chào hàng đầy hoa mỹ như đồng hồ mười hai trụ đèn, không người lái, hai cửa sổ. Họ thích loại đồng hồ có ‘cửa sổ’, một cửa sổ thì có ngày, hai cửa sổ thì có cả ngày lẫn thứ những chữ Mon, Tue, Wed...Máy chụp ảnh Polaroid tối tân của Mỹ, chụp ảnh lấy liền chỉ mất 30 giây. Radio hiệu Sony, National, Zenith... có đủ cả AM lẫn FM. Nghe Xuân kể mà tôi sững sờ, không ngờ một giáo sư toán giỏi, xuất thân là con ông cháu cha, thế mà giờ đây nó lại tả tơi trong cơn lốc của thời đại mới! Lúc đầu mới gặp lại Xuân tôi còn dè dặt, sợ nó bị nhiễm độc nhuộn đỏ tư tưởng nên thận trọng từng lời nói trong ngôn ngữ đối thoại. Tôi tránh phê phán chế độ hay tỏ những ý kiến liên quan đến thời cuộc. Có lần Xuân nhìn tôi với ánh mắt chế diễu. Nó mỉa mai bảo:
- Mày quả thực đã tiến bộ, đã thấm nhuần học thuyết Mác Lê nên xin làm cán bộ đi!. Tôi chỉ cười nhưng không trả lời. Nó đâu có biết tôi đã bao lần vào sà lim bị biệt giam cũng bởi vì thích tranh luận với bạn tù về chủ thuyết cộng sản, về những điểm tiêu cực của chế độ nên bị đám ăng ten tù báo cáo với cán bộ quản giáo trại! Tôi nói:
- Mày đừng quên ngày tao đi tù là do thằng bạn nằm vùng đến bắt, ngày đó tao đi bằng cặp nạng gỗ và băng mắt. Tao được thả chỉ vì bị mất sức lao động!
Xuân cảm thấy lỡ lời nên nói:
- Những năm mày đi tù thì ngoài này ở khắp miền Nam có nhiều điều thay đổi. Ngày đó trong đoàn quân chiến thắng tiến chiếm Sài Gòn đã có nhiều bộ đội phải sửng sốt khi nhìn thấy sự phồn thịnh kinh tế của Sài Gòn. Họ ngạc nhiên vì người miền Nam vẫn giữ được những giá trị đạo đức, những nét đẹp cổ truyền của văn hóa, nhất là một nền giáo dục Nhân bản khai phóng.
Tôi hỏi:
- Đối với người dân miền Bắc họ nhìn thế nào về lớp người di cư năm 1954 như mình?
Thanh Xuân nhìn tôi trìu mến trả lời:
- Tao không biết, nhưng tao thấy rong buổi giao thời ấy, do tình máu mủ ruột thịt người dân miền Bắc đã lũ lượt vào Nam tìm thân nhân, họ mang theo từ cân đường, lạng đậu, ký khoai, vài ống gạo, ít chén bát đất…để chia sẻ cho người thân trong Nam. Nhưng họ đã quá ngỡ ngàng về sự giàu sang phú qúy của người dân trong Nam.
Tôi hỏi:
-Vậy thái độ của họ như thế nào?
Thanh Xuân bùi ngùi nói:
- Có người đổi thái độ từ thương cảm sang ganh ghét, vội kết tội thân nhân bám theo Mỹ Ngụy hút xương máu của nhân dân làm giàu. Nhưng cũng có nhiều người tự trọng, đã xấu hổ không biết cất mớ chén đất đi đâu, vứt đi thì tiếc vì đây là tài sản của họ sau bao năm sống dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa, mà đem tặng thì ngượng!"
Tôi liền nói:
- Thật là cảm động trước những tấm lòng tình nghĩa ấy. nhưng tao lại thấy càng ngậm ngùi chua xót khi nghĩ đến thận phận mình rồi sẽ ra sao?
Thanh Xuân:
- Vì thế nên tao đang tìm con đường đi đây! Tao không thể sống với cộng sản được, tao đã nhiều lần vượt biên nhưng đã thất bại! Mày có biết không, mấy năm về trước ở khu ngã ba Ông Tạ và khu Tân Việt vượt biên rất đông, có người thoát, nhưng có lần chẳng may gặp bão chết cả mấy trăm người!
Tôi nói:
- Đó là những người khát vọng tự do không chịu sống dưới chế độ CS. Thanh Xuân nói:
- Từ ngày CS đến, hàng triệu người VN thuộc đủ mọi thành phần đã bỏ nước ra đi bất chấp mọi nguy hiểm, dù họ phải chết trên biển cả hay trong rừng sâu trên đường mưu thoát. Người ta có thể hy sinh mạng sống cho quê hương, nhưng vì tự do lại dám bỏ xứ mà đi!.
Tôi nói:
- Mày coi chừng cái mồn, cứ nói cho sướng đi có ngày tụi công an mà nghe được là tù rũ xương, không có ngày về!
Thanh Xuân:
-Tao là dân chợ trời sống chung đụng với mọi người, có ngày nào mà tao không trạm chán với bọn công an! Tụi nó cũng mánh mung chia chác lắm! Nhiều đứa là bộ đội công an cũng vượt biên. Chúng nó đi không phải tìm tự do hay chống lại chế độ, mà vì chúng lỡ tham nhũng chia chác quá nhiều nên sợ bị tố bị đi tù!"
Tôi liền nói:
- Hồi ở trong tù tao có nghe tin đồn là một số cán bộ cao cấp trong Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam cững vượt biên tị nạn sang Tầu, sang Pháp có phải không?
Thanh Xuân:
- Đúng, đó là Trương Như Tản qua Pháp, Hoàng Văn Hoan qua Tàu, bọn cán bộ này bị thanh trừng vì phe phái theo Nga, theo Tàu!
Ngoài trời đang đổ mưa rào như trút nước, cơn mưa làm bớt đi cái nóng oi bức của Sài gòn, nhưng lại làm ngưng các sinh hoạt buôn bán lề đường của dân nghèo. Trong phòng tiếng quạt máy quay vù vù hết tốc độ tạo nên những làn gió mạnh như sóng biển chiều. Thanh Xuân hít điếu thuốc thật sâu rồi phà ra làn khói trắng bị gió quạt làm tan loãng. Xuân chợt ngẩng nhìn lên bức tranh sơn dầu khổ ngang trên tường đã bị bụi thời gian làm ngả màu, nó liền hỏi tôi:
- Bức tranh Con Cò trên cánh đồng này của thằng Cao Phan vẽ tặng cho mày hồi đó phải không?
Tôi trả lời:
- Đúng, ngày đó nó ở trong đám họa sĩ trẻ, thỉnh thoảng tao đi với nó đến gặp những họa sĩ Hoàng Trọng, Nguyễn Hữu Nhật, vợ chồng họa sĩ Bé Ký, Hồ Thành Đức giúp bày tranh bán ở Phòng Thông tin góc đại lộ Lê lợi, Tự do.
Thanh Xuân:
- Mày cũng biết vẽ tranh tại sao nó lại vẽ tặng?
Tôi trả lời:
- Thế giới của hội họa muôn màu, mỗi họa sĩ đều có những hướng đi riêng để thể hiện sáng tác của mình qua vật liệu màu sắc khác nhau. Nó thích vẽ cảnh, tao thích vẽ trừu tượng mặc dù lúc đầu tao cũng theo phái hiện thực vẽ tượng hình. Con cò trên cánh đồng là lấy ý từ Ca dao. Con cò hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng cho tấm lòng người mẹ luôn chịu gian khổ nhọc nhằn vì con. Nói về tình mẹ và đức tính hy sinh thì trên thế gian quả chẳng có bút mực nào kể hết. Thằng Cao Phan rất có hiếu với mẹ nó, và qúy trọng mẹ tao, biết tao rất thương mẹ nên vẽ tặng tranh con cò.
Tôi nói tiếp:
- Bức tranh sơn mài khổ vuông là của họa sĩ Hiếu Đệ tặng. Còn bức tranh thiếu nữ trong rừng 1m20 là của họa sĩ Nguyễn Trung, tao mua ủng hộ. Xuân rút điếu thuốc trong bao ra đưa lên môi, bật lửa rồi hít nhẹ, và nói:
- Gia đình thằng Cao Phan sau giải phóng rất khổ! Chỉ mới gần một năm thôi mà gia đình nó tan nát và trở nên đói khổ. Bố nó là sĩ quan cao cấp làm việc chung ở Tổng Tham Mưu với bố tao nên bị đưa ra Bắc, và chết trong trại cải tạo nhưng mãi về sau mới biết tin! Mẹ nó làm kinh doanh giàu có bị nhà nước xếp vào diện không sản xuất lao động là đối tượng bị trục xuất ra khỏi thành phố phải đi xây dựng kinh tế mới. Mẹ nó nó sợ quá nên đã hiến nhà, tài sản cho nhà nước tưởng là để chồng sớm được về, ai ngờ ông ấy chết trong tù đã lâu! Sau tháng tư năm 1975 tất cả các ngân hàng đều thuộc về nhà nước nên nó bị cho thôi việc. Vì là con một trong gia đình nên nó quyết định đi theo mẹ lên kinh tế mới để tránh bị bọn cờ đỏ dòm ngó. Còn vợ nó thì quyết liệt phản đối không chịu đi, dẫn đến sự đổ vỡ hôn nhân. Sau đó vợ nó bỏ đi lấy người khác như một cú sét đánh vào tim nó, đó là một kỹ sư học ở Đông Đức về!
Tôi nói:
- Công tử như thằng Cao Phan và bác Cẩm Ngọc làm sao sống được ở vùng kinh tế mới? Thanh Xuân:- Bác ấy đâu có ở kinh tế mới, chỉ xuống Dương Minh Châu để nhận khu vực canh tác, sau đó trở về Sài gòn.
Tôi hỏi:
- Nhà bác đã hiến tặng rồi thì về Sài gòn ở đâu? Gương mặt Xuân buồn bã nói:
- Về Sài gòn thì ở mhà mướn! Hồi đó việc cư trú và di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác rất khó!
Tôi hỏi:
- Vậy làm sao bác Cẩm Ngọc và thằng Cao Phan ở được Sài gòn? Xuân trả lời:
- Nhờ ngày trước Phan làm ngân hàng nên quen biết nhiều, nó đã nhờ người chạy giấy tạm trú cho bác Cẩm Ngọc ở thành phố để chữa bệnh, còn nó là giấy tạm trú nuôi người bệnh. Xuân hít một hơi thuốc dài, nói tiếp:
- Điều làm cho bác Cẩm Ngọc bẽ bàng, và buồn tủi nhất là bác bị lầm, cứ tưởng mình hiến nhà cho nhà nước là có công. Bà cứ ngỡ còn căn nhà ở Phú Nhuận và căn nhà ở quận 3 ngày trước cho mướn vẫn thuộc sở hữu của mình, nên định chuyển về đó ở. Nhưng oái ăm thay, những gia đình mướn nhà đó đã vượt biên ngày 30 tháng tư. Khi bác đến nhà mới biết căn nhà mặt đường đó nay đã là trụ sở Phường. Bác đi khiếu nại với công an thành phố, nhưng vẫn bị chính quyền từ chối vì lý do chủ nhà bỏ trốn ra nước ngoài. Bác mất trắng! Tôi thở dài hỏi:- Rồi bác ấy và thằng Phan sống ra sao? Xuân quay sang nhìn bức tranh và nói:- Với số tài sản vàng bác còn cất dấu được, nếu chỉ để ăn uống thoải mái cũng hơn chục năm mới hết, nhưng tất cả vốn liếng đó đã bị bọn chủ tàu và dẫn mối đi chui lừa sạch trong nhưữg lần vượt biên thất bại! Xuân đưa tay lấy cốc nước trên bàn lên uống hết và đặt xuốn g rồi kể tiếp:
- Công an khu vực đến dò hỏi, chủ nhà sợ bị liên lụy nên không cho bác và Phan mướn nữa. Thế là hai người đành phải xuống kinh tế mới trồng khoai sắn sống qua ngày, nhưng được một thời gian bác Cẩm Ngọc bệnh nặng. Thằng Phan phải về Sài gòn đi bán máu để lấy tiền chữa bệnh cho mẹ. Vì muốn có thêm tiền nó phải đến nhà thương liên tục nhưng bị từ chối, nó lại đi chỗ khác bán, và cứ nhiều lần như thế nó đã kiệt sức do mất quá nhiều máu! Tôi ngồi nhích lên khỏi thành dựa ghế, ánh mắt lo lắng hỏi:
- Thế sức khỏe của nó và bác Cẩm Ngọc ra sao? Xuân buồn bã trả lời:- Bác Cẩm Ngọc thì không qua khỏi, do thiếu dinh dưỡng và bệnh viêm gan thời kỳ cuối!
Tôi hỏi:
- Còn Phan ra sao?
Thanh Xuân:
- Hôm nó bị kiệt sức và hôn mê, may cho nó hôm đó vợ nó đang ca trực cứu cấp. Thế là nó được chăm sóc và ở lại tịnh dưỡng trong nhà thương hơn một tuần. Trong thời gian đó hàng ngày vợ nó thường xuyên đến thăm. Vợ nó có hỏi tại sao nó lại trở nên thê thảm thế? Nó đã kể lại hết nỗi niềm kể từ khi hai người chia tay đến nay. Vợ nó nghe mà khóc núc nở. Vợ nó hỏi tại sao gia đình rơi vào hoàn cảnh khó khăn túng quẩn thế mà không đi tìm gặp nhưững người bạn cũ nhờ họ giúp đỡ? Nó trả lời là vì tự ái nó không muốn gặp lại ai! Hơn nữa các bạn cũ hầu hết là đi cải tạo, còn lại một ít người thì chắc cũng nghèo, nên không muốn làm phiền! Vợ nó nghe thế càng khóc hơn và ngỏ lời xin lỗi không cùng gia đình nó chia khốn khó! Nó cảm thấy tâm hồn nhẹ nhõm như trút được khối u sầu. Niềm vui bật thành tiếng cười sảng khoái vì đã hiểu được sự đồng cảm của vợ cũ. Nó đã xin lỗi vợ vì cuộc đổi đời quá đột ngột, vì quá sợ hãi nên đã sai lầm trong quyết định ly hôn! Sau đó nó đưa vợ cũ lên kinh tế mới thăm bác Cẩm Ngọc. Lên đến nơi bác cũng ở tình trạng sắp mất, bác mừng rỡ nắm tay hai người tưởng hai vợ chồng đã hàn gắn trở lại với nhau nên ra đi trong thanh thản. Hai vợ chồng nó làm lễ ma chay chôn cất bác. Sau đó vợ nó đưa Phan về ở tạm nhà cha mẹ ruột. Chính vợ nó đã tìm đường giây vượt biên mua bến để nó cùng cha mẹ nàng vượt biên. Họ đã đi thoát, Phan qua Mỹ vừa đi làm vừa đi học lại và đã tốt nghiệp cao học ngành thương mại, hiện đã có một việc làm chính thức trong ngân hàng phụ trách về tài chánh. Phan vẫn sống độc thân, ngoài việc đi làm mưu sinh Phan dành thì giờ còn lại để phụng dưỡng cha mẹ vợ, như một sự cảm ơn tấm lòng tốt của ngưiờ vợ cũ. Tôi cảm động và mừng vui vì nghe tin tốt của bạn. Tôi nói
:- Thật là câu chuyện cảm động. Thằng Cao Phan nó chỉ sống dưới xã hội chủ nghĩa một năm mà đã xác xơ, nếu nó không đi thoát được thì giờ này nó đã điên rồi! Nnhưng làm sao mày biết câu chuyện của nó? Xuân cười ha hả nói:
- Năm ngoái, tao đang bán ở khu chợ trời Huỳnh Thúc Kháng bỗng tao thấy vợ nó đang đi mua sắm, tao ghét quá phớt lờ như không trông thấy, vội quay đi và bước nhanh, nhưng bỗng nghe vợ nó gọi tên tao rất lớn. Tao đứng khựng lại nửa muốn bước đi nửa muốn biết vợ nó nói gì! Tôi hỏi:
- Thế mày phản ứng ra sao?
Thanh Xuân:
- Tao chưa kịp lộ phản ứng thì vợ nó đã đi nhanh đến trước mặt tao, và nói: "Anh Xuân, anh quên em rồi sao? Anh còn đi dạy học không?" Tao trả lời:
- Anh hết đi dạy rồi em, hiện anh đang bán chợ trời.
Vợ Phan:
- Trời ơi, anh mà cũng đi bán chợ trời! Tao nổi cáu lên nói xẵng:
- Nếu bán được linh hồn anh còn dám bán, chứ xá chi bán chợ trời! Vợ Phan biết là tao không vui về câu nói thiếu tế nhị đó, nên nhỏ nhẹ xin lỗi vì không có ý nghĩ đó. Tao thấy thế bỗng chùng lại hỏi chân tình:
- Em đang làm gì, gia đình ra sao?
Vợ Phan:
- Em vẫn làm bác sĩ ở nhà thương Chợ Rẫy. Em đã có một cháu trai với người chồng sau này.
Tao hỏi:
- Đã lâu rồi em có gặp lại Cao Phan không?
Nghe đến tên Cao Phan vợ nó xúc động mạnh, mắt rưng lệ, và kéo tay tao mời vào quán nước gần đó và tâm sự. Nàng kể cho tao nghe hết nỗi niềm vì sao đưa đến cuộc ly hôn. Nguyên nhân chính là vì chữ hiếu. Phan muốn gia đình đi theo bác Cẩm Vân lên kinh tế mới để cho bố được về sớm, còn nàng muốn ở lại Sài gòn để có thể gần gũi phụng dưỡng cha mẹ. Sự mâu thuẫn đó trong lúc giao thời trở nên trầm trọng khiến xảy ra việc đáng tiếc! Nàng kể hết câu chuyện thương tâm về Cao Phan do đó tao mới biết.
Thanh Xuân bỗng nghiêm mặt chậm rãi nói:- Tao đến để nói với mày một điều quan trọng, tao đã tìm được một đường giây vượt biên rất chắc chắn, mày có đi không?
Tôi nhìn Xuân trong lòng đầy súc động, và trầm giọng nói:
- Cảm ơn mày đã có lòng với tao, nhưng tao mới ra tù, muốn sống với gia đình một thời gian. Hơn nữa sức khỏe của tao lại quá yếu, mắt lại kém cần phải điều trị một thời gian nếu không sẽ bị mù! Mày đi trước đi, thế nào tao cũng đi, làm sao tao có thể sống trong một xã hội mất tự do này.
Kể từ lần đến thăm đó Thanh Xuân đã vượt biên, nhưng lần ra đi đó mãi mãi không đến bờ! Tôi nhớ lại có lần Xuân kể cho tôi nghe một đoàn người di cư gặp giông bão, Xuân đã theo hồn những người đó về một cõi xa xăm.
Xa quê hương đã lâu nhưng tôi vẫn chưa một lần về nhưng nghe nói ở trong nước có nhiều đảng viên cộng sản đã tỉnh ngộ nhận thức được là trên thế giới không có thiên đường xã hội chủ nghĩa! Chủ nghĩa cộng sản chỉ đưa xã hội đến nghèo đói, chậm tiến. Việt Nam hôm nay đã có nhiều thay đổi, xã hội có phát triển về mặt đô thị, mức sống người dân khá hơn, nhưng nền kinh tế thị trường đã biến xã hội trở nên tha hóa trong các lãnh vực văn hóa, giáo dục, đạo đức. Nạn quan liêu, bè phái, tham nhũng đang đục khoét tận xương tủy chế độ làm chênh lệch khoảng cách giữa những người có tài sản và đại đa số dân nghèo lại càng xa! Ngày nay dân trí khá hơn nhưng người dân chỉ lo cho cái bao tử, làm ngơ trước bao nghịch cảnh của xã hội nên thờ ơ đến chính trị, đến vận nước. Ở thành phố, người nào khá giả một chút chỉ lo ăn chơi, đi du lịch nước ngoài, thành phần trí thức đa số thụ động, cầu an. Số người dấn thân thì quá ít, có người nào đứng ra đòi hỏi về nhân quyền thì bị chụp mũ là phản động. Trong kỷ nguyên mới, mạng lưới tin học được phổ biến khắp nơi, không có quốc gia nào trên thế giới hiện nay có thể che dấu bưng bít sự thật. Thế hệ trẻ nhờ đã tiếp cận với thế giới bên ngoài bằng phương tiện internet nên đã mở mang trí tuệ biết được cái hay cái đẹp của xứ người, do đó không còn sợ hãi trước bạo lực. Sau ngày miền Nam đổi chủ biết bao sự thay đổi. Các bằng hữu của tôi tan tác phiêu bạt khắp muôn phương, có người chết trong trại tù, người ở lại thì lạc loài cô đơn trên chính quê hương mình, người chết trên biển cả tìm tự do! Chiến tranh và tù ngục đã qua lâu nhưng nhiều đêm những hình ảnh đó vẫn len lỏi vào trong giấc mơ làm tôi bàng hoàng thức giấc. Những cay đắng năm xưa đã phôi phai theo thời gian. Trời Paris cuối thu gío lạnh làm xao xuyến hồn tôi, nhìn chiếc lá vàng rơi tôi chợt nhớ Sài gòn hàng me bay với bao kỷ niệm êm đềm thời tuổi xanh ./.
Đỗ Bình
(Trích trong Tập truyện ngắn Một Thời Lãng Quên)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét