Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Năm, 11 tháng 12, 2025

TIẾNG SÓNG - Lâm Chương


(Sau tháng 4/1975, cả miền Nam lâm vào hoàn cảnh hết sức nghiệt ngã. Nhiều gia đình phân ly tan vỡ. Tôi, sau 10 năm tù rạc, trở về gặp người bạn cũ và kể lại chuyện này. Phần cuối của chuyện, tôi mượn triết lý “Câu Chuyện Dòng Sông” - Hermann Hesse - Phùng Thăng dịch, để nói lên cái quan niệm sống của bạn tôi.) 1.Phạm Văn Gầm nhìn đời bằng một con mắt. Từ ngày anh nhìn theo cái kiểu này thì đời cũng liên tiếp quất cho anh những đòn chí tử. Đau nhất là đòn của vợ anh. Ngón đòn ê ẩm thấu tim gan. Có lúc uất quá, anh muốn giết người. Cũng may, anh kịp dằn lòng. Nếu không, chắc đời đã nghiền nát anh rồi.
<!>
Muốn rõ ngọn ngành, phải kể dông dài đầu đuôi câu chuyện.
Gầm là tay có học, nhưng trong thời bát nháo, kẻ không dựa vào thế lực người khác ắt khó được đời trọng dụng. Chán mớ đời, lại đang tuổi động viên không chạy đàng trời nào cho khỏi. Anh vào lính Nghĩa Quân lẩn quẩn ở quê nhà. Những ngày gần cuối tháng Tư, năm 1975, tình hình quân sự rất bi đát. Những đơn vị bạn đã thoái binh từ hai ngày trước. Đồn Nghĩa Quân không còn ai yểm trợ. Bị cô thế, thằng cha trung đội trưởng Nghĩa Quân dẫn anh em chạy bỏ đồn, tìm nơi kháng cự. Trên mặt đất có nhiều đường chạy. Trời xui đất khiến thế nào lại chạy vào ngõ cụt, phía bờ sông Vàm Cỏ Đông. Chui vô khu rừng tràm. Cố thủ trong một nơi sình lầy nước đọng. Địa thế tác chiến bất lợi trăm bề. Trước mặt là đồng ruộng, sau lưng là con sông lớn. Nếu bị tấn công, rút lui ngả nào?

Nói cố thủ cho oai, chứ thật ra chả đánh đấm mẹ gì. Quân chính quy Bắc Việt đang dồn nỗ lực về thủ đô. Ở đây, chỉ còn le hoe một số du kích địa phương. Du kích đứng từ bìa làng, phóng loa kêu gọi Nghĩa Quân đầu hàng.

Trung đội trưởng nói với anh em: “Cố thủ, chờ quân mình phản công. Tên dép râu nào xông vô, bắn bể đầu cho tao.”

Kêu gọi không được, du kích dùng súng cối 60 bắn vào khu rừng tràm. Súng mới lấy được của một đơn vị thoái binh nào đó bỏ lại. Du kích chưa quen sử dụng nên trái rớt bên đông, trái rớt bên tây. Cũng có trái lọt vào rừng tràm. Chính trái đạn quái ác này văng miểng làm bị thương con mắt trái của Gầm. Vết thương không trầm trọng, nhưng do điều kiện thiếu vệ sinh nên nhiễm trùng, gây đau nhức khó chịu.

Sau mấy ngày cố thủ, hết lương thực mà viện binh không thấy, cũng không liên lạc vô tuyến được với đơn vị bạn. Túng thế, anh em Nghĩa Quân cho Gầm đi một mình ra đầu hàng, mục đích để được chữa thương. Lúc đó, anh mới biết lệnh đầu hàng đã tuyên bố từ ba hôm trước. Du kích bảo anh quay trở lại rừng tràm, báo tin này cho anh em Nghĩa Quân. Khi tất cả Nghĩa Quân chịu buông súng trở ra thì con mắt của Gầm đã vô phương cứu chữa. Một y tá địa phương giúp anh múc tròng mắt hư bỏ đi. Từ đó, Gầm nhìn đời bằng một con mắt.

Cuộc đời chung, vốn nhiều xấu xa bỉ ổi. Nhìn rõ mặt đời quá, nhiều khi lại đâm ra chán đời. Thà nhìn bằng một con mắt, may ra còn thấy đời mờ mờ hư ảo dễ thương. Gầm tự an ủi như thế, và quyết tâm làm lại cuộc đời riêng của mình. Xây dựng một mái ấm gia đình, vợ con hạnh phúc. Chẳng phải Gầm vẫn mong một ngày đất nước bình yên, vất cây súng, nắm lấy tay cày bừa sinh sống hay sao? Đêm đêm, không còn nghe tiếng súng, ngủ khỏi giật mình là sướng rồi.

Việt Cộng vào, tự xưng cách mạng. Gầm là lính trơn, chỉ phải học tập chính sách mới một tuần, được cách mạng cho về làm ăn. Xóa bỏ hận thù, xóa bỏ những tàn tích cũ, cùng nhau xây dựng lại một xã hội yên bình tốt đẹp hơn. Tổ chức ngăn nắp, quy củ rõ ràng. Có nhóm, có tổ, có khóm, có phường. Người ta bảo tổ chức như thế để giúp đỡ nhau khi tối lửa tắt đèn. Cách giải thích nghe có lý có tình, nhưng thật ra là để dòm ngó kiểm soát lẫn nhau. Vợ Gầm cũng tích cực tham gia hoạt động xã hội mới. Bây giờ, chị là hội viên Hội Phụ Nữ của xã. Cứ vài hôm, lại đi họp một lần. Chẳng biết khi họp, họ nói với nhau những gì. Về nhà, trông chị phấn khởi yêu đời thấy rõ. Gầm mừng. Vợ vui là anh vui. Người đàn ông nào cũng muốn đem lại hạnh phúc cho vợ. Gầm cũng thế. Càng thương hơn nữa, chị không hề chê anh khuyết tật. Mọi người bình đẳng, theo cách nói “con người vốn quý” của cách mạng.

Niềm vui trong gia đình kéo dài không lâu. Sau này, vợ Gầm đi họp thường xuyên hơn. Lắm khi, chị đi đến khuya lắc mới về. Và chị về không phải với gương mặt tươi tắn yêu đời như anh hằng mong đợi. Chị hay kiếm cớ gây sự, mắng mỏ anh nhiều câu hỗn láo, cho rằng kết duyên với anh là một lầm lỗi lớn trong đời chị. Chuyện gối chăn, cũng không còn đậm tình chồng vợ. Chị tỏ ra thờ ơ lạnh nhạt, khước từ lảng tránh ái ân.

Sau chiến tranh, đất nước lâm vào nỗi nghèo nàn cơ cực. Muốn nâng cao phúc lợi toàn dân, phải có kế hoạch lâu dài. Cách mạng phát động phong trào thi đua lao động. Làm thủy lợi, đắp đập đào mương, dẫn thủy nhập điền. Là lính Nghĩa Quân của chế độ cũ, dĩ nhiên Gầm được chọn làm đối tượng “lao động là vinh quang” của chế độ mới. Cái khẩu hiệu mới nghe có vẻ sáng ngời, nhưng đủ sức vắt cạn tinh lực con người đến chết. Ngoài việc thủy lợi như bao nhiêu người dân khác, những kẻ được liệt vào thành phần ngụy quân ngụy quyền còn được cách mạng tận tình chiếu cố, làm thêm công tác tháo gỡ mìn bẫy nơi các đồn bót cũ. Mìn chôn dưới mặt đất, ló lên cái ngòi kích hỏa như sợi râu con dế lẫn trong cỏ, khó nhìn thấy. Phương tiện dò mìn là chiếc gậy nhọn đầu, chọt chĩa khều móc theo những hàng rào kẽm gai. Trái mìn nào nổ, coi như xong. Trái nào chưa nổ, phải tìm cách moi lên và vô hiệu hóa. Đã có nhiều người bỏ mạng, hoặc sút tay gãy gọng vì công tác này rồi. Gầm may mắn, không bị hề hấn gì. Trước sự việc này, cách mạng lý luận, các anh gài mìn thì các anh phải tháo gỡ thôi. Hết chiến tranh, còn duy trì những thứ chết người đó làm chi? Cũng đúng thôi! Lý của cách mạng, bao giờ mà chả đúng? Mỗi chuyến công tác chừng mươi bữa nửa tháng. Về nhà chưa nóng đít, Gầm lại có lệnh đi công tác nữa.

Thời gian này, Gầm nghe lời đồn đãi bóng gió về chuyện lén lút lăng nhăng của vợ anh với viên xã ủy. Anh hỏi vợ. Chị lồng lên, xỉa xói vào mặt anh bằng đủ thứ ngôn từ chanh chua của mấy mụ chuyên môn ăn cắp vặt ở những khu chợ đông người. Mồm miệng nào mà đấu khẩu cho lại con vợ điêu ngoa? Gầm nhịn. Càng về sau, chị càng lộng hành công khai đi lại với viên xã ủy, coi chồng chẳng ra chi. Gầm tức, toan giết kẻ gian dâm với vợ anh, nhưng con gà thất thế, muốn vói lên mổ con chó sói là điều không dễ. Kiện thưa ư? Luật lệ địa phương nằm trong tay của viên xã ủy. Nó chưa triệt tiêu Gầm, đã là điều may. Đòi hỏi công lý là điều không tưởng. Chẳng làm gì được kẻ có quyền, Gầm quay ra chửi vợ. Chị cũng không vừa, rủa lại anh là thứ “voi một ngà, người ta một mắt”, ám chỉ tính hung dữ thể hiện qua sự dị hình. Bị chạm vào khuyết tật, Gầm đau như ngực bị đâm dao nhọn. Manh nha trong đầu Gầm ý tưởng tùng xẻo con vợ, rồi thắt cổ tự vận luôn. Cái lưỡi lê từ thời còn đi lính, chưa bén máu người. Lần này, nó sẽ được dùng để trừng trị một con đàn bà trắc nết. Gầm tưởng tượng vợ anh sẽ đau đớn rên la và quằn quại trên vũng máu. Một hình ảnh ghê khiếp quá, chưa thi hành mà anh đã rợn. Ngay vào thời chiến tranh, anh cũng không nhẫn tâm làm điều đó với đối phương, huống chi bây giờ hành sử với người đã từng cùng chung chăn gối? Nhiều đêm trăn trở, Gầm tự hỏi, con đàn bà lăng loàn hư đốn này có đáng để anh đánh đổi luôn mạng sống của mình? Câu hỏi, làm anh tỉnh thức. Lòng anh chùng lại. Sau cùng, anh quyết định bỏ đi. Có kẻ chê anh hèn nhát. Cũng có người thấu lẽ đời, cho thế là khôn. Anh ở lại, chẳng những không làm sứt mẻ được ai, nhiều khi còn nguy đến tính mạng. Viên xã ủy đâu muốn thấy một cái gai trước mắt? Gầm tự hiểu, và lánh mặt trước khi trở thành con sâu cái kiến bị chà đạp.

2.- Tôi trở lại quê nhà sau 10 năm tù rạc, nghe tin bằng hữu mỗi ngày một thêm tan tác. Người lẩn vào rừng sâu, sống đời hoang dã. Người uất khí hộc máu tươi, vì cường quyền áp bức. Người xiêu tán phương xa, biệt tăm không biết sống chết lẽ nào. Và người ở lại như Phạm Văn Gầm, nghe nói cũng thay đổi lạ lùng. Anh nhìn đời bằng một con mắt, và lui về nơi khuất lánh bên dòng sông, rũ hết sự đời, sống theo con nước.

Tôi mua bịch thuốc rê, chai rượu đế, lần dò đi thăm bạn. Tôi đến vào buổi xế chiều. Chòi trống. Tôi đứng ngóng ra sông, chờ Gầm. Gió thổi hiu hiu. Ánh tà dương đỏ rực mặt sông. Những cụm lục bình lờ lững trôi xuôi. Vài cánh cò chấp chới xa xa. Bên kia sông, rừng tràm bát ngát. Gầm về theo nước thủy triều lên. Trong cái lốt ngư ông áo vải nón mê, anh hoàn toàn lột xác khỏi con người ngày cũ. Dáng anh gầy gò, phong thái thong dong.

Thấy tôi, anh cười rộ theo kiểu ẩn sĩ đời xưa: “Gió lớn bốn phương, còn quay về quê cũ được sao?”

Tôi cũng cười vang trên bờ sông, như một giang hồ hiệp khách: “Thiên hạ đại loạn, còn an nhiên tự tại được sao?”

Chúng tôi dắt tay nhau vào trong chòi lá. Sau những thăm hỏi thông thường, tôi nói với Gầm về những ngày tù rạc của tôi. Anh bảo, còn sống trở về là may, thời thế không là dầu sôi lửa bỏng, nhưng hiểm nguy lúc nào cũng đang rình rập bên mình.

Buổi tối, chúng tôi bày rượu nhâm nhi chờ trăng lên. Tôi nghe Gầm kể chuyện đời, chuyện mình.

Tôi nói: “Để chữa lành một vết thương, mà chịu hãm mình cô quạnh bên một dòng sông là điều uổng phí.

Gầm bảo: ”Ở vào cái thế thúc thủ, còn vọng động tranh chấp hơn thua là chuốc họa vào thân.”

Anh cho rằng, ý nghĩa của đời sống tùy quan niệm mỗi người. Có kẻ tìm sự vui thú trong tiền tài. Có người tìm sự thỏa mãn trong quyền lực. Nhưng những thứ đó không đem lại sự bình yên trong tâm hồn. Còn anh, anh theo cái triết lý sống Ông Chài, một bài học thuộc lòng thuở nhỏ, và đọc:

Nước trong rửa ruột sạch trơn
Một câu danh lợi chi sờn lòng đây.
Sớm doi tối vịnh vui vầy
Ngày dài đón gió, đêm chầy chơi trăng.
Tháng ngày thong thả làm ăn
Khỏe quơ chài kéo, mệt quăng câu dầm
Nghêu ngao nay trích mai đầm
Một bầu trời rộng, vui thầm ai hay!*

Đọc xong, Gầm cười sảng khoái, nói “Phúc tại tâm không lý đến đời”.**.

Tôi hỏi điều gì đã làm anh thay đổi quan niệm sống đến tận ngọn nguồn gốc rễ?

Anh nói, hoàn cảnh và dòng sông. Hoàn cảnh đã xô anh vào đường cùng, để từ đó, anh thấy đời là bể khổ. Dòng sông đã dạy cho anh biết thế nào là sự im lặng.

Tôi hỏi: “Im lặng mà cũng phải dạy nữa sao?”

Gầm ngó ra sông nói: “Trong im lặng mình nhìn lại được chính mình”.

Trăng đã lên cao. Ngồi trong chòi, nghe tiếng sóng vỗ ngoài bờ sông.

Tôi nói: “Dòng sông đâu chỉ im lặng, còn có tiếng sóng nữa”.

“Vâng”. Gầm nói: “Tiếng sóng như tiếng vỗ về của mẹ thiên nhiên. Đi tìm an ủi ở đâu cho xa? Ngay ở đây, bên bờ sông này đã cho ta điều đó”.

Chai rượu đế chắt đến giọt cuối cùng. Đêm đã khuya lắm. Con trăng đã xế về bên kia rừng tràm. Mọi vật chìm trong tịch mịch lặng im. Chỉ còn nghe tiếng sóng triền miên như niềm an ủi bất tận của bạn tôi trong nỗi đời hiu quạnh.

Lâm Chương

* thơ Nguyễn Đình Chiểu
**thơ Tô Thùy Yên

Không có nhận xét nào: