Nguồn: Katharina Pistor, The new Washington Consensus, Business and Financial Times, 30/01/2025 Biên dịch: Nguyễn Văn Đáp
Trong nhiều thập kỷ, chúng ta vẫn luôn được nghe rằng các doanh nghiệp do chính phủ điều hành là không tốt cho nền kinh tế. Một luận điểm cốt lõi của “Đồng thuận Washington” nổi lên vào những năm 1980 là “khu vực công nghiệp tư nhân được quản lý hiệu quả hơn các doanh nghiệp nhà nước”, bởi vì nguy cơ phá sản khiến các nhà quản lý trong các công ty tư nhân tập trung vào lợi nhuận thu được.
<!>
Ban đầu được hình thành cho các quốc gia ở Mỹ Latinh và sau đó được áp dụng trong quá trình chuyển đổi hậu cộng sản ở Trung và Đông Âu, Đồng thuận Washington đã trở thành mô hình chính sách kinh tế chủ đạo kể từ đó.
Nhưng điều gì sẽ xảy ra khi các doanh nhân tham gia chính phủ? Điều đó có ý nghĩa gì đối với khả năng người dân tự đặt ra các quy tắc mà họ tuân theo? Những câu hỏi như vậy hiếm khi được đặt ra, bởi vì việc đưa các doanh nhân giàu kinh nghiệm vào chính phủ thường được hoan nghênh một cách mặc định.
Họ được cho là biết cách điều hành mọi việc hiệu quả, và sự tham gia của họ thường chỉ mang tính chất tạm thời. Nhưng trong khi việc tuyển dụng một vài doanh nhân nào đó vào chính phủ là một chuyện, thì chính quyền của Donald Trump dường như lại có ý định giao toàn bộ chính phủ cho giới doanh nhân.
Chắc chắn việc bổ nhiệm Scott Bessent – một ông trùm tài chính làm Bộ trưởng Tài chính không có gì đáng ngạc nhiên, nếu xét đến danh sách dài những người tiền nhiệm có xuất thân tương tự. Tương tự, việc nới lỏng thực thi luật chống độc quyền và các quy định về môi trường và tài chính cũng quen thuộc từ các chính quyền Cộng hòa trước đây, thường dẫn đến những hậu quả xấu về lâu dài – từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 đến các vụ cháy rừng, sóng nhiệt và bão băng ngày càng thường xuyên và nghiêm trọng hơn.
Nhưng chính quyền Trump nhiệm kỳ thứ hai còn tiến xa hơn nhiều. Nếu một bức ảnh đáng giá ngàn lời, thì hình ảnh các nhà sáng lập và CEO của các tập đoàn công nghệ lớn (bao gồm cả Amazon, Meta và X) ngồi kín hàng ghế đầu tại lễ nhậm chức của Trump chính là một tuyên ngôn.
Họ được ưu tiên hơn cả những người được tổng thống đề cử vào nội các. Mặc dù ngành dầu khí và ngành tài chính ít được chú ý hơn, nhưng tầm ảnh hưởng của họ cũng rất lớn.
Những hình ảnh này truyền tải một thông điệp mạnh mẽ hơn bất kỳ lời tuyên bố nào: chính phủ Mỹ này không chỉ “tốt cho kinh doanh”; mà chính nó là kinh doanh. Câu ngạn ngữ cũ, “kinh doanh là công việc của nước Mỹ,” đã được đẩy đến một cực điểm mới: chính phủ Mỹ cũng là kinh doanh. Hãy gọi đó là Đồng thuận Washington mới.
Dĩ nhiên, kinh doanh luôn đóng một vai trò to lớn trong lịch sử nước Mỹ. Một liên doanh cổ phần, Công ty Virginia, đã thành lập khu định cư lâu dài đầu tiên ở Bắc Mỹ, và Công ty Đông Ấn Hà Lan kiểm soát phần lớn hoạt động buôn bán nô lệ xuyên Đại Tây Dương, xây dựng các pháo đài và khu định cư ở Tây Ấn (khu vực Caribe) và khu vực là nước Mỹ ngày nay. Không chỉ đơn thuần là quan hệ đối tác công tư, những thực thể này còn là những người cai trị theo đúng nghĩa.
Và Công ty Đông Ấn Anh, tổ chức đã thiết lập chế độ thuộc địa của Anh trên tiểu lục địa Ấn Độ trong gần một thế kỷ, thậm chí còn khẳng định chủ quyền của mình đối với các vùng lãnh thổ mà họ đã chinh phục. (Mặc dù Warren Hastings của Công ty, người được bổ nhiệm làm toàn quyền Ấn Độ thuộc Anh, đã bị luận tội vì hành động thâu tóm quyền lực này, nhưng cuối cùng ông đã được tha bổng.)
Lịch sử cho thấy rằng một “nhà nước do công ty làm chủ” nhìn chung là một điều vừa có lợi vừa có hại. Logic của kinh doanh hầu như không để lại chỗ cho tự do trừ khi bạn là một trong số ít người ở vị trí lãnh đạo. Kinh doanh chỉ cho phép hai loại người: người lao động và người tiêu dùng – người lao động là yếu tố đầu vào cho sản xuất, người tiêu dùng là người mua sản phẩm hoặc dịch vụ. Trong cả hai trường hợp, mục đích duy nhất của con người là giúp tối đa hóa giá trị cổ đông.
Do đó, chi phí lao động phải được giữ ở mức thấp và nhu cầu phải được duy trì ở mức cao bằng mọi cách có thể. Không có chỗ cho lòng trung thành, cộng đồng hay quyền cá nhân. Các nhà quản lý cấp cao ở Hoa Kỳ có thể nhận được những khoản tiền bồi thường lớn khi nghỉ việc, nhưng người lao động có thể bị sa thải tùy ý.
Người tiêu dùng được miêu tả là những người may mắn, cuộc sống của họ trở nên phong phú hơn nhờ việc mua những sản phẩm mà họ thèm muốn – ngay cả khi những sản phẩm đó gây hại hoặc giết chết họ, như trường hợp thuốc lá hoặc rượu.
Mô hình tăng lợi nhuận thông qua việc gây nghiện đã được các công ty kỹ thuật số lớn hiện nay hoàn thiện. Những lượt “thích” kích thích dopamine, việc lướt mạng không ngừng và các thuật toán giúp bài đăng lan truyền nhanh chóng đều đảm bảo rằng việc từ bỏ sẽ gây ra sự khó chịu tương tự như cai nghiện ma túy. Không có sự kiểm soát và cân bằng, không có cơ chế trách nhiệm giải trình và không có biện pháp bảo vệ nào chống lại sự xâm phạm vào đời sống cá nhân của người dùng.
Chỉ một cú nhấp chuột khi đăng ký là hàng triệu người sẽ bị đẩy vào vòng kiểm soát của một chế độ chuyên quyền tư nhân. Và đừng nhầm lẫn: chuyên quyền chính là điều chúng ta đang đối mặt. Thị trường có thể là nơi thương lượng giữa các bên tự do và bình đẳng, nhưng các công ty, như Ronald Coase đã dạy chúng ta, lại hướng đến sự kiểm soát tập trung.
Các “hòn đảo” tư nhân của chế độ chuyên quyền doanh nghiệp luôn mâu thuẫn với nền tự quản dân chủ, và số phận của các quốc gia do công ty cai trị trong quá khứ cho thấy lần này cũng có thể không kết thúc tốt đẹp. Các cuộc nổi dậy và binh biến chống lại Công ty Đông Ấn đã khiến chính quyền Anh thiết lập quyền kiểm soát trực tiếp đối với tiểu lục địa, và cuối cùng là giải thể công ty.
Ở những nơi khác, các công ty thuộc địa thường cai trị một cách tàn nhẫn, núp sau những lớp vỏ pháp lý bảo vệ họ khỏi trách nhiệm trước khi gục ngã bởi gánh nặng nợ nần quá lớn hoặc quản lý yếu kém. Tại Bắc Mỹ, hiến chương của các công ty thuộc địa dần dần được chuyển đổi thành những bản hiến pháp sơ khai, hạn chế quyền hành pháp và trao quyền bầu cử cho người dân.
Việc tách biệt doanh nghiệp khỏi chính phủ ngày càng trở nên khó khăn, không chỉ ở Mỹ. Viễn cảnh loại bỏ sự kiểm soát đối với quyền lực tư nhân bằng cách tìm kiếm quyền lực công quá hấp dẫn đối với các nhà lãnh đạo doanh nghiệp có đủ thời gian và tiền bạc.
Giờ đây, khi chúng ta đã chứng kiến giới doanh nghiệp thâu tóm chính phủ một cách trắng trợn, lựa chọn duy nhất là dân chủ hóa doanh nghiệp hoặc từ bỏ mọi giả vờ dân chủ.
Katharina Pistor, Giáo sư Luật So sánh tại Trường Luật Columbia, là tác giả của cuốn sách “Bộ luật về vốn: Luật pháp tạo ra sự giàu có và bất bình đẳng như thế nào” (Nhà xuất bản Đại học Princeton, 2019)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét