1. Hòn Vọng Phu (Bản mới): Lê Thương - Thái Thanh - Ánh Tuyết - Hx Ngàn Khơi - GsTranNangPhung - HungThe - NNS
Hòn Vọng Phu: (i) Đoàn Người Ra Đi, (II) Ai Xuôi Vạn Lý, (III) Người Chinh Phu Trở Về.
2. Tình Chàng Ý Thiếp: Y Vân - Phương Dung - Tuấn Vũ - Gs TranNangPhung - HungThe - - NNS
3. Bao Giờ Em Quên: Duy Khánh - Như Quỳnh - Trường Vũ - Gs TranNangPhung - HungThe - NNS
4. Bông Lục Bình: Hà Phương - Hương Lan - Gs TranNangPhung - HungThe - NNS
5. Xin Đừng Trách Đa Đa: Võ Đông Điền - Như Quỳnh - Gs TranNangPhung - HungThe - NNS
6. Sầu Viễn Xứ: Lam Phương - Lưu Hồng - Gs TranNangPhung - HungThe - NNS
.............................. .............................. .............................. ...........
I. Chuyện Văn Nghệ (Mang tính Thời sự & Xã hội)
(i) Cát Linh (Pv RFA): Người Nhạc sĩ xưa và sáng tác của ngày nay
Khi người nhạc sĩ sáng tác, nhạc phẩm của họ ảnh hưởng rất nhiều từ chính thời đại họ sống. Chính vì vậy, âm nhạc Việt Nam đã có những ca khúc tiền chiến bất hủ về một xã hội qua nhiều biến động của thời cuộc, những bản nhạc tình thơ mộng, lãng mạn gắn liền với những cách trở vì cuộc chiến.
Rồi mấy mươi năm sau, cũng chính những nhạc sĩ ấy, ở một nơi rất xa quê hương, họ tiếp tục sáng tác, nhưng đó là những sáng tác trăn trở về một Việt Nam đang có nhiều câu hỏi.
Từ một bài thơ
“Đất nước mình ngộ quá phải không anh / Bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn
Bốn ngàn tuổi mà vẫn còn bú mớm / Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi...
Đất nước mình lạ quá phải không anh / Những chiếc bánh chưng vô cùng kì vĩ
Những dự án và tượng đài nghìn tỉ / Sinh mạng con người chỉ như cái móng tay...”
Trần Duy Đức, người chuyên chắp cánh cho những tứ thơ của Mai Thảo, Du Tử Lê, Ngô Tịnh Yên nay lại trăn trở khi tình cờ “nghe” cô giáo Trần Thị Lam ở Hà Tĩnh đặt ra một câu hỏi trong câu trả lời, “Đất nước mình ngộ quá phải không anh?”. “Tôi nhận được bài thơ Đất nước mình ngộ quá phải không anh hơi muộn (01/05/2016) từ email của 1 người bạn gửi cho, và phổ nhạc trong thời gian ngồi chờ hẹn Trần Thái Hoà ghé thăm để cùng nhau đi ăn tối. Sau khi phổ nhạc xong, mới hay trên YouTube có hàng chục nhạc sĩ đã phổ nhạc. Nhưng "lỡ" phổ nhạc bài thơ này rồi, thì thôi, cũng gọi là chút lòng ngậm ngùi nghĩ về đất nước mình… Tuy nhiên, tự an ủi mình 1 điều: Đã giữ được trọn vẹn nguyên bản của bài thơ, chỉ thêm thắt vài chữ "vô thưởng vô phạt": Ôi, và, thì, mà… như chút gia vị cho món ăn thêm mặn mà…”. Trần Duy Đức đã từng dạo lên tiếng cổ cầm Koto trong Khúc mưa sầu, từng viết lên những ca khúc mang dáng dấp nhân sinh, đã nhìn thấy tiếng khóc của đứa bé 4 ngàn năm chưa chịu lớn qua lời trần tình của cô giáo Trần Thị Lam. Hơn thế nữa, ông còn nghe thấy tiếng kêu gào của những ngư dân Việt Nam đang bị tước mất đi nguồn sống. Từ đó, ông nghe thấy tiếng vọng từ một người trai trẻ trong mình đang cất lên tiếng nói của thế hệ thanh niên Việt Nam (VN). “Khi làm công việc chuyển nhạc vào bài thơ này, điều đầu tiên tôi ghi nhận: "Hào khí" của tuổi trẻ VN, can đảm viết lên những lời thơ mang tính "tự trào", thách thức với chế độ bạo quyền Cộng sản Việt Nam; ẩn chứa sự "khích tướng" đối với người dân trong nước: "…Trước những bất công mà không dám kêu đòi!" (Ôi tôi yêu biết bao và kỳ vọng biết mấy những người tuổi trẻ VN trong nước…). Từ nỗi niềm ấy, Trần Duy Đức Nên đã cố gắng dẫn dắt dòng nhạc của mình kết hợp với 3 niềm cảm xúc: Hùng, Bi, Hài, chuyển sang những chuỗi âm thanh kết nối, phù hợp với từng ý nghĩa, tâm tình của từng chữ, từng câu, từng vần của bài thơ vào ca khúc, như lời thúc dục tuổi trẻ VN đứng lên, dấn thân cho Tổ Quốc… Tiếng hát Trần Thái Hoà đã cùng với Trần Duy Đức gửi đến tuổi trẻ Việt Nam tiếng gọi ấy. “Tôi cảm kích, trân quý ở Trần Thái Hòa một tấm lòng của người tuổi trẻ VN hải ngoại, ước muốn "tiếp lửa" với những người tuổi trẻ trong nước.”
Cho đến Biển Đông
Có lẽ những người nghe nhạc Việt Nam không ai không biết đến nhạc sĩ Song Ngọc, tác giả của ca khúc "Tiễn đưa" nổi tiếng. Ông còn được biết đến với tên Hàn Sinh của ca khúc “Xin gọi nhau là cố nhân”, Hoàng Ngọc Ân của ca khúc "Định mệnh".
Những bản tình ca diễm lệ, những cuộc tình ‘Định mệnh’, những ước mơ về chuyến bay đêm thời trai trẻ của Song Ngọc được nhường chỗ cho nhịp điệu oai hùng, tiếng nói của dân tộc Việt Nam con Rồng cháu Tiên, về một Trường Sa, Hoàng Sa của “tổ tiên bao ngàn năm gầy dựng cơ đồ”.
“Biển Đông dậy sóng / Tàu giặc xâm lấn / Muôn triệu người Việt Nam yêu nước / Quyết một lòng bảo vệ non sông / Đây Hoàng Sa, đây Trường Sa của tổ tiên ta / Bao ngàn năm gầy dựng cơ đồ / Con cháu thề cùng chống xâm lăng…” (Biển Đông dậy sóng).
Sau hơn 40 năm rời quê hương và hơn nửa đời người dành cho sáng tác, một ngày nọ, nét đẹp hào phóng, lãng mạn trong các ca khúc của ông hoá thành tiếng gọi hào hùng của biển Đông đang dậy sóng. “Tôi viết Biển Đông dậy sóng trong tâm trạng của một người đang nhìn về quê hương mình và bất lực…”
Và ‘Con đường Việt Nam’
Song Ngọc, Trần Duy Đức là nhạc sĩ của những bản tình ca lãng mạn, ru lòng người bằng những câu chuyện nhẹ nhàng, bay bổng. Thế nhưng, sau mấy mươi năm, cũng chính bằng âm nhạc, họ nói lên tiếng nói của một dân tộc. Họ trăn trở nhìn về Biển Đông, họ ưu tư trước câu hỏi về một đất nước bốn ngàn năm chưa chịu lớn. Vì sao? Vì bên trong đất nước ấy, có những người đang bị lao tù vì quê hương, vì đồng bào: “Trong bóng tối trại giam, nơi cầm tù những người có tội / Nhưng trớ trêu tình đời – có những người đi tù vì quê hương. ? Bao người vì yêu nước vẫn dấn thân dẫu ngục tù đọa đầy, / dẫu chông gai để còn có ngày mai, / vẫn hiên ngang bước đường dài miệt mài./ Đi lao tù vì đồng bào, vì quê hương…” (Con đường Việt Nam)
Con đường Việt Nam là tác phẩm do một tù nhân lương tâm trong nước sáng tác và chính nhạc sĩ Trúc Hồ hoà âm, dành tặng riêng cho người tù lương tâm Trần Huỳnh Duy Thức. Và người thể hiện ca khúc này, ca sĩ Thế Sơn đã thật sự chạm vào tận sâu trái tim của người Việt. Rất nhiều những sáng tác của nhạc sĩ Trúc Hồ đã vượt đại dương để về có mặt bên cạnh người trong nước, những người đấu tranh cho một Con đường Việt Nam. Những ca khúc ấy như ngọn lửa truyền cho mọi người sức mạnh, cho mọi người biết rằng “Đã đến lúc”.
“Không phải người dân trong nước mà tất cả người Việt Nam trên toàn thế giới đều nhìn về Việt Nam với một nỗi buồn đau lo lắng không biết Việt Nam mình sẽ thế nào. Khi ngồi máy bay đi công tác sang Úc, có một bức hình chụp biểu tình ở Sài Gòn, nhiều người giương cao biểu ngữ, rồi nghe được bài giảng của Đức giáo hoàng trong đó có câu ‘bước vào nấm mồ của dối trá, của hận thù, bất công’. Từ đó, anh có cảm xúc và viết xong ca khúc ‘Đã đến lúc’ vào ngày 5 tháng 5 vừa qua.” (Trích: Phóng sự đặc biệt của SBTN)
“Đã đến lúc đứng lên công bằng / Người VIệt Nam suốt đời cùng nhịp chân tiến lên / Vì quê hương vì Tổ quốc Việt Nam.”
(ii) Gs Ngô Đức Thọ: Đọc "Cái đêm hôm ấy... đêm gì?" của Phùng Gia Lộc
Bài “Cái đêm hôm ấy đêm gì” của Phùng Gia Lộc ( viết cuối năm 1987) đoạn gần cuối có cho biết, đó là “Việc thật ở nhà tôi đêm 26 tháng 11 năm 1983”. Cái việc hung ác quá thể đó là việc tốp cán bộ công an dân quan xã đến nhà Phùng Gia Lộc ép nộp thuế khoán, chợt thấy cái quan tài (chuẩn bị sẵn để lo hậu sự cho bà mẹ già phù thũng nặng vì đói sắp chết). Bọn đi khám mở nắp ra thấy có gạo trong đó, cưỡng chế bắt gánh ra xã nộp…Còn nhiều chuyện khác: ngay anh cán bộ tuyên huấn huyện uỷ có chiếc xe đạp của cơ quan phân cho để đi công tác..., lúc đầu mình nhớ như in, nhưng hơn 30 năm rồi, nay thấy báo chí lại đăng ở Nông Cống, Hậu Lộc Thanh Hoá vào nhà đòi tịch thu chiếc giường mới đóng của đôi vợ chồng nhà nọ để trừ các khoản thuế phí.
Lặp đi lặp lại những chuyện còn thương tâm đau lòng hơn cả chuyện Chị Dậu! Cả tuần nay day dứt vì chuyện đó. Bỗng muốn nhớ tên của tay Bí thư Tỉnh uỷ Thanh Hoá hồi đó. Trước thì nhớ như in, sau nhiều việc mà cũng ngót 30 năm rồi nên quên bẵng. Từ tối hôm qua rặn óc nghĩ mãi không ra. Tự nhiên, vừa ăn trưa xong, đang ngồi pha nước uống, bật kênh VTV6 xem có tin Rio 2016 gì không, bỗng dưng bật nhớ ra quái danh của tên bất nhân ấy! Đó là tay Hà Trọng Hoà! Vào “GucgơnTiên lang.com” là tìm được ngay. Có mấy bài báo gần đây còn nhắc lại báo chí lúc ấy đấu tranh thế nào có nhắc tới Hà Trọng Hoà. Bài của Phùng Gia Lộc đăng Văn Nghệ năm 1987, đúng khi ấy Bí Thư Thanh Hoá là Hà Trọng Hoà. Tay này đến 1988 mới bị BCT quyết định truất chức! (xem tin PL TPHCM).
Dưới thời của nó, Phùng Gia Lộc đăng “Cái đêm hôm ấy đêm gi” xong bạn bè người quen xui qua xui lại thế nào sợ quá, vội khoác túi ra ga Thanh hoá nhảy tàu về Hà Nội. Đến nơi không biết về đâu, nghe nói Phùng Gia Lộc tìm đến nhà Nguyên Ngọc. Nhưng nhà Nguyên Ngọc chỉ có chiếc giường đôi, phải bố trí Phùng Gia Lộc đến trụ sở Hội LHVHNT, nhờ anh thường trực cho vào ngủ ở trong cái phòng con ngay đằng sau ghế Thường trực của anh ấy!
Trốn không êm, với thế lực của tay Hà Trọng Hòa thì chỉ một hai cú fôn là có công an Thanh Hoá ra xích tay điệu về Thanh ngay. Cái chỗ trốn này của PhungGiaLoc thì tôi rất biết, vì hồi ấy tôi chơi thân với mấy bạn ở NXB Văn Học bên cạnh (số 49), cũng thường sang bên Hội chơi, nhiều lần ngồi chờ người v.v… nên biết rõ. Cái tay Hà Trọng Hòa ấy mà tóm được Phùng Gia Lộc thì phải biết tay! Phải gắn tên hắn với tên của Phùng Gia Lộc để khỏi quên! Và thậm chí cũng cần ghép vơi tay gì Bí thư Thanh Hoá hiện nay! Nghĩ rằng mọi người cũng khó không nghiến răng với tội ác của bọn chúng (cả với bọn Võ Kim Cự hiện nay cũng thế!)
*** Kông Kông: Sợ "cách mạng Biển Chết" bùng nổ, Hà Nội tìm mọi cách hạ nhiệt
Hai mươi tám năm trước, một người phải chạy trốn làng quê, từ Thanh Hóa ra Hà Nội, được nhà văn Nguyên Ngọc, lúc đó đang là Tổng Biên tập báo Văn Nghệ, cho tá túc ngay tại tòa soạn, Phùng Gia Lộc: viết lại "Cái đêm hôm ấy… đêm gì?" một sự kiện xảy ra 5 năm trước đó, 1983. Nội dung bút ký (không phải truyện) kể việc chính quyền địa phương kéo nhau đến nhà một nông dân nghèo, lúc nửa đêm, để truy thuế, vì gia chủ không có tiền đóng. Chính vì nghèo mạt rệp nên con cái phải lo liệu trước việc tang ma, cũng là để báo hiếu với đấng sinh thành. Vì thế họ giấu 70 cân thóc trong cổ quan tài đóng sẵn của cụ, với dự trù khi cụ qua đời thì có chút của cúng kiến tiễn đưa và cũng để đền ơn lối xóm giúp tổ chức tang ma theo truyền thống. Số lúa giấu đó bị phát hiện và chính quyền địa phương thẳng tay tịch thu! Toàn bộ hình ảnh ghê tởm thời bao cấp đó khó có thể gói gọn trong một tựa đề ngắn, nên tác giả hỏi người đọc “Cái đêm hôm ấy… đêm gì?”
Sau 41 năm đảng cộng sản thống trị toàn cõi Việt Nam, việc truy thuế ở làng quê Thanh Hóa, chẳng những không khá, mà rõ ràng còn tệ hại hơn Cái Đêm Hôm Ấy ... Đêm Gì! Vì ngày trước chế độ có thể viện dẫn lý do (cứu đói miền Nam, chống "Mỹ Ngụy ác ôn") nhưng hiện tại thì quan chức đang sống phè phởn, sa đọa, xa hoa lộng lẫy nhờ tiền thuế của dân, tiền tham nhũng. Họ giàu đến độ không thể giấu của cải ở đâu cho hết. Còn con cái thì cho đi học ở các nước tư bản, vừa để tẩu tán tài sản, vừa tìm mọi cách xin được định cư.
Loạt bài điều tra về tình trạng cưỡng bức dân nghèo để thu thuế ở Thanh Hóa đang được trang Soha tiếp tục đưa tin. Bài ngày 14/8/2016, là: Tịch thu giường ngủ ở Thanh Hóa, cựu ĐBQH: “Đó là trấn lột”. Bài ngày trước, 13/8, Mùa đóng góp hãi hùng ở Thanh Hóa: Xông vào nhà tịch thu cả giường ngủ ép dân nghèo nộp tiền. Trong đó có câu được tô đậm “chuyện chỉ thấy ở thời… phong kiến”! Đây là sự chỉ trích có tính cách lên án nhưng thực ra là lên án một cách nhẹ nhàng! Lên án với mục đích xoa dịu sự căm phẫn đang âm ĩ trong xã hội chứ không phải đòi hỏi phải thay đổi thể chế!
Vì xã hội phong kiến có từ cả hàng trăm năm trước và trật tự xã hội, tự nó, đã diễn tiến theo văn minh nhân loại chứ không đứng nguyên một chỗ! Điển hình như phong kiến Anh Quốc, phong kiến Nhật, phong kiến Thái Lan… Nhưng với chế độ CSVN thì khởi đầu là chống phong kiến, thực dân để trở thành một guồng máy còn ác ôn hơn cả thực dân, phong kiến. Họ đi ngược chiều với tiến trình văn minh nhân loại. Phong kiến đâu có giết người vô tội, hàng loạt và rùng rợn như Cải cách Ruộng đất? Phong kiến đâu có “đất đai là sở hữu của toàn dân do nhà nước quản lý”? Nhà nước ở đây là đảng! Phong kiến chỉ bóc lột giữa địa chủ với nông dân cấp làng xã, còn đảng thì bóc lột cả nước với văn bản gọi là Hiến Pháp! Từ đó tài nguyên đất nước là của đảng. Đảng mặc tình ban phát cho phe nhóm, mặc tình toa rập với Tư bản để bóc lột. Nông dân thời phong kiến còn có của ăn của để, một trật tự hài hòa sau lũy tre làng! Nhưng nông dân bây giờ thì mất đất mất nhà lê lết khiếu kiện khắp cả nước. Thời phong kiến đâu có chuyện tuyển chọn công nhân xuất khẩu, thực tế là để làm lao nô xứ người? Phụ nữ thời đó dẫu có khắt khe với “Tam tòng, Tứ đức” nhưng không bao giờ rơi vào cảnh phải bán thân xác mình qua môi giới hôn nhân người nước ngoài, để vừa tự cứu bản thân, vừa hy vọng sẽ giúp đỡ được gia đình?…
Vì thế, lên án việc truy bức đóng thuế đang xảy ra ở Thanh Hóa, phải gọi chính xác là “cường hào ác bá như thời Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam”. Cũng phải nói thêm, Thanh Hóa là quê hương cựu Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu (người nổi bật với tư dinh có trống đồng – ngà voi – vườn rau sạch) cũng là người được cho là bị mỹ nhân kế khi sang Bắc Kinh (!) để rước về “4 tốt, 16 chữ vàng” mà chế độ hiện vẫn đang chấp hành nghiêm chỉnh!
Câu hỏi là tại sao đảng cho phép báo nhà nước viết về việc truy bức thuế tại Thanh Hóa? Vì qua đó bộ mặt của đảng cũng bị lem luốc?
Xin thưa, đây là bước đường cùng! Đảng phải chấp nhận một số sự thật có thể, là cách ‘tự đánh’, là “tự kiểm” giống như Chủ tịch Hà Tĩnh gợi ý nhân viên tự nhận hình thức kỷ luật. Dùng “tự kiểm” để mong được cảm thông, coi như đảng đang sửa sai! Thực tế là đánh trống lãng, mua thời gian để dư luận lãng quên dần thảm họa Vũng Áng – Formosa! Với hy vọng việc ru ngủ công luận có kết quả hơn, đảng đang quảng cáo thêm “đả cẩu, diệt trùng” theo cách Tập Cận Bình! Vì thế truyền thông cho biết nhà nước đang trực tiếp điều tra một số vụ, thí dụ như Núi Pháo, liên quan đến bà Nguyễn Thanh Phượng, con gái cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, cha con cựu Bộ trưởng Công Thương Vũ Huy Hoàng, Trịnh Xuân Thanh đầy tai tiếng nhưng vẫn được cất nhắc,… trong lúc đó thì sự kiện quan trọng nhất, là thảm họa môi trường do Formosa gây ra tại Vũng Áng, lại lấp lửng kiểu “nếu Formosa tiếp tục sai phạm sẽ bị đóng cửa”!
Tin mới nhất cho biết Cục thuế đang có đề nghị giảm thuế đặc biệt cho Formosa, số tiền tương đương với 500 triệu USD mà Formosa hứa “bồi thường” khi “cúi đầu xin lỗi”! Như vậy thì tiền Formosa bồi thường chính là tiền thuế của dân! Formosa gây thảm họa, dân còng lưng chịu đựng tất cả. Còn nhà nước? Chỉ ảo thuật số tiền!
Báo Công An Nhân Dân, ngày 12/8/2016, đăng bài phỏng vấn có tựa đề “Không phải là vua thì muốn gì cũng được”. Người phỏng vấn giành cả việc khen ngợi không tiếc lời người được phỏng vấn, ông Tiến sĩ Phạm Duy Nghĩa, mà lẽ ra phải dành cho người đọc, nếu đúng! Ông Tiến sĩ đã nói gì? Ông nói vai trò Quốc Hội là phản biện với chính phủ, cứ như Quốc Hội đang có là Quốc Hội của các nước Dân chủ Tự do! Ông lú lẫn nên quên mất Quốc Hội Việt Nam là “đảng cử dân bầu”! Thử hỏi 90% đảng viên Đại biểu liệu có dám “phản biện” với đề xuất của đảng? Việc khác, ông nói “dân trí còn thấp” nên chưa thể tổ chức Trưng cầu Dân ý cả nước, vì tổ chức như thế “sẽ bị thao túng”! “Dân trí thấp” mà chương trình giáo dục từ hơn nửa thế kỷ qua vẫn chủ trương nhồi sọ thì đợi đến bao giờ mới cao? Nhận xét nầy không lạ với quân cán chính miền Nam bị tù cải tạo. Lúc đó họ hứa: Bao giờ cải tạo tốt thì cho về nhưng không hề xác định như thế nào là tốt! Vì thế có thể so sánh giữa Dân trí và Quan trí! Khi biến cố cá chết vừa xảy ra Dân trí biết ngay là do Formosa xả thải, còn Quan trí cho là do thủy triều đỏ. Dân trí biểu tình phản đối, đòi đóng cửa Formosa thì Quan trí cho đàn áp thẳng tay. Dân trí minh bạch quan điểm, còn Quan trí cứ loay hoay như gà mắc tóc! Dân trí được thế giới ủng hộ, ngay cả Dân biểu Đài Loan, bà Su Chih-feng, chẳng những đã tổ chức họp báo lên án Formosa ngay tại Đài Loan và còn thân hành qua Việt Nam điều tra, còn Quan trí thì giữ bà lại tại phi trường Nội Bài 9 tiếng vì “thăm viếng sai mục đích”!
Thực tế có Đại biểu Quốc Hội nào dám lên tiếng về Formosa trong suốt 3 tháng trước khi nhà nước tổ chức họp báo (?) chứ chưa nói đến việc thăm viếng hay điều tra tại chỗ, trong lúc đó thì người nước ngoài, nhờ sự giúp đỡ của Dân trí, giả dạng thường dân đến được Vũng Áng quay videos, làm phóng sự phổ biến khắp thế giới! Quốc Hội như thế mà không biết nhục thì nói gì đến “phản biện”?
Vì thế truyền thông nhà nước dù có đang ồn ào hơn nữa về chuyện bất công trong xã hội, chuyện đánh tham nhũng hoặc nhận lỗi hay sửa sai gì đó… thì cũng chỉ là một vở kịch! Một vở hài kịch mua thời gian với mục đích để chế độ tìm ra được cách đối phó với cuộc Cách Mạng Biển Chết đang cận kề!
*** Cánh Cò: "Cái đêm hôm ấy... đêm gì?" vận vào ngày nay.
Câu chuyện 28 năm về trước từng ám ảnh cả nước nay quay trở lại với chính cái nơi mà nó từng xảy ra. Trở lại với nội dung không sai một mảy may chỉ khác là nhân vật trẻ hơn, nghèo hơn và nhất là chung quanh nó không ai còn căm phẫn như ngày xưa, thậm chí người ta xem nó bình thường, không có gì phải ầm ĩ.
Ngày 23 tháng 1 năm 1988 báo Văn Nghệ lúc ấy do nhà văn Nguyên Ngọc coi sóc, đã đăng một bút ký của nhà văn Phùng Gia Lộc mang tên “Cái đêm hôm ấy... đêm gì?” kể lại câu chuyện của một gia đình mà tác giả chứng kiến. Lúc ấy chính quyền địa phương tỉnh Thanh Hóa có chính sách tận thu thuế của dân, bất kể nghèo cách mấy cũng phải đóng đủ số thuế mà địa phương đưa ra. Câu chuyện xoay quanh một gia đình nghèo, vì nghèo quá mà lại có một bà mẹ già gần tới ngày về với tổ tiên nên người nhà đã đóng cổ quan tài cho cụ. Trong chiếc quan tài ấy người nhà của cụ cất 70 kí thóc để sau này khi có tang ma thì mang ra sử dụng, vậy mà do không tiền đóng thuế số thóc ấy đã bị chính quyền thẳng tay lật chiếc quan tài và tịch thu bằng hết.
Câu chuyện chấn động cả nước nhưng người viết nó phải trốn chui trốn nhủi do sợ bị công an Thanh Hóa theo tới Hà Nội để bắt. Phùng Gia Lộc may có Nguyên Ngọc cất giấu mới thoát vòng truy bức của sai nha. Lạ thay bất kể dư luận kêu gào, không ai bị đem ra truy vấn vì đã làm một việc phản cách mạng như thế. Phùng Gia Lộc sau khi nổi tiếng vẫn là một nhà văn nghèo rớt mồng tơi, tiếp tục đạp xe lang thang như chưa bao giờ từng kể lại một bi kịch nơi anh ở hay đến thế. Mọi cử động được gọi là đổi mới không ra khỏi chiếc giường ngủ ọp ẹp của thời cách mạng tháng Tám, và người cổ vũ nhiệt liệt cho cái vở kịch “đổi mới” ấy lại là người đóng sầm cánh cửa hy vọng vào một cuộc thanh trừng cái ác, cái phản cách mạng đến tận đáy điển hình nhất tại Thanh Hóa: Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh.
28 năm sau, cũng chính tại cái nơi mà chiếc quan tài bị lật úp lấy thóc lại xảy ra một việc tương tự. Lần này chuyện xảy ra ban ngày, thay vì chiếc quan tài có thóc bên trong thì vật bị “cưỡng chế” là "chiếc giường ngủ" của hai vợ chồng một nông dân, chiếc giường là tài sản duy nhất của họ. Nhìn sai nha ào ào nhào vào tháo ra vác đi họ chỉ còn cay đắng ngồi khóc.
Theo gót Phùng Gia Lộc, hai tác giả Đào Tuy và Tuấn Nam đã tường thuật lại câu chuyện của gia đình chị Toàn một người dân ở làng Thành Liên, xã Trường Sơn, Nông Cống, Thanh Hóa. Theo chị Toàn kể lại do hết hạn đóng thuế mà hai vợ chồng chị không cách nào kiếm ra tiền, cán bộ xã làng đã kéo nhau đến tận nhà để “vận động” chị phải tìm cách nào đó hầu có tiền mà đưa cho họ. Kể với phóng viên chị cho biết: “Họ đến đông lắm, cả trưởng làng, phó làng cùng các cán bộ ở làng. Có cả các anh công an xã nữa”, “Hai vợ chồng tôi đã khóc lóc van xin mong họ thư thư cho ít bữa nhưng không được”, chị Toàn cũng cho biết “Không tìm được cái gì đáng giá, mấy người ấy chực quay ra thì ông trưởng thôn lại lao vào. Ông ấy tháo chiếc giường mà vợ chồng cùng hai con của tôi đang nằm”
Chiếc giường ấy, theo lời chị Toàn cho phóng viên biết là tài sản duy nhất mà vợ chồng chị sắm khi nên duyên chồng vợ. “Thấy trưởng làng vào tháo giường, mấy anh đội mạnh (công an viên- PV) cũng lao vào. Tất cả xúm vào tháo tung chiếc giường nhà tôi ra rồi bó lại khiêng ra nhà văn hóa của làng. Khi ấy tôi chỉ biết khóc nhưng van xin thế nào họ cũng chẳng động lòng”.
Nguyễn Du, Ngô Tất Tố, kể cả Phùng Gia Lộc nếu nghe câu chuyện này ở thế kỷ 21 chắc đành phải bẻ bút, bởi trong thời đại rực rỡ như ông Nguyễn Phú Trọng hả hê xác nhận lại xảy ra câu chuyện như thời sơ khai hơn cả phong kiến thực dân cộng lại thì hẳn là đáng ngạc nhiên lắm chứ? Ngạc nhiên không phải vì tính “tháo vác” của cả một hệ thống chính quyền, ngay chiếc giường là vật hèn mọn nhất của một gia đình chúng cũng không từ nan. Ngạc nhiên bởi phản ứng của xã hội khi biết chuyện xảy ra ngay trong thời đại mình sống lại có phản ứng như câu chuyện của nước láng giềng Campuchia chứ không phải đang xảy ra tại Thanh Hóa, nơi từng cướp thóc dành cho người chết.
"Quan tài" hay "giường ngủ", không vật gì chúng từ nan bởi dưới mắt của chúng, từ Bí thư Tỉnh ủy cho tới một tên xã trưởng con con lúc nào cũng muốn thị oai cho dân thấy thế nào là bạo lực cách mạng. Bạo lực cách mạng trong trường hợp này được cả nước ngắm nghía, sờ mó, bỉu môi hay thậm chí chửi bới nhưng tiếc thay không một trí thức nào làm cho ra ngô ra khoai. Họ vẫn lang thang đâu đó trong khu vườn oang oang chữ nghĩa. Vài đại biểu Quốc hội đã về vườn vừa lên tiếng vừa run bởi không biết “bọn nó” mạnh tới đâu, không khéo chúng lại kéo tới tận nhà ném phân vào cửa.
Ngạc nhiên nhất là điều không đáng ngạc nhiên vẫn xảy ra: cả hệ thống im như gái ngồi phải cọc, bởi ra lệnh điều tra thì lại lòi ra cái nguyên nhân dẫn đến sự kiện: tận truy thu thuế. Mà tận thu thuế thì chỉ có trung ương mới có quyền ra lệnh cho thuộc hạ trong lúc ngặt nghèo này. Kéo nó ra đấm không khéo nó lại thò cái công văn này hay nghị quyết nọ ra thì có mà gục mặt vào đâu cho hết nhục?
*** Cô Tư Sài Gòn: Thiên Đường Phong Kiến
Thời phong kiến, vua còn miễn thuế cho dân, khi mùa màng thất bát... nhưng tại thiên đường xã hội chủ nghĩa, và ngay tại Thanh Hóa, nơi thời phong kiến là đất Châu Diễn của ngàn vạn tinh binh cứu nước, và sau này là Thanh Nghệ Tĩnh trở thành chỗ dựa cho Đảng CSVN... còn trấn lột dân bi thảm. Hóa ra, thời phong kiến vẫn còn là thiên đường.
Báo SOHA viết theo tin Trí Thức Trẻ, kể chuyện tỉnh Thanh Hóa: Ở làng Thành Liên nhà chị Toàn nghèo rớt mùng tơi. Túng bấn, không xoay nổi tiền đóng góp, gia đình chị Toàn đã bị cán bộ làng, xã tịch thu mất chiếc giường. Bản tin nói, ở làng Thành Liên (xã Trường Sơn, Nông Cống, Thanh Hóa), chính quyền xã cũng áp dụng chiêu thức chỉ thấy trong thời phong kiến này....
Bản tin SOHA/Trí Thức Trẻ viết, trích: “..."Cả đời này tôi cũng chẳng thể nào quên được cái buổi chiều kinh hoàng ấy"- tệ hơn là "Cái đêm hôm ấy... đêm gì?" -, chị Toàn chia sẻ. "Ấy là buổi chiều giữa tháng 10 năm 2010, làng, xã tiến hành thu đợt đóng góp thứ hai trong năm", chị Toàn nhớ lại. Nét mặt thất thần, chị Toàn kể lại chuyện kinh hãi mà gia đình mình từng hứng chịu.
Vụ ấy, gia đình chị phải đóng tất cả các khoản là 800 nghìn đồng. Chừng ấy tiền với gia đình chị khi đó quá lớn. Thêm nữa, đứa con gái đầu cũng vừa vào năm học mới, dành dụm được bao nhiêu thì chị cũng đã dồn hết cho việc đèn sách của con. Nhà sạch bách tiền, chị Toàn tính bán nốt chỗ thóc còn lại để đóng cho làng nhưng chồng chị, anh Đậu Văn Tám không nghe. Anh bảo, bán hết thóc thì hai vợ chồng và các con không còn gì để bỏ vào mồm. "Bao nhiêu vụ mình đều hoàn thành rồi, vụ này chậm một tí chắc họ cũng cảm thông thôi", anh Tám đã nói với vợ mình như vậy. Nghe chồng nói vậy nhưng chị Toàn vẫn thấy chưa yên. Ở làng chị biết, cái gì người ta có thể sẻ chia chứ tiền đóng góp thì… hơi bị khó!
Chính bởi nỗi hoang mang ấy mà đã có lần nhân lúc chồng vắng nhà, chị Toàn đã chực xúc thóc đem bán để lấy tiền đóng góp. Tuy nhiên, thóc chưa kịp qua cửa thì anh Tám về. Hai vợ chồng giằng co, đánh nhau chí chóe. Theo chính lời của trưởng làng Thành Liên, ông Nguyễn Sỹ Thành, lần ấy, giận vợ, anh Tám đã hất cả thúng thóc xuống giếng. Không thể vay mượn được ở đâu, chồng lại không cho vét nốt chỗ thóc trong nhà đem bán, chị Toàn đành buông xuôi. "Tôi không biết làm sao cả, chỉ mong các bác ấy thương cho", chị Toàn nhớ lại. Và rồi, niềm hi vọng nhỏ nhoi của người đàn bà có khuôn mặt khắc khổ ấy đã vỡ tan như bong bóng xà phòng. Hết hạn đóng góp mà chưa thấy vợ chồng chị Toàn đem tiền ra nộp, cán bộ xã, làng đã kéo nhau tìm đến tận nhà. "Họ đến đông lắm, cả trưởng làng, phó làng cùng các cán bộ ở làng. Có cả các anh công an xã nữa", chị Toàn kể lại. Thấy đoàn cán bộ ai nấy mặt lạnh như băng bất ngờ xuất hiện ở nhà bình, chị Toàn run như cầy sấy. "Hai vợ chồng tôi đã khóc lóc van xin mong họ thư thư cho ít bữa nhưng không được", chị Toàn kể lại với ánh mắt thất thần như thể mọi việc vừa diễn ra mới ngày hôm qua. Ngày ấy, nhà chị Toàn chẳng có gì. Ngôi nhà cấp bốn xây đã lâu nhưng vẫn để gạch thô, chưa có tiền vào cát. "Đến đôi cánh cửa vợ chồng tôi cũng còn chả có tiền lắp nữa là", chị Toàn sụt sùi nói. Hết động viên rồi dọa nạt mà vẫn thấy đôi vợ chồng "cứng đầu" chẳng chịu… xùy tiền, đoàn công tác đã quyết định "xuống tay". Mấy người chạy bổ vào nhà xục xạo, tuy nhiên, chẳng có vật dụng gì đáng tịch thu.
"Không tìm được cái gì đáng giá, mấy người ấy chực quay ra thì ông trưởng thôn lại lao vào. Ông ấy tháo chiếc giường mà vợ chồng cùng hai con của tôi đang nằm", chị Toàn nói giọng như chực khóc. Chiếc giường ấy, theo lời chị Toàn là tài sản duy nhất mà vợ chồng chị sắm khi nên duyên chồng vợ. "Thấy trưởng làng vào tháo giường, mấy anh đội mạnh (công an viên- PV) cũng lao vào. Tất cả xúm vào tháo tung chiếc giường nhà tôi ra rồi bó lại khiêng ra nhà văn hóa của làng. Khi ấy tôi chỉ biết khóc nhưng van xin thế nào họ cũng chẳng động lòng", chị Toàn nhớ lại.
Cuối năm, trời trở lạnh. Không còn giường nằm, đêm ấy, vợ chồng con cái chị Toàn ôm nhau co quắp nằm dưới đất...”(ngưng trích)
Báo SOHA có loạt bài nhiều kỳ về những độc chiêu xã hội chủ nghĩa như thế... Tội cán bộ hung ác như thế, vậy mà, trời dung, đất tha... mới lạ.
(iii) Viktor Maslov: Lê Vũ Anh, con gái ông Lê Duẩn bị đầu độc?
(Hồi ký của Viện sỹ Viện Hàn lâm Khoa học Nga, Viktor Maslov, con rể cố TBT Lê Duẩn)
Chú thích: Bản dịch tiếng Việt Hồi ký của Victor Maslov có thể đối với dân VN thì cái tên này không nói lên điều gì cả. Nhưng đối với dân Khoa học Nga thì trong lĩnh vực Toán học Maslov tương đương với Picasso trong Hội họa hay Mayakoskyi trong Thơ ca. Và Maslov còn “nổi tiếng” bởi vì ông là con rể của … Lê Duẩn, cố Tổng bí thư Đảng CSVN một thời.
Mối tình ngiệt ngã và bi thảm (vì rất nhiều trở ngại: quyền lợi chính trị của hai quốc gia, cục an ninh, chủ nghĩa, cơn thịnh nộ của người cha độc đoán...) giữa Maslov và Lê Vũ Anh, con gái của Lê Duẩn, có thể được ví là Romeo và Juliet thời hiện đại nhưng ít người ở VN cũng như ở Nga biết đến một cách tường tận. Kênh 1 Truyền hình Trung ương Nga đã làm bộ phim tài liệu về đề tài này từ năm 2006 với tựa đề “Запретная любовь” (Mối tình bị cấm đoán), và Hồi ký của Maslov nguyên bản bằng tiếng Nga cũng đã xuất bản, nhưng không hiểu sao tận mãi đến bây giờ ở VN hồi ký này mới được phát tán rộng rãi.
Câu chuyện bắt đầu vào đầu thập niên 70 của thế kỷ trước, giảng viên học viện MIEM Victor Maslov đã bước sang tuổi ngũ tuần (lớn hơn Lê Vũ Anh 20 tuổi) vẫn thường xuyên đến khoa Vật lý của trường MGU tham gia giảng dạy. Tại đây tình cờ ông chú ý đến một nữ sinh viên nước ngoài. Cô bẽn lẽn cười, núp sau cánh cửa phòng thí nghiệm. Maslov, cho đến tận lúc đó vẫn là người đàn ông độc thân và rồi số phận đã đưa họ đến với nhau.
Tên thật của cô là Lê Vũ Anh. Ở tuổi mười bảy, cô đã kịp chiến đấu trong đội du kích, gia nhập Đảng cộng sản Việt Nam và bây giờ đến Matxcơva học tập (Maslov kể: Nàng giới thiệu rất ít về tiểu sử của mình: "Nàng đến từ miền Nam Việt Nam - thuộc danh sách lưu học sinh bí mật không thuộc sự quản lý của đại sứ quán Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lúc này Việt Nam chưa thống nhất thành một quốc gia riêng. Nàng đã sống trong vùng nông thôn có các hoạt động du kích. 17 tuổi nàng gia nhập Đảng Cộng sản. Tôi sau này có nói đùa “Vợ của tôi là đảng viên cộng sản từ năm 17 tuổi đấy”. Nói thật, điều này làm tôi rất ngạc nhiên. Theo tôi biết, ở Việt Nam vào Đảng ở độ tuổi quá trẻ như vậy rất hiếm, chỉ dành cho những thanh niên có những cống hiến đặc biệt mà thôi. Nhưng không chừng, nàng đã giúp đỡ du kích và lập được chiến công hiển hách nào đó. Khi tôi hỏi về vấn đề này, nàng im lặng. Cũng tương tự như vậy khi tôi hỏi về các thành viên gia đình của nàng. Chỉ có một lần khi đã sống cùng nhau, nàng cởi mở một chút khi thổ lộ với tôi: “Ông nội em làm thợ mộc”). Câu chuyện tình của họ được bắt đầu từ đây và họ phải đương đầu với bao sóng gió… KGB (Mật vụ Nga) biết được về mối tình của nhà bác học Xô Viết với con gái Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam, họ thông báo cho đồng chí Lê Duẩn, nhưng ông đã không tin chuyện này, cho rằng con gái mình chỉ đơn giản kết bạn với một giảng viên trường MGU. Nhưng rồi họ vẫn kết hôn với nhau, bất chấp không có sự đồng ý của Lê Duẩn.
Sau khi ly dị với một du học sinh Vietnam tên Văn cũng ở Nga, 2 người lấy nhau, sinh hạ được 3 con (con gái đầu LêNa, thứ 2 tên Tanhia). Lần thứ ba Lê Vũ Anh mang thai. Khi bắt đầu chuyển dạ, cô được đưa đến nhà hộ sinh khu vực Bốn. Sáng hôm sau, một cháu trai kháu khỉnh chào đời, nhưng cũng là lúc người mẹ bị băng huyết (?). Maslov đứng ngồi không yên. Bác sĩ rũ rượi bước ra từ phòng mổ: “Chúng tôi đã làm tất cả những gì có thể ...". Maslov nghi ngờ cái chết (mờ ám) của Lê Vũ Anh có dính líu đến Lê Duẩn.
Rồi Maslov đề nghị nhà hộ sinh cấp giấy chứng nhận, đăng ký giấy khai sinh. Đứa bé được giữ tại bệnh viện hai tháng dưới sự chăm nom của các bác sĩ. Cuối cùng thì người ta vẫn đưa cháu về Việt Nam. Họ hứa với Victor rằng sau hai năm sẽ trả lại con cho ông. Thực tế thời gian chờ đợi gấp đôi so với gì đã hứa (4 năm sau cháu được trả về Liên Xô). Nhưng những nỗi đau vẫn chưa dừng lại ở đây. Từ Viet Nam về, cậu bé Anton được đưa vào một nhà trẻ đặc biệt. Maslov đã viết đơn gửi đến tất cả các cấp đề nghị không được đưa cháu ra khỏi biên giới, doạ sẽ trở thành “Sakharov thứ hai” (Nhà Bác học Nga (1921-1989), người chế tạo ra bom nhiệt hạch, những năm 60-70 là thủ lĩnh đấu tranh cho Dân chủ & Nhân quyền), yêu cầu Liên hợp quốc giúp đỡ, thậm chí gõ cửa cả Tổng bí thư Đảng cộng sản Liên Xô Gorbachev. Cuối cùng, Maslov quyết định đánh cắp đứa bé, ôm vội hai cô con gái chạy đến sống ở nhà người quen tại vùng rừng nguyên sơ Belovezhshkaya Pusha (vùng rừng núi nằm giữa biên giới hai nước cộng hoà Belarus và Ba Lan). Vài tháng sau ông nhận được thông báo về việc Tổng bí thư Lê Duẩn từ bỏ ý định mang các cháu về Việt Nam trở lại: “Anh ta thực sự yêu thương các cháu, vậy cứ để họ sống với nhau…”... Cách đây không lâu hai người con của viện sĩ Maslov, Lêna và Anton, đã về thăm Việt Nam. Các con của Maslov được tiếp đón rất nồng ấm: Bà ngoại các cháu vẫn còn sống. Tổng bí thư Lê Duẩn mất năm 1986. Bản thân Victor Maslov chưa một lần được nhìn thấy bố vợ của mình.
Mời quý Thân hữu đọc vài đoạn trong tập Hồi ký của Viện sĩ Maslov:
I. Có lẽ mọi chuyện đã không trở nên quá phức tạp, nếu như tôi biết được ngay từ đầu Lê Vũ Anh là con gái của ai. Khi sự thật được làm sáng tỏ thì đã muộn quá rồi. Tôi đã yêu, yêu đến phát điên đến nỗi không còn biết mình là ai nữa và không thể từ chối được mối tình đó nữa rồi.
Chúng tôi gặp nhau ở khoa Vật lý của Trường Đại học Tổng hợp Quốc gia Moskva mang tên Lomonosov (MGU), nơi Lê Vũ Anh đang theo học. Tại thời điểm làm quen với nhau tôi đã là giáo sư tiến sỹ toán-lý và là tác giả của một lý thuyết, mà ở nước ngoài người ta gọi là lý thuyết chỉ số nhóm Maslov (Maslov-type index theory). Lý thuyết này được sử dụng rộng rãi trong toán học trừu tượng, cũng như trong cơ học lượng tử, hóa học lượng tử và quang học. Chỗ làm việc chính của tôi là ở Trường đại học chế tạo máy điện tử Moskva (МИЭМ), nhưng khoa Vật lý của MGU lại từng là ngôi nhà thân yêu, nơi tôi đã từng học tập và giảng dạy ở đó.
Bao nhiêu năm đã trôi qua, cả một cuộc đời. Rất nhiểu sự kiện và ấn tượng đã mờ dần trong trí nhớ, nhưng hình ảnh cố công chúa xinh đẹp, chói sáng vào một ngày đang đứng nơi cuối hành lang cho đến tận bây giờ vẫn luôn hiện về trước mắt tôi. Cô gái không quen biết đang di chuyển bằng các động tác với vẻ duyên dáng và kiều diễm không thể tả, tôi bước theo nàng như một kẻ si mê. Đến gần cửa phòng thí nghiệm nàng dừng lại và quay mặt lại. Nàng thoáng nhìn tôi một giây từ đôi mắt đen huyền, mỉm cười và ẩn mình vào trong phòng thí nghiệm. Cô gái ngoại quốc, tôi chợt nhận ra và nghĩ rằng, nàng đến từ Ấn Độ.
Thành thật mà nói, tôi thường thích phụ nữ phương Đông. Một trong những nhà vật lý học bạn tôi nói đùa "Maslov của chúng ta là nhà đông phương học lớn”. Trong MGU có rất nhiều sinh viên từ các nước châu Á theo học, trong đó có sinh viên từ Việt Nam, đất nước bị tàn phá bởi chiến tranh. Tất cả họ đều luôn nhận được thiện cảm và sự cảm thông từ mọi người. Ở khoa Vật lý cũng có nhiều sinh viên Việt Nam, tôi nhanh chóng kết bạn với họ, đặc biệt là với hai cô gái Phúc và Tình. Phúc là con gái của nhà quân sự-chính trị nổi tiếng Võ Nguyên Giáp, lúc đó là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, còn Tình là con gái của Chủ tịch thành phố Hà Nội. Cả hai cô gái đều giấu giếm bố mình là ai, cũng như các sinh viên Việt Nam khác xuất thân từ giới quý tộc Việt Nam, họ đề phòng lộ diện để tránh các mưu đồ và hành động khiêu khích chính trị từ chính quyền Xô viết. Thực tế là như thế này, quan hệ giữa hai nước chúng ta, bất chấp việc đảm bảo tình hữu nghị mãi mãi bền vững, nhưng vẫn có thể xảy ra bất đồng, xuất phát từ phía này hoặc phía kia. Liên Xô vốn quan tâm đến việc mở rộng ảnh hưởng của mình ở châu Á, trong hoàn cảnh đang gia tăng bất đồng với Trung Quốc, buộc phải hào phóng viện trợ giúp đỡ “người em” Việt Nam. Việt Nam hài lòng làm bạn với người anh lớn nhưng không sẵn sàng hy sinh những lợi ích chính đáng của mình mà trở thành nước lệ thuộc. Các nhà lãnh đạo tận dụng cơ hội để con cái của họ có được sự giáo dục có chất lượng ở Liên Xô nhưng họ sợ con cái họ có thể bị bắt cóc để tống tiền hoặc tạo áp lực chính trị lên bố, mẹ chúng nên yêu cầu giữ bí mật. Có lẽ, đây là những nguyên nhân chính, nhưng theo cảm nhận của tôi thì các nhà lãnh đạo Việt Nam đã quá lo xa một cách vô ích. Thật ra thì KGB, với khả năng của mình, họ thừa biết được hết con cái của những lãnh đạo nào.
Tôi thích Phúc, tôi giúp đỡ cô ấy học tốt môn Toán, tôi không chỉ một lần mời cô ấy đến nhà chơi, lúc thì một mình, lúc thì với các bạn, nhưng giữa chúng tôi không có chuyện gì cả, dù chỉ là một chút lãng mạn. Cô gái Việt Nam dễ thương tránh tôi chỗ đông người như tránh lửa vậy. Có một lần tôi dẫn Phúc đến gặp và làm quen với nhân viên đánh máy để giúp cô nhân bản báo cáo khoa học, sau đó cả hai cùng nhau ra về. Đi cùng tôi trên đường phố Moskva nhộn nhịp, cô thể hiện mình như một nữ du kích trong hậu phương của địch: tỏ vẻ sợ sệt và suốt thời gian luôn cảnh giác quan sát tứ phía. Đặc biệt giao thông công cộng làm cô mất bình tĩnh. Chẳng hạn tại bến đỗ, xe buýt hoặc xe buýt điện vừa đến, cô đã nhanh chóng ẩn mình vào trong xe ngay.
- Chuyện gì xảy ra vậy- tôi hỏi –em sợ gì chứ?
- Anh nhìn xem, đằng kia hình như có người Việt Nam.
- Có gì đáng sợ ở đây?
- Nếu họ nhìn thấy em đi với người Nga, em sẽ gặp rắc rối lớn.
Tôi bèn bắt đầu đặt câu hỏi với Phúc. Thì ra là người Việt Nam bị cấm giao tiếp với người châu Âu, hay nói chung là với “ Tây mũi lõ” như trong dân gian vẫn gọi. Từ thời xa xưa, mối quan hệ với họ sẽ bị lên án và được xem là sự phản bội. Một cô gái đi trên phố cùng với một ông “Tây mũi lõ” sẽ bị kỳ thị hoặc thậm chí bị ném đá. Những người cộng sản, sau khi dành được chính quyền và thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thật không may, vẫn giữ lại truyền thống phong kiến đó. Vi phạm điều cấm giao tiếp với người nước ngoài có thể bị lên án, đấu tố trong các cuộc họp đảng, đoàn thể hoặc có thể bị đưa vào trại cải tạo. Ở nước ngoài, các công dân Việt Nam cũng phải tuân thủ các chuẩn mực đã được chấp nhận trong nước. Thậm chí múa bale cổ điển cũng bị xem là hình thức khiêu dâm. Sau này có một lần Vũ Anh nói với tôi, các nhà ngoại giao Việt Nam khi xem kịch múa bale trong nhà hát lớn ở Moskva đã phải nhắm mắt vì sợ bị “khiêu dâm” bởi các vũ công mặc đồ bó sát người như không mặc gì.
Các bạn Việt Nam đã giúp tôi gặp lại và làm quen với cô gái xinh đẹp nhất đã làm rung động trái tim tôi, nàng là đồng hương của họ. Lê Vũ Anh quan tâm đến Toán học và muốn được nghiên cứu sâu thêm về môn học này. Tất nhiên, tôi đồng ý giúp đỡ nàng. Nàng đã cuốn hút tôi ngay lập tức từ cái nhìn đầu tiên, nàng thực sự trẻ trung và hấp dẫn, không giống như những người phụ nữ Việt Nam điển hình khác: nàng đủ cao, da trắng, với đôi mắt luôn nhìn thẳng. Nàng giữ mình như một phụ nữ hoàng gia – đơn giản, nhưng với những phẩm giá không bình thường. Ở Việt Nam, tôi nghĩ nàng phải được xem như là một trong những người con gái đầu tiên đẹp nhất. Ở trường tôi, những người trẻ tuổi luôn để ý quan tâm đến nàng. Sau này tôi được biết, dòng máu đang chảy trong cơ thể nàng không chỉ có dòng máu Việt Nam, mà một phần trong đó có dòng máu Trung Hoa. Mẹ nàng, bà Bảy Vân mang trong người một phần tư dòng máu Trung Hoa. Ở Việt Nam, không ai biết về điều này, gia đình đã giấu kín “mối quan hệ huyết thống” với người Trung Hoa của mẹ nàng. Sự thật là nàng khi còn nhỏ đã sống nhiều năm ở Trung quốc. Bạn thân của nàng là con gái của Đặng Tiểu Bình, người đã từng là bạn của bố nàng và là người số 2 dưới bầu trời Trung Quốc sau Mao. Với người cầm lái vĩ đại, nàng cũng quá quen thuộc. Nàng đã cho tôi xem một bức ảnh nàng đang ngồi trên đùi của Mao Trạch Đông.
Thời tuổi trẻ của mình, mẹ nàng, bà Bảy Vân cũng khá đẹp. Lê Duẩn vì bà mà ly hôn với người vợ đầu tiên, người vợ mà bố, mẹ ông đã cưới hỏi cho ông khi còn nhỏ. Người vợ thứ hai của ông xuất thân từ một gia đình có học, nhưng, như tôi đã đề cập, ông không thể tự hào về một nguồn gốc “tinh khiết”. Vũ Anh là con gái đầu tiên của họ. Ngoài nàng ra, Lê Duẩn còn có hai con gái từ cuộc hôn nhân đầu tiên của mình và hai con trai cùng với bà Bảy Vân. Hai người con của ông, con trai tên Thành và con gái đầu tên Muội, tại thời điểm đó, sống và học tập ở Moskva. Muội lớn tuổi hơn nàng nhiều và chịu trách nhiệm chăm sóc em gái của mình. Chị tốt nghiệp trường đại học ở Liên Xô và là một nhà Sinh vật học. Chị đã sống một số năm tại Moskva cùng với chồng và con gái. Nhưng tất cả điều này mãi sau tôi mới được biết …
Vì nàng, tôi đã nhận tiến hành các buổi dạy thêm không bắt buộc về Toán học tại khoa Vật lý. Ban đầu nhiều sinh viên đến nghe tôi giảng. Được một thời gian, sinh viên bỏ học dần dần, cuối cùng chỉ còn mỗi một mình nàng. Nàng đã rất cố gằng, nàng có năng lực và chăm chỉ học tập. Cuối cùng chúng tôi không cưỡng lại được tình cảm của mình. Chúng tôi bắt đầu hò hẹn, lúc thì ở căn hộ riêng, lúc thì ở nhà nghỉ ngoại ô của tôi. Chúng tôi nghiên cứu, cùng nghe nhạc và nói chuyện với nhau về các chủ đề khác nhau. Nàng giữ cho mình được tự do hơn hẳn các bạn gái của mình và không còn sợ bất cứ điều gì nữa (hết trích)
IV. .... Một thời gian ngắn trước khi nàng sinh, Lê Duẩn đã đến Moskva. Ông đã không thể gặp được nàng ngay. Điều này làm cho ông tức tối lên cơn giận dữ. Con gái tôi đâu? Ông hỏi đại diện phía Liên Xô. Thông thường, các chuyên viên của Ban đối ngoại của Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô sẽ đón và đưa nàng đến gặp ông ngay trong ngày khi ông vừa bay đến Moskva. Nhưng lần này họ không thể tìm thấy nàng – không ở Kiev, nơi nàng chính thức được cử đi công tác, cũng như không tìm thấy bất cứ chỗ nào ở Moskva. Những người phụ trách an ninh giải thích rằng, có thể nàng đang ở nơi nào đó với Maslov. Sau một tuần, nàng và con gái đã được xuất viện, nàng ngay lập tức tự mình đến gặp Lê Duẩn, nàng sẽ kể hết toàn bộ câu chuyện. Tôi đã cố gắng để ngăn cản nàng, nhưng nàng không chịu nghe. Nàng gặp cha mình tại nhà khách chính phủ trên đồi Lenin. Lê Duẩn đã cố gắng thuyết phục con gái về Việt nam để làm thủ tục ly hôn với Văn, điều mà nàng đã từng yêu cầu trước đây. Nàng cho biết nàng đã chính thức ly hôn Văn và kết hôn với tôi. Lê Duẩn tím mặt với cơn giận dữ và bắt đầu la hét, mắng nàng thậm tệ, đổ lỗi nàng hư hỏng vì mang một phần dòng máu xấu Trung Hoa, mà nàng được thừa hưởng từ mẹ nàng. Nàng cảm thấy phẫn nộ kinh khủng, nàng không thể chấp nhận "chủ nghĩa dân tộc" của cha mình. Nhưng nàng không muốn tranh luận với Lê Duẩn nữa. Nàng xin phép cha quay về và bỏ đi thật nhanh.
V. Khi nàng đi ra ngoài để đến điểm dừng xe buýt, một chiếc xe “Volga” màu đen chầm chậm chạy theo nàng, rồi dừng lại cách nàng một khoảng không xa. Nàng bước thêm vài bước, người lái xe ngay lập tức nhấn ga. Cô vội chạy nhanh thì chiếc “Volga” cũng tăng tốc thêm. Không ai biết điều gì sẽ xảy ra nếu nàng không kịp chạy đến bến và lên kịp chiếc xe buýt chạy điện vừa dừng. Về đến nhà, nàng xuất hiện trước mặt tôi với nước mắt lưng tròng. Nàng kể lại với tôi nàng đã sợ hãi như thế nào khi bắt đầu thấy chiếc xe đuổi theo nàng: - Bây giờ em đã tin chắc rằng, họ muốn bắt và đưa em về Việt Nam!
- Sao em bảo rằng ba mình sẽ không làm điều đó. / - Như sự việc xảy ra hôm nay, em đã nhận ra rằng ba em đã sẵn sàng đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân. Điều này có nghĩa, em sẽ phải cam chịu số phận thôi.
Tôi an ủi, vỗ về động viên nàng, còn nàng vừa khóc, vừa liên tục lắp bắp nói: “Em đã chết! em đã chết!”.
Ngày hôm sau, nàng gọi điện thoại cho chị gái mình là Muội. Chị nàng nói rằng ba đã bị sốc và rất lo lắng vì chuyện của nàng đã xảy ra như vậy. Cả đêm ông đã không thể ngủ được và muốn làm lành, tha thứ cho nàng. Nàng kiên quyết trả lời chị: “Tốt hơn hết là ba, má và chị nên chúc mừng chúng em. Chúng em đã có một cô con gái mới sinh”. Chị gái nàng không tin thực tế đó, cho rằng nàng bịa ra chuyện để gây sức ép cho ba phải thừa nhận hôn nhân của nàng với tôi. Nàng và chị Muội đã thỏa thuận gặp nhau tại nhà nghỉ ngoại ô của chúng tôi và cả hai sẽ cùng đi đến gặp Lê Duẩn. Khi đến nhà tôi, trông thấy Lena, Muội đã bật khóc và đề nghị nàng nên ở nhà, chị sẽ đến gặp ba một mình. Chị sẽ kể tất cả mọi chuyện cho Lê Duẩn. Lê Duẩn một lần nữa lại bị sốc khi biết về sự ra đời cháu gái ngoại của ông. Trong một thời gian dài sau này, Lê Duẩn không thể chấp nhận sự thật, rằng con gái mình đã không vâng lời, vi phạm luật pháp và kết hôn với người nước ngoài. Ông thỉnh cầu Suslov, người gần gũi quen biết nhất của ông trong Đảng Cộng sản Liên Xô với một yêu cầu giúp tìm ra quan hệ thực chất của nàng với tôi – mối tình thoảng qua theo cảm xúc nhất thời hay tình yêu thực sự. Sau đó, KGB đã cử một “chuyên gia về tình yêu” tiếp cận chúng tôi. Ông đã bí mật đi lang thang xung quanh nhà, nơi chúng tôi sống, quan sát, nghe trộm, thu thập thông tin, và đã buộc phải thừa nhận: đó là tình yêu thực sự.
Mặc dù biết chúng tôi yêu nhau thật sự, nhưng Lê Duẩn vẫn không tha thứ cho con gái mình. Tôi đã nghe nói rằng, trong gia đình, Lê Duẩn đã cấm không cho ai được nói chuyện về nàng, thậm chí chỉ là nhắc đến tên nàng. Nhưng tất cả quà tặng thủa bé của nàng đều được ông sắp xếp, giữ gìn cẩn thận trên bàn làm việc của mình. Khi một trong số những món quà đó bị ai đó lấy mất, Lê Duẩn đã làm ầm ỹ cả nhà, tạo nên một scandal nho nhỏ. Điều này có nghĩa là trong sâu thẳm lòng mình, ông vẫn rất yêu quý nàng, thương nàng như xưa mà không hề chối bỏ nàng…(hết trích)
VI. Sau khi hòa giải với gia đình, Vũ Anh quyết định giới thiệu cháu gái lớn với cha. Khi Lê Duẩn đến Moskva lần sau đó, nàng đem theo Lena đến gặp ông. Ông ngay lập tức yêu mến cháu. Ông đề nghị để Vũ Anh và cháu ở lại cùng ông cho đến khi ông về nước. Lúc đầu cháu bé còn lạ, nhưng dần dần quyến luyến với ông ngoại. Ông chủ ý giấu tất cả chuối trong nhà để tự mình đãi Lena – mong chiếm được cảm tình của đứa cháu. Lê Duẩn luôn yêu cầu đưa Lena đến gặp ông mỗi lần đến Moskva. Còn gặp tôi thì dứt khoát không muốn. Còn nhớ tôi đưa Vũ Anh và con gái đến thăm mẹ vợ ở cái đatra cũ của Khrusov ở Rublebka và phải đợi trong xe, trong khi các cháu đang ở bên ông. Lê Duẩn đưa Lena và Vũ Anh đi xem xiếc rồi đưa họ đi theo dự lễ khai mạc Olympic Moskva. Con bé lên cơn đỏng đảnh đúng lúc long trọng nhất, kêu to: Mẹ ơi, con muốn đi đái! Lần khác trong lúc ăn trưa ngồi cạnh Lê Duẩn, đúng lúc đang nói chuyện về bắt đầu chiến tranh chống chế độ Khmer đỏ ở Campuchia, Lena bỗng nhiên hỏi: “Ông ơi, thế ông không bị gãy răng chứ?” Không biết có sự liên tưởng nào xuất hiện trong đầu con bé, để đúng lúc nói chuyện gay cấn nhất lại hỏi như vậy? Ở nhà chúng tôi cũng trao đổi về cuộc chiến tranh với chế độ Polpot – Ieng Sari. Có thể Lena nhớ lại câu mà tôi đã nói khi nào đó? Vũ Anh có suy nghĩ khá tốt về Ieng Sary, nhân vật thứ hai của chế độ ở Campuchia. Có thể trong cuộc nói chuyện ở buổi tiếp khách Việt Nam đó đã vang lên cái tên này, và gợi lại sự liên tưởng nơi con bé? Người phiên dịch hiểu câu hỏi theo nghĩa bóng, nín lặng, nhưng cố gắng truyền đạt tối đa ý nghĩa của câu hỏi. Lê Duẩn không hề bối rối. Ông cắn chặt hàm răng chắc khỏe của mình và nhe ra với Lena. Tình huống được giải tỏa. Vũ Anh cũng rất trực tính và tiết lộ các “bí mật” xô-viết cho cha một cách đơn giản. Hơn nữa, ông ấy cũng biết cách để hỏi. Một hôm người cha nói rằng theo lời Brejnev đất nước vừa thu hoạch một vụ bông kỷ lục. “Vậy mà vải trải giường nhà con thủng hết rồi”, Vũ Anh nhận xét. Ngay ngày hôm sau cán bộ phân ban Việt Nam trong Ban quốc tế của BCH TW ĐCSLX dẫn Vũ Anh đến gian hàng số 200 nổi tiếng của GUM, nơi chỉ bán cho các khách hàng chọn lọc. Thế là chúng tôi có đồ trải giường mới. (hết trích).
... Đêm mùng sáu sang ngày mùng bảy tháng sáu Vũ Anh bắt đầu đau. Để an tâm tôi gọi liền hai xe cấp cứu, từ Troitsk và từ Moskva – phòng khi bỗng nhiên có việc gì trục trặc. Xe từ Troitsk lao đến trước, nhưng nó chỉ chở được Vũ Anh đến Podolsk. Tôi đề nghị họ chở nàng vào Moskva, đến nhà hộ sinh số 25, gần nhà chúng tôi trên phố Dmitri Ulianov. Khi đến nơi mới rõ ra một nửa tòa nhà đang phải sửa chữa. Người trực nhận giấy tờ của Vũ Anh, nhìn thấy nàng đăng ký ở Cục 4, liền gọi ngay xe cấp cứu từ đó. Vậy là người ta vẫn chở Vũ Anh đến phố Vesnina. Ở đấy, các bác sĩ lập tức khám và nói, tất cả đều ổn, quá trình sinh nở bình thường. Tôi chuẩn bị ngồi chờ ở phòng tiếp nhận thì sực nhớ mẹ tôi hầu như đang ở ngoài đatra có một mình. Cô y tá chúng tôi đã cho nghỉ hè, còn chị bảo mẫu người Việt không nói được tiếng Nga. Tôi liền lao về đó. Tại đatra mọi việc đều bình thường, nhưng mẹ nói rằng xe cấp cứu từ Moskva không tới. Thật lạ lùng. Vào 7 giờ sáng Vũ Anh sinh bé trai. Người ta gọi điện cho tôi từ nhà hộ sinh thông báo điều đó, tôi hỏi tình trạng của người mẹ ra sao, đầu dây bên kia im lặng. Sau một khoảng im lặng dài, họ đề nghị tôi tới và nói chuyện với bác sĩ. Ở Moskva tôi được biết rằng Vũ Anh bị chảy máu rất nhiều, chưa cầm được. “Chúng tôi làm tất cả những gì có thể – Bác sĩ nói – Sắp tới họ sẽ chuyển máu tới. Ông tốt nhất nên quay về nhà. Đợi ở đây là vô nghĩa”.
Tôi chạy đến các bác sĩ quen để hỏi ý kiến. Họ không vui, nói rằng trong những trường hợp như vậy phải lập tức cắt bỏ tử cung. Nhưng các bác sĩ Kremlin có lẽ sợ lãnh về mình trách nhiệm đó, bệnh nhân không phải nhân vật bình thường. Tôi quay trở về nhà hộ sinh. Lúc ấy người ta đã phẫu thuật cho Vũ Anh. Bác sĩ phẫu thuật chính của Cục 4 được mời đến xử lý cho nàng. Khi ông vừa ra khỏi phòng mổ, tôi lao đến: - Cô ấy sẽ không chết?/ - Cơ thể trẻ trung. Chúng ta hi vọng vào điều tốt nhất …
Vài tiếng sau đó Vũ Anh qua đời. Người ta cho phép tôi vào phòng bệnh. Vũ Anh nằm trên giường, phủ tấm ra – trông nàng xinh đẹp làm sao, như đang ngủ. Một cục gì chẹn lấy cuống họng tôi, tôi quỳ xuống hôn tay người tôi yêu dấu. Tấm ra phủ di chuyển, hé lộ thân thể vợ tôi, phủ đầy các vết xanh – đỏ. Tôi kêu lên vì sợ hãi. Mọi người chạy đến bên, đỡ lấy tôi và đưa ra hành lang …
Lần cuối cùng tôi nhìn thấy Vũ Anh là ở chỗ hỏa táng – mười ngày sau đó. Quyết định hỏa táng không phải do tôi đưa ra. Nói chung không ai hỏi ý kiến tôi muốn an táng vợ mình ra sao. Tại sao phải đợi lâu thế vẫn mãi là câu hỏi. Có thể Lê Duẩn đã bí mật đến Moskva. Tôi không gặp ông, còn bà mẹ thì bay sang ngay. Tro cốt của Vũ Anh được đưa về Việt Nam, bình tro được giữ ở nhà bà Bảy Vân, trong một căn phòng riêng.
Sau cái chết của Vũ Anh các cháu được bà cụ mẹ của Bulat, bà Askhen Stepanova yêu quý, đã rất già yếu chăm sóc. Bà cụ ở lại cùng chúng tôi ba tuần. Còn tôi trong thời gian đầu rơi vào một trạng thái quên lãng, mù mờ sao đó. Trí nhớ của tôi từ chối tin vào những gì vừa xẩy ra. Một lần tôi tỉnh dậy giữa đêm trong hoảng hốt. Trái tim bóp nghẹt trong lồng ngực. Tôi mơ thấy một luồng sáng: người ta đã đầu độc Vũ Anh. Tôi chia sẻ phỏng đoán với các bác sĩ. Họ không loại trừ khả năng ấy, nhưng cho rằng các vết xanh-đỏ trên da có thể xuất hiện trong trường hợp chảy máu nghiêm trọng. Sau đó nhiều năm, khi nằm điều trị tim tại một bệnh viện tim mạch tôi quan sát thấy người ta đã tiêm geparincho các bệnh nhân để làm loãng máu, và trên người họ cũng xuất hiện những vết đúng như thế (NNS: Geparin giống như Warfarin dùng bây giờ, nhãn hiệu Coumadin, là an anticoagulant, làm loãng máu, chống máu đông cục). Theo quan điểm của tôi đã xuất hiện thêm một phương án khả tín: việc chảy máu là do tác động cố ý, bằng cách tiêm thứ thuốc đó. Không phải tự nhiên Vũ Anh đã linh cảm thấy tai họa. Và máu đã chảy cạn (vì quá loãng)…
Trong đám tang bà mẹ đau khổ đến mất trí. Bà ấy nói rằng cha của Vũ Anh đã giết con và muốn giúp đỡ tôi – đưa bọn trẻ về Việt Nam. “Không đời nào!” – tôi trả lời. Tôi biếu bà chuỗi hạt đã từng giữ hơi ấm cơ thể của Vũ Anh. Bà ấy nhận nó, là để sau này sẽ trao cho vợ của cháu trai, khi nó lớn lên và cưới vợ.
Bảy Vân quyết định ở lại Moskva ít lâu. Bà ấy yêu cầu dẫn Tania đến thăm, nói rằng sẽ đưa trả con bé và cô bảo mẫu về nhà vào hôm sau. Nhưng đã không cho về. Hai ngày liền tôi gọi cho mẹ vợ, nhưng người ta không gọi bà ấy nghe điện, viện cớ có công việc quốc gia quan trọng nào đó. Ban đầu tôi không cảm thấy lo lắng đặc biệt, nhưng sau đó hiểu ra rằng bà đang cố thực hiện ý định của mình – lấy lũ trẻ khỏi tay tôi. Tôi tìm được địa chỉ của bà với không ít khó khăn, đem theo một đồng nghiệp biết tiếng Pháp để hỗ trợ và làm phiên dịch, lên đường đòi lại con gái. Bảy Vân không muốn trả lại Tania, ngay cả khi tôi nói rằng mẹ tôi sắp mất và bà cụ muốn vĩnh biệt cháu gái. Tôi buộc phải hứa rằng họ sẽ gặp lại nhau trong lúc chuẩn bị cho tang lễ.
Mẹ ruột tôi mất ngay ngày hôm sau. Mẹ vợ chạy đến ngay: “Các cháu sẽ ở với tôi!”. Tôi phải giải thích rằng các cháu còn đang ốm. Tania thực sự đang bị sốt. Bảy Vân đề nghị thu xếp chữa cho cháu tại căn hộ của mình, nhưng tôi không đồng ý. Tôi biết rằng bà ta sẽ lại xuất hiện ở đatra vào ngày cử hành tang lễ, lúc tôi không ở nhà, do vậy đã gửi Lena đến chỗ người quen, còn Tania tôi khóa cùng với người cháu của tôi trong căn phòng có các lỗ châu mai, và dặn không được mở cửa cho bất cứ ai, đặc biệt cho bà ngoại nó. Bà bảo mẫu được dặn phải nói là cả hai cháu đang ở nhà các bạn của tôi. Ngay khi tôi vừa rời đến chỗ hỏa táng, Bảy Vân đã xuất hiện ở đatra. Không tìm thấy lũ trẻ, bà ta ra về trong sự tức giận khủng khiếp.(hết trích)
... Cuộc bầu cử mà Vũ Anh lo sợ đang sắp diễn ra. Xem ra nhóm thân Trung Quốc loan tin rằng không nên tin tưởng vào Lê Duẩn. Ông ấy không thể theo đường lối độc lập nếu cháu trai ông ấy đang bị Kremli giữ làm con tin. Trong cơn sóng gió trước bầu cử người của ta có thể bắt đi tất cả các đứa con của tôi, chỉ để giúp Lê Duẩn còn giữ được quyền lực. Tôi hứa sẽ suy nghĩ, cố kéo dài thời gian. Nhưng áp lực ngày một gia tăng. Họ đe dọa tôi bằng những điều bất tiện trong công tác. Người cán bộ nói anh ta đã biết “phương án Triều Tiên” – tức phương án bắt cóc con trai tôi với sự giúp đỡ của chị bạn người Triều Tiên. Tình thế trở nên nghiêm trọng. Bà ngoại Bảy Vân một lần đã nói thẳng: “Không muốn tốt – cũng chẳng cần”.
Chống đối tiếp tục đã thành vô nghĩa, và tôi quyết định phải có sự đảm bảo – soạn một tuyên bố chính thức về việc cho phép đưa con đi trong hai năm. Ở sân bay tôi đã khôn khéo lấy hộ chiếu của Anton từ nhân viên an ninh cửa khẩu, chụp ảnh tất cả các trang và đút trả lại. Bạn của tôi chụp ảnh ghi lại cuộc ra đi của thằng bé. Vào đúng ngày hôm ấy Lê Duẩn đến Moskva. Ông đã gặp Brejnev. Vì cuộc hội kiến này (có vẻ rất quan trọng) nên mới có sự vội vã như vậy.
Chẳng bao lâu tôi lăn ra ốm. Ban đầu là viêm phổi, sau đó phát hiện có một khối u. Nghi ngờ đến khả năng xấu nhất, nhưng rồi mọi việc cũng qua – khối u hóa ra lành tính. Tôi nằm viện khá lâu, chị Muội có đến thăm tôi. Chị chắc có nói chuyện với bác sĩ, biết về các chẩn đoán của tôi và kể cho những người thân biết. Những người này lập tức chạy vạy – nhờ cậy những người bạn xô viết nhờ nhận lại các cháu gái từ người cha “đang sắp chết”. Nghĩ lại thấy thật đáng sợ, không biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi không xuất viện đúng một ngày trước khi các thanh tra về công việc với vị thành niên đến nhà tôi. Một bà mặc sắc phục đại úy cảnh sát đến nhà với yêu cầu chính thức từ Ủy ban vùng – xem xét khả năng xác nhận đưa Elena và Tatiana Maslovye vào cơ sở nuôi dạy trẻ. Tôi không thể nói với bà ta toàn bộ sự thật, nhưng cho bà ta hiểu rằng trong câu chuyện này mọi việc không đơn giản, khuyên ta bà đừng vội vã.
Sau hai năm người ta vẫn không đưa Anton trở lại. Tối đấu tranh thêm hai năm nữa để họ cuối cùng đưa cháu trở lại Moskva. Tôi yêu cầu việc này với tất cả người thân của Vũ Anh. Cuối cùng Thành, em trai nàng bay sang Moskva. Chúng tôi gặp nhau và đã tìm được tiếng nói chung. Thành nói chuyện với Lê Duẩn, và ông ta quyết định đưa cháu trai về với cha nó và các chị. Nhưng con trai tôi trở về đã không phải với tên là Anton Maslov, mà là công dân Việt Nam Nguyễn An Hoàn và hộ chiếu Việt Nam. Lê Duẩn không có ý định trao cháu cho tôi. Ngược lại – ông hy vọng sẽ mang luôn cả các cháu gái về.
Con trai không nói được tiếng Nga, nó lạ tôi và không rời bà bảo mẫu người Việt đã nuôi cháu từ trứng nước. Ở Việt Nam Anton thực sự là hoàng tử: nó được ở cả một tầng nhà. Tôi hi vọng sẽ thu xếp được với con trai, nhưng người bà Việt Nam bay sang, sau khi quyết định đi nghỉ lại Krưm tuyên bố rằng ở Moskva không tốt cho thằng bé. Sau kỳ nghỉ bà ta sẽ đưa cháu trở lại Việt Nam, còn tạm thời cần đưa cháu vào một nhà trẻ tốt trong suốt mùa hè. Bà ta sẽ cho phép tôi và các cháu gái tới đó. Trong cuộc nói chuyện của chúng tôi có mặt một cán bộ khá cao cấp của Ban quốc tế BCH TƯ, làm nhiệm vụ phiên dịch. Ông đã thấy tôi giận dữ như thế nào, và khuyên tôi đừng nổi cáu, cố gắng đạt được thỏa thuận với người đàn bà quyền lực. (hết trích)
... Tôi không nhận được tin tức gì từ Moskva, nhưng hi vọng vào những điều tốt. Tôi nghĩ rằng Gorbachev không muốn có một Sakharov – viện sĩ – nhà bất đồng chính kiến thứ hai. Để giành lại các con, tôi sẵn sàng làm tất cả, kể cả một scandal quốc tế. Mấy tháng trôi qua tôi biết được từ một người bạn Việt Nam, gần gũi với gia đình của Vũ Anh, rằng Lê Duẩn đã từ bỏ ý định bắt cháu về. Ông nói: “Nếu cha chúng nó yêu chúng như vậy, thì cứ để chúng sống với anh ta”. Có vẻ hai nước đã đi đến một nhận thức chung về chuyện này, Gorbachev và Lê Duẩn đã thỏa thuận để gia đình chúng tôi được yên. Sự đau khổ của tôi kết thúc. Mấy năm sau Lê Duẩn từ trần.
Vào cuối những năm 80 – 90 tôi có dịp đi khắp thế giới. Với tư cách là giáo sư mời tôi đã giảng bài ở Mỹ, Anh, Pháp. Đất nước tôi hồi đó ở trong giai đoạn không dễ dàng gì. Khoa học thoi thóp, các nhà bác học được trả bằng xu, mà trong tay tôi – ba đứa trẻ. Cần phải kiếm tiền bằng cách nào đó. Nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ sẽ ở lại sống ở nước ngoài. Bọn trẻ luôn đi cùng với tôi, cũng như người vợ sau Irina. Chúng tôi cưới nhau năm 1991. Tôi quen Ira đã lâu, từ khi Vũ Anh còn sống. Cô ấy cùng tuổi với Vũ Anh. Ira là nhà ngôn ngữ, phó tiến sỹ khoa học. Sau khi Vũ Anh mất, giống như nhiều bạn bè và người thân của tôi, cô ấy đã giúp tôi trông nom bọn trẻ. Đối với tôi mối quan hệ của cô với chúng cũng quan trọng không kém tình cảm giữa chúng tôi. Ira là một phụ nữ đáng kinh ngạc. Sau khi cưới, cô ấy quyết định không sinh thêm một đứa con nữa, đứa con chung của chúng tôi, để không phải làm dì ghẻ, mà hoàn toàn thay Vũ Anh làm mẹ của Lena, Tania và Anton. (hết trích)
... Về sau, khi đã trưởng thành, Lena, Tania và Anton đã 2 lần về Việt Nam để gặp những người ruột thịt. Chúng được đón tiếp như các vương tôn công tử. Ở đất nước này người ta vẫn còn lưu giữ ký ức thiêng liêng về Lê Duẩn, giống như trong thời xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhớ về Lenin. Trong mỗi thành phố đều có các con phố hay quảng trường mang tên ông. Và các cháu của lãnh tụ được đối xử một cách trọng thị. Bảy Vân, bà vợ góa của ông vẫn còn sống. Bà nay đã gần chín mươi tuổi. Anh giao phó cho tôi các con của chúng tôi. Nàng mong muốn các cháu sống ở Liên Xô và được giáo dục theo các truyền thống văn hóa Nga. Không có Ira tôi không thể thực hiện được sự ủy thác của nàng. Cái chính là bọn trẻ không lúc nào cảm thấy chúng là trẻ mồ côi. Và nếu không có Ira chúng không thể thấm nhuần văn hóa và tâm hồn của chúng ta. Do vậy chúng vẫn là những người Nga, cho dù sống ở đâu.(Source: Đông Tác Giao Lưu. Phan Độc Lập dịch).
II. Thơ Thái Bá Tân: Xin Có Đôi Lời
Vấn đề là ở chỗ - Nhà nước ta xưa nay
Hễ ai đó phản đối, - Thì lập tức, người này
Bị quy là phản động, - Là diễn biến hòa bình.
Tức là muốn phá hoại, - Lật đổ nhà nước mình.
Mà đã định kiến thế, - Thì nhà nước tất nhiên
Không nghe, không xem xét. - Vụ việc sẽ lãng quên.
Nhà nước cứ lem lẻm - Lắng nghe dân, thực tình,
Chỉ muốn nghe lời nịnh, - Trù úm lời phê bình.
*
Tôi, một công dân tốt, - Xin được có đôi lời:
Nhà nước mà làm thế - Chỉ tổ người ta cười.
Dân bây giờ tinh lắm, - Càng không dễ bị lừa.
Cái trò trẻ con ấy - Người ta đã biết thừa.
Mỗi người có quyền chọn - Một lý tưởng, tất nhiên.
Nhưng cao hơn lý tưởng - Là Đất Nước, tổ tiên
Đất nước đang nguy khốn - Vì thảm họa môi trường.
Nên người dân lên tiếng - Cũng là chuyện bình thường.
Không ủng hộ thì chớ, - Còn đàn áp mạnh tay,
Nhà nước tự bộc lộ - Là ai trong vụ này.
Hãy tạm gác mọi chuyện, - Chính kiến và bất đồng.
Môi trường là trên hết. - Trên hết là non sông.
Hãy để dân được nói, - Thậm chí cả biểu tình.
Đó cũng là một cách - Ủng hộ nhà nước mình.
.............................. .............................. .............................. .....
Kính,
NNS
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét