Ta tuy đã già...nhưng vẫn đi
Xác cũ nhưng lòng vẫn xuân thì
Anh em nhớ lấy lời tâm huyết
Lời thề năm trước... chớ bất nghì!
Mai Thanh Truyết
Một người bạn vong niên từ thời trước ngày 30/4/75 đã từng khuyên tôi là cuộc đời vốn đã bất toàn, toa đừng mong chờ những gì tuyệt đối. Toa đừng đòi hỏi thiên hạ phải có những ứng xử như toa. Phải biết thông cảm và nằm trong điều kiện của tha nhân, đừng bắt người ta phải “ép mình” (một hình thức khắc kỷ) như toa “tự ép” toa, đừng quá sắp xếp thì giờ như một…robot, v.v….
<!>
Đối với những điều anh khuyên, tôi đã chiêm nghiệm và trải nghiệm trong suốt hơn 50 năm quen biết anh. Và tôi cũng đã ứng dụng cũng như điều chỉnh trong cung cách hành xử của mình đối với tha nhân.
Cho đến nay, kinh nghiệm và kết quả của bao năm qua là:
Tôi không áp đặt suy nghĩ của người khác phải giống như mình.
Đối với người thân, tôi bớt đòi hỏi họ phải làm theo lề lối hướng dẫn và tình toàn của mình, đặc biệt là đối với con cái. Con cái tôi đã từng phải chịu nhiều áp lực và đôi khi là “nạn nhân” của tôi trong thời niên thiếu của chúng. Cũng may là tôi đã nhận thức kịp sau nầy để cho mối liên hệ cha con trở nên hòa hoãn và thân tình hơn.
Đối với bè bạn, trong giao tế, tôi từ từ không áp dụng “luật của mình” cho người khác…nhứt là giờ giấc hẹn hò…không nhứt thiết phải chính xác đúng giờ, như bây giờ thì…du di chút chút!
Đối với nhân viên trong sở làm, có 3 giai đoạn trong cuộc đời làm việc của tôi: ở Pháp, Việt Nam, và Hoa Kỳ.
Ở Pháp: Đối với sinh viên Pháp hay Việt tôi đều thân thiện và xem họ như là một người bạn trẻ. Không có ngăn cách của một người phụ trách lớp thí nghiệm, mà chỉ đóng vai trò hướng dẫn đúng nghĩa. Nhưng đôi khi, cũng hơi “phe đảng” với sinh viên Việt mới qua do việc cho biết “vài kết quả về phân tích hóa học” có trong dung dịch mà các em cần phải phân tích và tìm kiếm kết quả. Tất cả cũng vì tình nghĩa đồng bào, dân tộc!
Ở Việt Nam: Không khí giáo dục bảo thủ hơn, trang nghiêm hơn, nhưng tôi vẫn giữ được vừa là vị thế của người “Thầy”, và vừa là một người anh hướng dẫn. Do đó, đối với sinh viên, sự gần gũi thân mật xảy ra, từ đó, cung cách giao tiếp thoáng hơn, không như khoảng cách…cần có của một giáo sư và sinh viên. Tôi có được trong giao tiếp với sinh viên, một sự đối thoại tương đối cởi mở, không có khoảng cách xa (dù muốn dù không, mối liên quan thầy – trò vẫn còn phải có một khoảng cách nào đó!). Đối với đồng nghiệp hay nhân viên trong Ban Hóa học, tôi cư xử trong tình thân và đồng nghiệp hơn là vị trí của “Ông Trưởng ban”. Chính vì vậy mà nhóm Giảng nghiệm viên trẻ rất thích tôi, và phụ với tôi làm “giáo sư chạy” đi giảng dạy ở Cao Đài và Vạn Hạnh …
Trong hai niên học ngắn ngủi ở Việt Nam, tôi đã học hỏi được nhiều điều như lối dạỵ còn quá từ chương, còn “học chay” nhiều hơn thực tập và thí nghiệm, người thầy cố tình “không muốn gần sinh viên để giữ khoảng cách, ngoại trừ một số ít giáo sư trẻ, sinh viên VN còn thụ động, chăm chú nghe lời giảng của giảng sư, ít đặt câu hỏi và còn lệ thuộc người thầy quá nhiều v.v…”
Ở Mỹ: Tôi có dịp dạy môn Hóa học và thí nghiệm ở King College (Fresno), Chem 101 dành riêng cho sinh viên học về y tá - nursing. Trong thời gian nầy, tôi đã có trên 10 năm kinh nghiệm trong công việc quản lý chuyên môn ở kỹ nghệ cho nên, thay vì đem textbook ra giảng dạy, tôi nói nhiều về các áp dụng hóa chất trong kỹ nghệ và nặng phần trao đổi, vấn đáp, nhiều khi ra ngoài đề dù vẫn trong tinh thần giảng dạy hóa học. Sinh viên rất thích giờ của tôi. Ngoài ra, tôi có dạy một lớp tiếng Việt ở San Diego College, nơi đây sinh viên chỉ học vì tò mò và vì muốn có thêm credit trong chương trình học, cho nên tôi không thấy hứng thú nhiều lắm trong việc giảng dạy.
Tóm lại trong 3 không gian, 3 hoàn cảnh, 3 chủng loại sinh viên khác nhau, tôi thể hiện vai trò của người thầy giáo như một hướng dẫn viên, một người bạn lớn tuổi, và đặc biệt trong thời kỳ dạy ở Việt Nam, tôi rất tâm huyết đối với sinh viên vì muốn tạo một luồng gió mới cho lớp trẻ trong việc giáo dục và hướng dẫn. Vì vậy cho nên, có những nét bức phá trong việc giảng dạy, nhự việc thi cử, thay vì chỉ có một lần thi cuối khóa, tôi phân ra những kỳ “kiểm soát liên tục – continued control” sau vài chương bài giảng. Làm như vậy sẽ bớt áp lực cho sinh viên phải tập trung dò tất cả môn học cho lỳ thi… cuối năm. Chính việc làm nầy tôi “bị” những giáo sư “trưởng lão” gán cho nickname là…ngựa con háo đá. Và chính sự việc nầy làm cho tôi nghiệm được hai điều:
· Giáo dục Việt Nam thời bấy giờ rất …” tự trị”, người thầy tự soạn ra giáo trình, giáo án của mình mà không có ai kiểm soát cả;
· Phần đông các giáo sư trưởng lão, giáo sư thực thụ rất bảo thủ không muốn mở cửa cho sinh viên rộng bước, ngược lại, chỉ hé cửa cho “chou chou” hay cật ruột đi lên mà thôi. Chính vì vậy, mà thời Việt Nam Cộng Hòa, số sinh viên học Cao học (Master), và Tiến sĩ rất thấp so với số Cử Nhơn đã tốt nghiệp.
Làm thầy đã thế, trong suốt 27 năm làm việc ở Mỹ (không kể 3 năm làm postdoc.), tôi hơi khắt khe đối với nhân viên, vì tôi nghĩ “họ” phải biết và làm như cá nhân mình, nghĩa là khi giao một công việc mà tôi có thể làm trong vòng 1 giờ, tôi mong có được kết quả ấy trong khoảng thời lượng tôi muốn. Chính vì điểm nầy mà tôi thường tạo nhiều áp lực cho nhân viên trong những năm đầu tiên nắm quyền quản lý (management) chuyên môn.
Tôi đã phải ra tòa làm chứng vì đã đuổi một nhân viên kỹ sư người Việt (là con của một người bạn tôi tuyển vào) vì ý thức kỷ luật của anh ta qua việc ỷ lại vào sự quen biết với tôi. Tôi cũng đã ra tòa một lần thứ hai trong vụ đuổi một Lab Manager vì cô ta tố cáo tôi “cấu kết” với General Manager để đuổi cô vô cớ. May mắn thay, trong hai lần ra tòa tôi được miễn tố vì tôi được Công ty bảo vệ. Đây cũng là một vài kinh nghiệm quý giá của tôi trên đất tạm dung nầy..
Về gia cảnh: Tôi được sinh ra ở một vùng quê nghèo, chung quanh phần đông là những nông dân nghèo khó hay làm công cho các điền chủ. Gia đình tôi thuộc loại trung lưu. Ba tôi làm thầy giáo, có đâu 10 mẫu ruộng, có nuôi ngựa đua… Các anh chị lớn của tôi được gửi lên Sài Gòn đi học trung học.
Sinh ra vào thời buổi chiến tranh Thế giới thứ hai. Cuộc chiến đang đến độ khốc liệt. Ở Việt Nam, Việt Minh bắt đầu nổi dậy đánh Tây khắp nơi. Sau khi sanh tôi ra, Má tôi bị bịnh cho nên không có sữa, tôi phải uống nước cơm với đường tán. do đó người tôi vốn nhỏ con, ốm yếu lại thêm èo uột.
Vào một đêm giữa năm 1945, “cách mạng”, tức những người tá điền của Ba tôi, nghe theo lời dụ dỗ của Việt Minh đã đến nhà và mang theo bản án tử hình cho Ba tôi. Lý do kết án Ba tôi là Việt gian, có con cho theo học tiếng Pháp, và Ba tôi thường xuyên nói chuyện trao đổi với quân lính Pháp đóng đồn gần đó.
Thế là nhà tôi bị đốt cháy hoàn toàn. Ba tôi bị cột vào một cây chuối bên hông nhà. Má tôi cùng các chị và hai anh kế của tôi đứng cách pháp trường “chuối” chỉ độ ba thước. Có lẽ nhờ Ơn phước của gia đình, Ba tôi không chết mà chỉ bị thương nơi cánh tay trái, mà họ tưởng là đã giết được Ba tôi, do đó họ rút đi vì sợ Tây đến. Chúng tôi bồng bế nhau về Sài Gòn từ đó, ở nhà trọ của các anh lớn.
Trôi dạt vào Sài Gòn, gia đình tôi rất khổ cực vì Ba tôi chưa được nhận vào chân thầy giáo tiểu học ở đây trong một thời gian dài.
Tôi không còn nhớ bao lâu, nhưng tuổi thơ của tôi rất vui vì…các chị tôi làm đủ mọi thứ bánh để đem đi bán dạo, và dĩ nhiên tôi luôn luôn có phần ăn do các chị cho.
Gia đình tôi được ổn định khi Ba tôi được phục chức và dạy trở lại. Tôi nhớ vào khoảng khi tôi được 7 tuổi. Ba tôi dạy tôi học ở nhà. Ngày đầu tiên tôi chính thức được đi học là vào thẳng lớp Tư (tức là lớp 2 bây giờ) chứ không qua lớp Năm.
Tuổi thơ của tôi thật êm ả, mặc dù bên ngoài biết bao biến cố đến cho Đất Nước mà tôi không biết vì còn quá nhỏ. Việt Minh nổi dậy. Nhựt Bổn cướp chính quyền do người Pháp lúc đó. Rồi Nhựt đầu hàng. Người Pháp trở lại. Rồi cuộc chiến giữa Việt Minh (cộng sản) và Pháp. Rồi tôi nghe các anh chị kể vụ Trần Văn Ơn bị bắn chết và đám ma rất to, kéo dài từ bót cảnh sát Quận Nhì từ đường Galliéni (Trần Hưng Đạo) cho đến nơi chôn cất ở nghĩa địa kế cận sân vận động Cộng Hòa đường Nguyễn Kim trong Chợ Lớn.
Tôi cũng được chứng kiến những ngày quân cộng sản “tập kết” sau hiệp định Geneve, 20 tháng 7 năm 1954. Nhà tôi lúc đó ở đường Dumortier tức Cô Bắc bây giờ (trước 1975) gần một khách sạn làm nơi tập trung cán bộ Việt Cộng để chuẩn bị tập kết về Bắc vỹ tuyến 17. Tôi cũng đã theo mấy anh tôi đến gần khách sạn để “chọi đá” phản đối VC!
Đó là tuổi thơ của tôi.
Êm ả. Sống trong sự nuông chìu đùm bọc của của các anh chị em.
Đó là tôi trong buổi thiếu thời – thanh niên – thành đạt… có nhiều giấc mơ, mà cũng có nhiều hụt hẫng!
Có nhiều thành đạt, nhưng cũng có nhiều giai đoạn … hoang sơ - wild!
Bây giờ, giữa cơn tịch mịch của đêm giáp Đông, với tuổi đời bước qua số 8 vài năm, nhìn lại một “tương lai hồi tưởng – nostalgic future”, tôi đã nhìn thấy một viễn kiến là dụng tâm nhìn lại quá khứ để vẽ ra một tương lai, dù đã là quá khứ …ngõ hầu hình dung lại hơn 80 năm cuộc đời đã trải qua…
Do đó, cũng có thể nói nostalgic future cũng là… “Nhớ về quá khứ để chuẩn bị cho tương lai”, hoặc “Nhìn quá khứ - Thấy tương lai”. Điều nầy rõ ràng cũng có thể áp dụng cho từng quốc gia, để từ đó nhận diện ra nền văn minh, văn hóa của mỗi dân tộc qua chiều dài lịch sử của mỗi nơi.
Trở về tôi, nhớ lại vào đầu năm 1983, chỉ vài tháng sau khi đặt chân đến Fresno, CA, tôi đã làm một đoạn TV địa phương dưới tiêu đề “Looking back” - Quá khứ hồi tưởng. Tôi đã tự viết script cho mình để độc thoại trong vòng 5 phút. Phim chiếu cảnh tôi đi qua, đi lại trong một công viên, thỉnh thoảng ngồi trên băng ghế…để nói về bầu nhiệt huyết của tuổi 30 bị thui chột vì nỗi can qua của đất nước. Niềm uất hận đối với Cộng sản Bắc Việt. Chính vì họ đã “giết” đi sức đóng góp cho quốc gia, cho dân tộc của một người con Việt còn qua` nhiều khả năng đóng góp cho xã hội.
Trong đoạn phim ngắn đó, tôi nhìn lại quá khứ nhưng chưa thấy được tương lai vì vừa mới cự ngụ nơi đất mới chỉ một thời gian ngắn, tâm trạng vẫn còn ngổn ngang với cuộc sống cho một gia đình với bốn con còn nhỏ! Cho nên, lời lẽ rất bi quan và tương lai còn quá mịt mù.
Năm 2016, sau vụ xả thải ngày 10/3/2016 làm chết cá do Cty Gang thép Đa Phước Formosa, Vũng Áng, Hà Tĩnh, tôi được mời qua nói chuyện cho một TV ở San Diego. Sau đó, được tặng một bức tranh vẽ trên canvas hình một thiếu nữ cố trồi lên khỏi mặt nước kêu cứu trong tuyệt vọng, với rất nhiều hình cá nổi chung quanh. Hình ảnh nầy làm tôi nhớ lại câu chuyện thiền của Suzuki, cũng nói lên đề tài nầy. Một người té xuống vực, cố bám víu từng gốc cây cội rễ, nhưng càng bám càng bị rơi vào hố thẩm. Trong lúc tuyệt vọng và đang nhắm mắt chờ cái chết đến với mình, người ấy chợt nhìn thấy một đóa hoa tỉ muội vừa nở rạng bên cạnh trong lúc chiếc rễ cuối cùng anh đang nắm sắp sửa rời hốc đá. Một nụ cười mãn nguyện cùng lúc thân xác anh ta đi vào vực thẳm.
Nhưng trong suốt hơn 80 năm qua, con người xã hội đã ngự trị và đè nén con người nguyên sơ của tôi, và bản thể thứ hai nầy chưa bao giờ được sống trọn vẹn mà chỉ sống dưới lớp dù của con người xã hội qua cái ngã, hay tham vọng do môi trường bên ngoài tạo thành.
Và chính vì vậy, suốt thời gian qua, cái tôi nguyên sơ bị phai mờ và chìm đắm trong cơn lốc chủ nghĩa cùng với vận nước điêu linh.
Còn hiện tại, con người nguyên sơ của tôi thì sao?
Hơn 40 năm dong rủi, chu du qua nhiều miền đất nước tạm dung, cuối cùng để thấy lại mình … hôm nay.
Đây không phải là nostalgic future hay looking back mà thực sự muốn thấy mình ngay lúc nầy, trong hiện tại.
Đôi khi vẫn còn giằng co giữa hai bản thể, nhưng quả thật, tôi nguyên sơ đang ngự trị trong tôi và đang đi cùng tôi trong cuộc hành trình về với chân nguyên.
Tôi đang đi về đâu?
Hiện tại vẫn chưa có câu trả lời rốt ráo, nhưng chắc chắn rằng tôi đã đi và đang đi vào cái “chân không”, đi vào cội nguồn nguyên thủy nhưng khái niệm trên vẫn còn mù mờ chưa định hình rõ ràng…trong tâm trí.
Bước đi chắc nịt, không còn dò dẫm dù hai bên đường vẫn còn nhiều gay góc và bụi mờ làm vướng bận mắt của tôi nguyên sơ. Nhưng tôi vẫn tiếp tục đi…
Trong tôi nguyên sơ, không còn có câu hỏi tự đặt ra “Que sera, sera” vì tôi đã thấy rõ con đường mình đi. “Tôi nguyên sơ” đã cùng “Tôi” song hành hướng về cõi chân không!
Mà chân không là gì?
Chân không trong “tôi xã hội” là một cuộc chiến đấu cho một lý tưởng trong lành, không mưu cầu chiếm đoạt quyền lực, không nhằm tạo nên một dáng đứng (legacy) nào đó. Chính vì vậy mà tôi xã hội đã sống và làm “cách mạng” đã hơn 40 năm qua, dứt khoát không làm chánh trị.
Còn tôi nguyên sơ còn lại hôm nay là một cuộc chuyển hóa tự thân. Sống cùng một nhịp thở với cái tôi đến từ cát bụi, sống tự nhiên với vạn vật, không cố gắng, không mưu cầu…và cuối cùng cũng sẽ trở về với cát bụi.
Trời nắng nhìn thấy niềm vui rạng rỡ của thiên nhiên.
Trời mưa vui cùng với sự tươi mát của cây cỏ.
Nhìn cành cây trụi lá của mùa Đông.
Ngắm hoa lá nẩy mầm khoe sắc mùa Xuân.
Tâm cảnh hai thời điểm vẫn là một.
Vẫn giữ niềm thư thái trong an nhiên tự tại.
Vẫn giữ niềm an lạc trong cái nóng khắc nghiệt của mùa hè Houston.
Sự chuyển hóa hay sự thay đổi ngôi của “tôi xã hội” và “tôi nguyên sơ” có làm tôi trăn trở chăng?
Chắc chắn là không. Vì tôi đã rõ, một khi đã định hình được tôi ở dạng nào của tính bi-polar trong tôi rồi, lúc đó sẽ có một thông lộ mới đã sẵn sàng cho Tôi đi.
Phải chăng, ngày hôm nay, trong giờ phút hiện tại nầy, tính bi-polar (xin tạm dịch là “nhị dạng” hay “nhị cực”) đã biến mất, nhường chỗ lại trong tôi chỉ còn “độc dạng” (mono-polar) để tiếp tục đi về với nguyên thủy của cuộc sống, cát bụi trở sẽ trở về với cát bụi, hay về lại thể chân không của vạn vật.
Phải chăng sẽ chẳng còn tương lai hồi tưởng, cũng như chẳng còn quá khứ hồi tưởng trong tôi hiện tại?
Phải chăng gia đình, xã hội, quê cha, đất tổ đã xa rời trong Tôi?
Phải chăng Tôi đã đạt và thoát khỏi vòng lẩn quẩn của cõi Ta Bà nầy?
Phải chăng tôi là Tôi, mà cũng không phải là Tôi nữa?
Phổ Lập Mai Thanh Truyết
Hành trình về với Chân Tâm
Houston - Lập Đông 2025

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét