Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Sáu, 13 tháng 6, 2025

NHỮNG THÁNG NĂM VÔ CÙNG ĐEN TỐI - Tình Hoài Hương


Đầu Tháng Tư: Còng Lưng Vác Trên Vai…
Tôi chợt cảm thấy lòng mình ấm lại những niềm vui khi ngày ngày tôi vẫn bình an, ung dung vui vẻ từ nhà đi trên đường quen thuộc đến nơi dạy học. Vợ chồng tôi đã có 4 con. Chồng tôi (Luật) phục vụ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Lịch sử Việt Nam đang còng lưng vác trên vai những tang thương đau đớn, dày vò, bi thảm tàn khốc nhất trong cuộc chiến tranh hung tàn. Và hạnh phúc đơn sơ ấy chẳng có được bao lâu, nay sương muối mù mù nặng hạt còn thấm ướt mái tóc, khi tôi đứng lớp giảng bài, thì Luật hớt hải chạy đến giữa những khung cửa kính kêu rè rè, bể loảng xoảng, nâng nỗi khiếp sợ lên giếng mắt nhau. 
<!>
Ngoài xa, xa mãi tận hướng Du Sinh, hay Suối Vàng thì phải, từng hồi pháo kích đì đùng nổ rền trời. Khói đen nghịt kéo theo mùi cháy khét tởm lợm, cùng sức nóng rợn người. Có điều gì lo nghĩ đắn đo phiền muộn hay sao, mà khi anh nhìn vào giếng mắt tôi, Luật đã vội vàng cụp mắt xuống, chơm chớp hai giọt mọng nước và quay đi lãng tránh, mà báo tin động trời chẳng lành:
– Mười ơi! Có lệnh từ thượng cấp cho ông già bà lão, phụ nữ, trẻ con di tản gấp. Còn toàn thể quân nhân, cảnh sát, nam công chức, thì tuyệt đối phải tử thủ tại Đà Lạt.

Tôi nghe Luật báo tin ấy, cảm thấy rụng rời bàng hoàng như sét đánh ngang tai. Tôi sực nhớ đến chuyện động trời: ngày 9 tháng 3 năm 1974, tại trường Tiểu học Cai Lậy có loạt đạn 82 ly nổ rền. Ôi! Coi trên truyền hình có đoạn thời sự đã chiếu đi chiếu lại: thấy hằng trăm trẻ em vô tội chết đau đớn thảm thiết, thương tâm xiết bao! Bỗng dưng tôi lại nhớ vào khoảng năm 1973 có một thời người ta ùn ùn leo lên núi Lâm Viên để: xin nước của Phật Bà ban phước cho bá tánh, hầu trị tà ma bình an hay bệnh tật. Bà chị ruột của tôi đã đi. Và nữa.. một số thị dân Đà Lạt nhiều người truyền tin cho nhau rằng: “Từ những cánh rừng xa hun hút, suốt ngày đêm đã xuất hiện nhiều đàn sâu róm nối đuôi nhau lũ lượt kéo xuống biển. Sâu róm chết la liệt trên đường (lúc băng qua đường). Những xe khách, xe đò, xe nhà đi từ Đà Lạt xuống Phan Rang... đều thấy”. Tôi không biết chuyện tiên tri về đoàn sâu róm và đoàn người sống trên đời lố nhố bỏ núi rừng băng đường vượt sông ùn ùn ra biển, thực hư ra sao. Tuy nhiên tôi tin rằng nếu ai đã từng sinh sống ở vùng Cao Nguyên thời ấy, đều biết, hoặc nghe rõ về chuyện Phật Bà hiện lên chỗ nọ chỗ kia, có cả chuyện mặt trời xoay quanh phụ nữ tiên mặc áo lụa trắng, thắt lưng xanh, tay bế hài nhi đứng trong vầng mây... và đoàn sâu róm nườm nượp đi xuống biển.
Bây giờ tôi chưa biết tình hình náo động nầy sẽ ra sao khi ôm nhau chạy về nơi vô định, nên càng run sợ tột cùng! Phải cho các em học sinh dọt lẹ mà thôi. Tôi thều thào dặn dò học sinh thu dọn sách vỡ lo chạy nhanh về với gia đình. Trong trường tôi có cô Phùng dạy sát bên vách lớp. Phùng xin tôi cho vợ chồng và đứa con nhỏ đi theo. Cuối cùng vợ chồng tôi đồng ý cho họ đi nhờ xe nhà về Nha Trang. Vì Phùng không có phương tiện di chuyển, mọi ngả đường bộ về Sài Gòn bị phong tỏa, bế tắc. Chính phủ đã trưng dụng hàng không dân sự, để làm những việc hữu ích khác. Duy chỉ còn quốc lộ chính từ Đà Lạt xuôi về miệt Phan Rang, Nha Trang, Phan Thiết là có thể chưa bị mất. Không có một chiếc xe đò chở khách, nếu ai may mắn lắm họa may chủ xe cho lên ngồi trên mui, nhưng giá tiền một người đắt gấp mười lần giá thường ngày. An toàn nhất là ngoại trừ ai có xe nhà. Vợ chồng tôi vội leo lên chiếc Peugeot 404 của mình chạy về nhà. Đồ đạc trong nhà đầy dẫy! Tôi lính quýnh quờ quạng run rẩy không biết nên lấy thứ gì? Làm sao có thể gom đi cả gia tài đã dành dụm suốt đời người trong chiếc xe bé tí xíu? Luật la:

– Nhanh lên em. Bỏ của chạy lấy người. Còn người còn của mà. Mẹ, em và các con, cứ lo đi đi. Anh ở đây sẽ tìm cách gửi từ từ những thứ cần thiết theo xe đò xuống Nha Trang, cho mẹ con em dùng sau.

Trong khi chờ đợi tôi thu xếp hành trang, Luật kiểm soát xe cộ, sau đó anh báo với tôi sẽ đi châm xăng, dầu nhớt vào xe hơi đầy đủ. Tôi dặn dò các con thu xếp gọn gàng sách vở bút viết cần thiết, bỏ vào mỗi cái cặp riêng của con cần mang theo. Tôi không còn tâm trí để nhớ một cái gì, lấy cái nầy thì tiếc cái kia. Vì ngôi nhà đồ sộ sẽ buồn tênh và trống trải, mất mác hết khi vắng chủ nhân. Có thể ngôi nhà sẽ không bao giờ đón chúng tôi trở về. Mặc dù tôi đã để lại hết tất cả gia tài cồng kềnh quý giá, nặng nề, do công khó lao nhọc bao năm vợ chồng tôi tằn tiện dựng xây mua sắm. Tôi không giàu có lắm, nhưng giờ đây thì thứ gì cũng có thể không còn, tuy sự cần cù nhẫn nại chịu đựng, lòng tin yêu, độ lượng và tự trọng thì tôi không thiếu. Cái gì đời cũng ưu ái cho tôi sao!? Nhưng chưa chắc bây giờ tôi cần những thứ đó. Giống như chiếc xe thổ mộ đã chở quá đầy hàng, nếu chất thêm vài trái dưa lên nóc, chẳng biết xe và dưa sẽ đỗ lăn mất lúc nào. Vậy thì ta nên giữ lại những thứ gì thật sự cần thiết trong lúc khẩn cấp mà thôi.
Tôi lo nấu hai nồi cơm hơi nhão thật to, dùng khăn ẩm vắt ra từng nắm nhỏ. Tôi gói chà bông, ký lạp xưỡng, khô cá, khô bò, mấy ký giò lụa, dưa leo, cà chua, cà rốt, rau sống, hai thùng mì gói, mươi bọc cơm sấy, mấy ổ bánh mì ba tê gan và bơ sữa, tiêu, xì dầu, muối, đường... Có sẵn nồi xôi đậu xanh, nồi cá thu kho măng với thịt ba rọi ngày hôm trước còn dư, cả nồi trứng thịt heo kho Tàu đầy, do mẹ Luật đã nấu hồi sáng. Vừa làm các công việc trên, tôi bồn chồn lo lắng, bồi hồi, luyến tiếc về sự ra đi. Bởi vì tôi không thể biết cuộc ra đi sẽ lành dữ ra sao, các con trẻ bé dại cùng đi với bạn bè trên dưới hai mươi mấy người (chung chuyến ở hai chiếc xe khác nữa của bạn). Nếu bị lỡ đường, chúng tôi sẽ có thức ăn chia sẻ cho nhau lót dạ. Tôi khiêng một thùng nhựa 20 lít nước lọc ra sân. Hai cái bô có nắp đậy. Mùng, mền, quần áo len, quần áo mỏng, giày, dép linh tinh... cho bà mẹ chồng, tôi, và các con chu đáo, tươm tất.

Đã gần đến giờ hẹn, nhưng không thấy Luật đâu cả, tôi quá sốt ruột lo lắng vô cùng. Thì ra Luật chạy vào trong Hà Đông báo tin cho gia đình ông cậu Cương của anh, và gia đình bà Tề lo liệu di tản. Thật là tội, ở trong ấp mù tịt chuyện thời sự náo loạn, họ ung dung đi tưới rau, không hề biết chuyện nhốn nháo ngoài phố ra sao. Thế là Luật phải đưa cậu Cương ra phố bán 2 cây vàng. Cầm đồng tiền giấy nhẹ, có thể mua gì cũng được, hơn cầm cả thỏi vàng, chả lẽ mua ly trà, ly nước dừa, mà đưa cả chỉ vàng, hay cả lượng vàng ra? Mất toi mạng như chơi. Có mà điên! Hầu hết các tiệm vàng trả giá rẻ mạc 2 cây vàng, họ mua có 50 ngàn! năn nỉ hoài mà chả ai thèm mua giúp. May sao có bạn của Luật (anh chị Kim là chủ tiệm vàng ở Tùng Nghĩa đến nhà chờ đi chung) mua giúp cho cậu. Kim chạy giặc có những bọc vải ruột tượng, túi áo túi quần cả gia đình đâu đâu cũng vàng là vàng nặng trĩu.Họ rất sợ mất toi mạng vì thời buổi loạn ly mà có hằng tá vàng chình ình cả đống thế kia, chẳng khác nào “lạy ông tui ở bụi nầy” làm thể nào thu dú đâu được. Gia đình anh Kim cần đi chung với bạn bè có đông người thân thuộc, là điều rất mừng. Anh tin và gửi nhờ bạn mang mấy bọc vàng không sợ bị cướp giật giữa đường. Anh Kim móc túi lấy 400 ngàn đưa cậu, đó là anh trả cho cậu giá rất cao, coi như Kim cho cậu tiền, chứ không phải anh mua vàng. Cậu của Luật vui mừng khôn xiết, cậu lo chạy nhanh về nhà thu xếp.
Các bạn thân hẹn nhau tập họp ở nhà tôi đúng 2 giờ chiều là lên đường. Dưới chân đèo Krong Pha nhìn lên Đà Lạt tít mù cao, những bè mây trắng xóa kéo thành một dong dài, mong manh lả lơi như hơi sương quấn ngang đồi thông tiếp nối đồi thông rủ tóc, trải thành dải sô tang quấn trên triền quê hương. Đồi thông từ từ khép bức màn sô tang mỏng dính trong gió rì rào lao xao lay động cây cành nghiêng ngả. Rừng lá thấp xưa kia xanh thẩm mịt mùng ngút ngàn bao cây gỗ quý, hôm nay hầu hết cây cối xơ xác héo úa. Tôi thực sự xa nơi chôn nhau cắt rốn. Nơi đó, còn cha mẹ, anh, chị, các cháu, chồng tôi (anh phải nghe theo lệnh cấp trên ở lại Đà Lạt tử thủ), người thân xóm làng hiền hòa. Không hiểu họ sẽ xoay xở ra sao khi tiếng đạn pháo ngày càng đinh tai nhức óc, dồn dập rót về trên đầu? Thỉnh thoảng súng đạn vun vút rền vang nơi xa xa, tạo thành những đường dài sáng loáng tóe lửa, vút qua vút lại trên bầu trời.

Con đường cái quan ngày xưa rộng thênh thang, nay chật như nêm. Đoàn xe nhà tôi và bạn gồm 3 chiếc nối đít nhau chạy qua khỏi Krông Pha, tôi chẳng hề thấy ai đi ngược lên lại hướng núi, nơi chúng tôi đang đi xuống. Dòng người đen nghịt nối đuôi nhau đi chỉ một chiều xuôi về miền biển... Tôi định tâm nhìn quanh thấy hàng hàng lớp lớp xe hơi lớn, xe hơi nhỏ, xe lam, xe gắn máy, xe đạp, xe ba gác, xích lô, mà biết là hầu hết mọi người có phương tiện di chuyển như xe hơi nhà, xe jeep, xe GMC, xe honda, xe lam, xe ngựa, xe bò...cùng bầy trâu, bò, heo, chó, ngựa, gà vịt, chen chúc với người và người...tất tả xô đẩy nhau chạy bộ trên con đường chật như nêm, hổn độn nối đuôi nhau chạy đi, chạy đi... ứ nghẽn. Họ lũ lượt kéo nhau tấp nập vội vã đi đông hơn kiến, kể cả những người gánh gồnh, vai mang lưng cõng, đều nối đuôi nhau lũ lượt tất tả lê lết đi bộ, bàn chân họ cột những tấm quần áo chen lấn trên đường nhựa nóng muốn rộp da.

Trên đầu súng đạn luôn ì oành nổ ầm ầm đùng đùng, oằng oằng oằng... pằng pằng pằng... chẳng lúc nào ngớt. Nhiều tràng súng từ xe sau ria tới tấp xẹt tới, xe chở những bao bố tiền to khổng lồ, tiền ơi là tiền rơi kín một góc đường phố và bay tá lã theo gió lồng lộng, mà các thứ xe cứ vùn vụt chạy đi, chẳng biết có ai dám cả gan đứng lại khum xuống nhặt tiền dưới cơn mưa chì bão lửa đó không? Cảnh thương tật, khóc than, thét mắng, đói khát, chết chóc, lẫn trong tiếng súng đạn gầm rú xa gần, khiến mọi người bị hút vào điệu quay chóng mặt, bàng hoàng đến rợn người. Những pha cướp giật bóc lột đánh chém nhau dã man và trắng trợn ven đường nhiều vô số kể. Gầm rú. Hò hét. Chửi rủa. Đánh đập. Nhìn bộ hành kiên nhẫn đi vội vàng, dáo dác nhìn ngược ngó xuôi, lo lắng bước thấp bước cao như thế, lòng tôi bâng khuâng nỗi đau xót lạ thường, tim chùng xuống ngàn đắng cay ngậm ngùi không thể tả.

Mãi đến buổi hoàng hôn khi qua khỏi Phan Rang đầy gió cát, tới Ba Ngòi nóng bức xé da. Đoàn xe di tản chậm hẳn lại, dường như không còn sức sống, cạn kiệt nguồn sống rồi chăng, những xe khác không còn xăng, nên xe ù lì nằm ụ từng đám rải rác trên đường từ Phan Rang tới Ba Ngòi, xe chẳng thèm nổ chạy nữa rồi! Mẹ con tôi ôm nhau ngồi lặng lẽ trên xe, cúi mặt thút thít khóc, lòng tôi rối bời, ngổn ngang trăm mối, lo sợ tột cùng.Tôi cho con nhỏ mẹ già di tản, thì ăn ở đâu, ngủ ở đâu? Nhưng ba bên bốn bề ai ai cũng ùn ùn lũ lượt kéo nhau đi, đông kinh khủng thế nầy. Nếu gia đình tôi ở lại, có lẽ càng cô độc và sợ hãi hơn khi bóng đêm bao trùm xuống vạn vật, súng đạn ùa về nổ chát chúa đinh tai nhức óc mỗi đêm thế nầy, làm sao đây!?Lương quân nhân, công chức, như “tiền lính tính liền”, rồi sẽ ra sao khi bồng bế nhau chạy về nơi vô định?Mấy lúc trước tôi đã bòn nhặt cất giấu được một số tiền kha khá, (đề phòng khi hữu sự bất chợt như bây giờ, thì có mà chi dùng). Nào ngờ, Luật thấy trong nhà có tiền, anh nghe bạn than thở, là thể nào anh cũng “réo rắt, xeo nạy” cho bằng được, để anh mang tiền đi đưa cho bạn bè mượn. Cả chục lần thấy chồng ỉ ôi thở vắn than dài, “dằn vặt đay nghiến” tôi. Dù tôi đã quyết dú đút tiền cất đi, nhưng rồi tôi vẫn “lạt lòng nhẹ dạ” không nỡ từ chối lời anh yêu cầu. Vả lại, tôi không phải là loại đàn bà mê tiền hám lợi, bo bo ôm rịt giữ kỹ tiền, thấy vàng bạc là mắt sáng như đèn pha. Tôi “dại lòng” nên trút hết hầu bao, đưa tiền để anh đem cho bạn mượn trước mặt tôi. Thật ra tôi cũng biết hoàn cảnh tùy gia đình mỗi người bạn, đều khó khăn rất tội nghiệp. Họ có tự trọng nhưng quá khốn đốn mới muối mặt nhờ giúp đỡ. Bây giờ bất ngờ ra đi nên tôi chẳng còn dư bao nhiêu tiền, thì nếu mẹ con tôi không lo chắt bóp ăn rau ăn cháo, chắc là chết đói nơi xứ lạ quê người thôi. Nghĩ tới đó là tôi cảm thấy quá sợ hãi!

Gió lồng lộng thổi những hàng cau lao xao cúi rạp mình gần sát đất, khi những trái hỏa châu mắt thần bùng nở đỏ bầu trời nghiệt ngã đang đè lên đầu nhân thế, hòa cùng khói thuốc súng và từng đám mây trắng bay vội vã như đàn cừu hốt hoảng té chạy tứ tán trên đồi cỏ khô. Tiếng súng đạn bay vút lên không trung, tạo thành những màn nhện đỏ au đan chéo qua chéo lại, tuyến tiếp tuyến trên không gian mịt mù, tiếng đạn nổ dòn, hòa cùng tiếng lao xao của rừng xoài, tiếng côn trùng đồng loạt tấu khúc dạ trường ngọt ngào bất tận… Đêm cuốn đi bởi dòng cuồng lưu cuồn cuộn xô đẩy nhau chảy theo làn sóng người đang tìm cách thoát thân khỏi tai trời ách nước. Trời sập tối thì chúng tôi đến gần Vịnh Cam Ranh, nơi có chỗ neo tàu sâu, có sân bay chắc chắn và an toàn, có câu lạc bộ, có nhà máy làm nước đá, có hệ thống ra đa tối tân nhất bây giờ. Vịnh Cam Ranh là một lợi thế chiến lược tốt nhất của vùng Đông Nam Á. Từng là nơi tiếp liệu xăng dầu cho hạm đội trong chiến tranh Nhật-Nga từ 1904-1905 ngày xưa là thế, mà nay im lìm câm nín.

Đoàn chúng tôi cùng đi gồm: gia đình Trần Văn Ngọc: (19 người). Gia đình tôi (6 người). Gia đình cô Phùng (3 người). Gia đình anh Bàn (10 người). Gia đình Kim 10 người, (Kim từ giã chúng tôi đi về hướng Phan Thiết, có thân nhân ở đó). Nhà anh chị Trí ở Cam Ranh, 18 người, và không kể họ hàng di tản. Nay ở tại nhà anh Trí có thêm đoàn chúng tôi, vị chi tại nhà có cả thảy là 58 người! Kinh khủng quá. Anh chị Trí, mẹ anh, em gái và các con anh chạy ra mừng rỡ tíu tít rôm rã chào đón. Chúng tôi đến bất ngờ, tôi, Phùng, gia đình Ngọc, Bàn, cùng hùn tiền đưa chị Trí, nhờ chị đi chợ nấu ăn giúp có lẽ vài bữa. Ban đầu chị Trí nói qua loa, không nhận. Nhưng sau thấy chị Bàn nhét tiền vô túi, chị Trí mừng rỡ xách giỏ đi chợ. Phút chốc hai ba nồi cơm trắng to tướng, nồi canh chua cá chim, cá thu kho và rau sống, rau muống luộc, đã dọn lên đầy nhóc. Những người mới tới dùng bữa no nê ngon lành. Nhưng tôi và Phùng có con dại, mệt quá nên chỉ ăn qua loa nửa chén cơm, rồi đi tắm rửa, giặt giũ áo quần. Phùng và tôi leo lên giường rù rì nói chuyện tới khuya. Phùng bảo đảm với tôi là chỉ cần chúng tôi an toàn tới Nha Trang, thì mẹ con tôi sẽ ở nhờ tại nhà bà cô của Phùng. Nghĩa là hai gia đình tôi và Phùng sẽ tách riêng gia đình: Ngọc, Quý, Cúc, Bàn. Ở Đà Lạt là quê hương tôi, dù gì tôi cũng dễ dàng xoay trở. Nếu về Nha Trang thì coi như tôi bơ vơ, lạc lõng. Tôi chỉ quen thân duy nhất cô Oanh trước kia dạy học ở Đà Lạt, 2 năm nay Oanh đã đổi về Nha Trang. Chẳng biết Oanh có còn ở chỗ cũ không?! Còn Phùng về Nha Trang thì bà con hai họ nội ngoại có nhiều. Phùng hy vọng có thể lưu lại nhà thân nhân một thời gian, và tìm cách trở về Sài Gòn. Tôi thật mừng khi có Phùng cùng đi.
4 giờ sáng hôm sau, chị Trí lo dậy nấu mấy nồi cơm, canh cá tươi thật to như tối hôm qua. Tôm, cá, mực ở miền nầy quá rẽ so với Đà lạt. Chúng tôi ăn uống no nê xong, tất cả 3 đoàn xe chúng tôi từ giã anh chị Trí, lên đường đi Nha Trang. Khi tôi tới chỗ trạm đổ xăng, vì xe hơi của tôi cũng cạn xăng, tôi đi tìm hầu hết mấy trạm xăng, không nơi nào mở cửa. Các chủ trạm xăng đều nói: “Từ đây về Nha Trang các trạm xăng đều bị hết, khan hiếm, đóng cửa không có xăng từ một tuần nay”. Trời ơi! Lẽ ra tôi còn bình xăng phụ hơn 10 lít dự trữ mà Luật đã bỏ sau cốp, nhưng tôi ỷ y là dọc đường có thiếu khối gì trạm bán xăng, mà lo. Thế nên tôi đã chia sạch xăng cho hai chiếc: xe be, xe lam; là bạn tôi đi cùng đoàn. Tôi không hề dự đoán có chuyện bất trắc nầy. Chết rồi. Không ai chịu bỏ xe của mình lại nửa đường, (dù xe của họ cũ, coi thổ tả). Thế là tôi đành bỏ chiếc xe hơi Peugeot 404 mới của mình nằm ụ tại Cam Ranh, đúng như Luật nói: “Bỏ lại tất cả của cải quý giá, bỏ hết, lo túm chạy lấy 6 mạng người. Còn người còn của”!
Mẹ con tôi, mẹ con cô Phùng leo lên xe lam của Quý chật cứng những đàn bà, trẻ con cả thảy là 16 người. Mẹ của Luật và đàn ông, phụ nữ mạnh khỏe khác thì leo lên chiếc xe be không mui. Dạo trước xe be nầy dùng chở cây gỗ, nay chở người. Khoảng hơn 20 người lố nhố chen chúc ngồi trên xe be trần trụi không có bờ vách, họ dùng những sợi dây dừa cột chặt thân người nầy vào người kia, rồi cột vô một cây gỗ cẩm lai và đống đồ đạc cao chất ngất. Xe be và xe lam chạy chậm rì, cà rị cà mò nhưng tôi vẫn lo sợ người ngồi trên xe be chen chúc chật cứng có thể lọt xuống đất! Xe không thể chạy nhanh trên đường dài ngoẵng có đủ mọi thành phần và tầng lớp... đông hàng vạn người gánh gồng đi bộ, có đủ thứ loại xe lớn nhỏ. Thỉnh thoảng những chiếc xe bò lọc cọc chở đầy người phủ tấm bạt bay phần phật. Xe không có mui che mặt trời nên càng nóng rát. Nhóm người lết bộ tay bồng tay bế, các em nhỏ khóc la thảm thiết, mặt mày trẻ lem luốc, đỏ ửng như con tôm luộc, mũi dãi lòng thòng. Đến gần ngả ba thì có một chiếc xe hàng mui bẹp dúm, 4 bánh xe chổng ngược lên trời quay tít, người trong xe ấy hò hét, máu me lênh láng. Mẹ con tôi sợ hãi bưng mặt nhìn đi chỗ khác, tôi tột cùng run rẩy hoảng loạn, tim nghẽn nghẹt ứ cơn đau mà thân thể muốn bay bổng lên chín tầng mây.

Xe lam của Quý bị hư, cũng do chất đầy người và quá nóng máy, xe lam nầy nhích chạy đường trường không có đèn. Chiếc xe be do Ngọc lái phải đi sát phía sau dọi đường cho xe lam chạy, thật quá nguy hiểm. Đèn pha của xe GMC nào đó rọi sáng trưng, suýt tí nữa thì xe lambretta của Quý chồm tới rất sát xe khách trước mặt, (hoặc là chúng tôi nằm gọn dưới lòng xe be)! Anh tài xế xe GMC nghiến răng gò lưng đạp thắng, trên xe mọi người đông nghẹt đều dồn đống chúi nhũi tới phía trước xe GMC. Bốn bánh xe GMC rít ken két dưới mặt nhựa, tỏa khói bay khét lẹt. Tôi khó có thể đoán tuổi đời anh lính dãi dầu sương chiều nắng gió ấy đã trải qua bao xuân xanh, khiến da mặt anh càng sạm đi lúc hiểm nguy nầy? Cả bộ quân phục mặc trên người hình như càng bạc phếch phong trần, hay do bụi cát rít dưới những bánh xe? Chúng tôi chỉ biết kêu Trời cứu mạng. Khi đèn xe rọi tới trước, tôi thấy những đứa trẻ con trạc bằng tuổi con tôi, nghe tiếng bánh xe lết trên đường nhựa, chúng hốt hoảng mệt mỏi quýnh quáng bám theo chân người lớn vọt lên lề. Thật hú hồn hú vía, nếu anh tài xế xe GMC không tháo vát, nhanh nhẹn, không có kinh nghiệm, ắt hẳn là tai nạn rùng rợn sẽ xảy ra không thể lường! Trong lúc nầy lòng tôi nổi lên sự ấm ức tức giận, vì chuyện tôi đã vứt bỏ lại chiếc xe 404, để leo lên chiếc xe thổ tả nầy! Biết làm sao được khi mình có lòng nhân không hề tính toán thiệt hơn, đã hậu hỉ trút hết xăng cho xe bạn!

Từ Cam Ranh khởi hành lúc 10 giờ sáng, mãi đến 10 giờ tối đoàn xe ì ạch nầy mới đến Nha Trang. Các ngã ba ngã tư dòng người đang cố chen lấn, giành cướp tí đất sống, xe và người vội vàng sát nhập chung nhau trườn lết tới vùng đất hứa hẹn an toàn. Họ cố chen từng bước, từng bước, ùn ùn tìm về vùng tạm cư có lẽ bình an hơn: Nha Trang. Chúng tôi ghi cho nhau địa chỉ bà con ở nhiều nơi, ngộ lỡ có biến loạn, hay cần liên lạc, thì biết mà tìm nhau. Chúng tôi chia ra nhiều hướng: Gia đình Phan Bàn ở nhờ với bà con của họ tại đường Nguyễn Tri Phương. Đại gia đình Trần Ngọc ở nhà bà con.Vợ chồng Phùng, bà mẹ Luật, tôi, và 4 con thì về nhà bà cô của Phùng. Có thêm chúng tôi, nhà bà cô hơi chật càng nghẹt thở hơn, cổng sắt cao lút đầu, màn che trướng rủ kín mít. Họ nói chuyện với nhau thì thầm to nhỏ, mắt la mày lém, dáo dác nhìn trước ngó sau len lén rù rì. Họ tỏ lộ vẻ khó chịu ra mặt bất an sợ sệt điều gì lạ lắm. Hay là họ sợ mẹ con tôi biết họ quá giàu, họ “nuôi ong tay áo, nuôi khỉ đốt nhà” tôi nảy sinh ra trộm cướp của họ chăng? Sống tại nhà bà con của Phùng 3 ngày 2 đêm, tôi sợ các con ồn ào làm vướng bận, phiền gia đình bà cô, nên mỗi ngày chúng tôi phải đi qua bên trường Tiểu học, ngồi ngoài gốc cây phượng mua quà bánh ăn qua loa. Chiều chiều chúng tôi mò ra biển ngồi dưới hàng dừa hứng gió mát, để cho các con nô đùa ở biển. Chờ sau giờ cơm tối mịt, chúng tôi mới dám mò về xin phép chủ nhà cho tắm rửa, đi nằm ngủ nhờ dưới gạch bóng loáng trải mền bông xuống nền nhà, mẹ con bà cháu đều chui vào nằm chen chúc trong một cái mùng rộng. Tóm lại, chúng tôi chỉ xin ngả lưng ngủ nhờ. 5 giờ sáng, tôi lo đánh thức cả nhà dậy, lại đi ra ngoài lộ sớm. Hai hàng nước mắt tôi thầm lặng vẫn tuôn trào. Mặc dù từ Đà Lạt về Cam Ranh, biết tôi không có thân nhân ở đây, Phùng đã cam đoan chắc chắn là: mẹ con chúng tôi khỏi lo vấn đề ăn ở Nha Trang trong thời gian vài tháng. Tôi ngây thơ đã tin bạn. Nay Phùng cảm thấy khó xử, tôi cảm thông vì nhà nầy không phải là nhà của Phùng. Dẫu sao Phùng cũng áy náy và hổ thẹn với tôi. Qua ngày thứ bốn, tôi thấy mặt mày ai nấy đều nặng như chì, khi Phùng bồng đứa con lên máy bay về Sài Gòn. Thái độ ngược đãi ấy đã được khẳng định mọi điều dứt khoát rằng: Sau khi gia đình Phùng an toàn tại Nha Trang, có đủ điều kiện để họ tìm đường trở về Sài Gòn, thì họ muốn bỏ rơi chúng tôi. Như thế thì đã rõ rồi, dễ hiểu quá. Phùng nên đi trước, mai mốt ông chồng Phùng sẽ về sau, là lưỡng tiện đôi đàng, ông sẽ ú ớ ù lì ngơ ngơ ngáo ngáo, là huề cả làng. Họ “siêu tổ chức” khỏi mất công “hứa lèo” với tôi. Mặc tôi xử trí ra sao thì ra.
Lòng mềm nhũn nỗi tiếc xót ngậm ngùi:

Thứ hai, ngày 24/3/1975. Có căn nhà đang cháy trong xóm đìu hiu, (do một người đàn bà bày bàn cúng ra giữa sân nghi ngút khói hương, đã bị gió tạt vô nhà). Bà ta hì hụp khấn vái kêu xin Trời Phật ban ơn lành... cho sống lâu trăm tuổi. Cứ thật thà mà nói, sau vụ bàn thờ ông cha cố tổ bị rầm rộ xuống đường năm xưa, thì tôi có ít thiện cảm để vãng lai tới chùa thăm viếng ai. Điều mà xưa kia tôi rất trang trọng, mến thích tới lui nơi quý “tăng bào lão trượng”, hầu ân cần chia sẻ chum cà, lọ tương, hủ đậu, chùm cây trái ngọt ngon sâu nặng tình nghĩa đậm đà. Vã lại chồng tôi vẫn nghĩ mình già rùi, “gần đất xa Trời”, can chi mà phải sợ chết, lo nọ lo kia cũng rứa hử? Tôi gân cổ lên cãi lại anh: “Anh nói thật tức cười. Có ai đang sống ở trên đời nầy, mà “gần Trời xa đất” mô nà! Vậy thì “đất” phải gần hơn “Trời” là cái chắc. Ta đang đạp hai bàn chân trên đất đi hà rầm đây nè. Khi nào chết mới gọi là “gần Trời xa đất”. Và ai ai cũng muốn lên Thiên Đàng cả. Chẳng ai muốn xuống đất hỏa ngục ở với Diêm Vương”...... Chúng tôi vơ quần áo ra đi lang thang ngoài đường như thế, ban ngày đi ra biển ngồi dưới những gốc dừa, tối về thì xin vào ngủ nhờ ngoài mái hiên của trường Tiểu học. Qua ngày thứ tám thì gia đình bà Niềm ở đối diện với nhà bà cô của Phùng, thấy thương mẹ con chúng tôi bơ vơ nheo nhóc, họ động lòng trắc ẩn, bà kêu chúng tôi cho đến ở nhờ. Tại đây có một phòng riêng rộng rãi đầy đủ giường nệm mền gối. Muốn nấu ăn thì có sẵn bếp, cứ tự túc. Tôi ứa nước mắt mà mừng vui khôn tả xiết. Thế là cả nhà tôi tíu tít vui vẻ dọn qua bên đường. Vẫn biết là ông bà Niềm quá tốt, nhưng sợ các con thơ dại quậy phá, nên tôi không dám làm phiền họ. Ông bà Niềm có 2 người con. Một anh con trai đi lính Nhảy Dù. Một cô con gái tên Thúy Lan làm ở Hàng không Quân sự Nha Trang.

Dưới những gót chân bé tí lún xuống bờ cát mịn, từng vệt chân trần nhòe đi trong sóng khẽ khàng vỗ tan bọt nước. Tôi rón rén bước trên nền cát ẩm, với ước mong tí chút hạnh phúc lướt thướt lan theo từng ngấn sương khuya rơi rụng nhạt nhòa trên phố biển Nha Trang. Lòng vẫn dạt dào nỗi hoài mong tiếc rẻ bao nhớ nhung hao gầy. Nỗi nhớ làm cảm quan và lòng mình mềm nhũn, choáng váng, thẫn thờ tiếc nuối, nghẹn ngào tức tưởi bao mộng mơ bạt ngàn lắng đọng. Ngày ngày mẹ con tôi vẫn đi tản bộ ra bãi biển, tắm, ăn cơm hàng cháo chợ. Nhưng chỉ non tuần sau, tôi phải tính đến chuyện tự nấu ăn. Tôi tiếc hùi hụi vì đã để trên chiếc xe nhà của mình ở Cam Ranh hết mọi thứ, chỉ mang đi những túm quần áo cần thiết. Bây giờ tôi mua một cái lò than, các con tôi ra đường nhặt cây khô mục, lá khô, bã mía, để nấu cho đỡ tốn tiền mua củi. Tôi phải tính toán cân nhắc kỹ từng đồng nơi xứ lạ phương xa: mua một nồi nhôm to nấu cơm, một nồi nhôm nấu canh, một nồi nhỏ dùng kho cá, một bình nhôm nấu nước, mua muỗng, đũa, 6 cái tô nhựa, (dùng khỏi bị bể). Tôi mua củi, gạo, rau, cá. Có ngày trời nắng oi ả, có ngày mưa ào ào, bầu trời miền biển khác hẳn với khí hậu thoáng mát ở miền núi, khiến các con khó chịu mặt mũi lúc nào cũng đỏ bừng, mồ hôi nhễ nhại, rôm sảy nổi lên từng đám dày, ngứa ngáy. Chúng ngồi đâu là hai tay gãi sồn sột, móc chỗ nầy cào chỗ nọ như mấy chú khỉ con. Tôi lo sợ các con lạ nước lạ cái, sinh ra ốm đau thì nguy. Sáng sớm, khi các con còn ngủ, tôi lò mò đi chợ, về nhà vội nấu một bữa ăn (mà chia làm hai lần: một phần ăn vào lúc 10 giờ sáng, một phần khác tôi múc ra trước, để dành ăn vào lúc 5 giờ chiều). Cứ ăn uống dọn dẹp rửa ráy xong, mẹ con bà cháu đều tản bộ ra đường nầy qua đường nọ. Chúng tôi thường đứng lại hằng giờ trước cổng một ngôi nhà xinh xinh phủ đầy hoa giấy, thèm thuồng cuộc sống ấm áp gia đình mà mình đã bị mất rồi ngậm ngùi buồn xo. Chân ngập ngừng e ngại bỗng dưng tôi chùng bước, len lén nhìn vào: Dẫu rằng ngôi nhà bên trong hàng dậu thưa ấy, tuy lạ mà rất quen thuộc vì hình ảnh hai ông bà cụ nơi bồn hoa thắm đỏ với vòi sen phun nước. Bước chân họ chậm chạp di động, khẽ khàng dẫm trên nền gạch, khiến lòng tôi chùng xuống nỗi tiếc xót ngậm ngùi. Tôi nhớ những bọt nước đã rơi xuống vệ cỏ ven đường. Con tim tôi rung lên từng chặp như nhắc nhở tôi nhớ về hàng hoa anh đào thuở nhỏ trong ngôi biệt thự của ba má ở tại đường Quang Trung (dưới ga Đà Lạt) mà nấc lên từng cơn. Tôi muốn quay đi chỗ khác, nhưng đôi mắt cứ dán chặt vào mỗi gốc cây trong ngôi nhà ấy. Tưởng như mới ngày nào tôi đứng tỉa cành già, hái lá vàng trên cây cành ấy nhỉ!? Nay cảnh vật và con người từ tha nhân cho tới chính mình đã biến dạng ngoài sức tưởng tượng! Không ai có thể cứu lấy mình chứ nói chi đến chuyện cứu người. Thời buổi nầy “làm người” thật khó khăn: Nếu tôi có chút của cải, có máu mặt xí, thì bị hàng xóm, bạn bè dòm ngó và coi chừng... tôi là gián điệp! Nay tôi làm tên hành khất, thì bị coi là bôi bẩn chính thân, bị miệt thị, bị xô ra khỏi xã hội và tụt xuống đáy bần cùng. Thật khó sống làm sao khi người dân thị thành vẫn tấp nập, dáo dác ùn ùn kéo nhau đi đâu mà đông đúc quá?

Bình minh dâng cao trên đầu hay hoàng hôn tàn dần, bóng râm từ các vách đá lan ra, buông xuống đường chân trời xa tít tắp một màu đen. Mẹ con bà cháu tôi nhàn hạ không biết làm gì để giết bớt thời gian quá tẻ nhạt, là ra biển ngồi hóng gió. Chúng tôi ngồi nhìn từng con tàu lớn đậu ngoài xa xa, các con tưởng tượng nhiều điều thú vị, theo dõi và biết ngày nào con tàu nầy đến bến, ngày nào con tàu kia đã ra đi. Tàu thuyền trên sóng nhấp nhô, có chiếc lênh đênh trên đại dương, chiếc ra khơi, chiếc vào bến đậu. Tuy mục đích có khác nhau, nhưng con tàu cùng lênh đênh bồng bềnh chơi vơi cỡi trên ngọn sóng lớn. Tôi nhìn những con tàu khổng lồ mà cảm thấy buồn bã vô cùng, không dám ước mơ hay hy vọng, dù niềm hy vọng bé tí xíu. Tôi cảm thấy mình đang chới với trên đại dương. Hoặc tôi là lữ hành trên sa mạc cháy nắng, càng hơn nữa giống như ông lính già cô độc, hụt hẫng, run rẩy trong một pháo đài bị vây hãm. Trời xanh lồng lộng và biển Nha Trang thơ mộng dịu êm có gió hây hây thổi, mặt biển vẫn là thảm hoa cương óng ả lấp lánh lung linh và mênh mông. Trẻ nhỏ vô tư lự nô đùa trên biển, các con ưa thích vỗ tay và ngẩn ra nhìn. Dù bảo thế nào các con vẫn e dè, sợ sệt vì các con không quen, chưa bao giờ cởi áo quần ra giữa chỗ đông người. Tuy các con đến với biển mỗi ngày, nhưng chúng chưa dạn dĩ. Nhìn sóng biển trắng xóa xô bờ, các con cảm thấy sợ nhút nhát co chân. Các con chỉ dám xăn quần lên tới đầu gối, hay mặc áo quần dài mà reo vui bì bõm vọc nước sát ven bờ, khi sóng vừa bén chân, các con cảm thấy chóng mặt, lo sợ hét to vội vã nắm tay nhau chạy lên bãi cát khô, làm y như là các con sợ nhúng chân vào nước nóng. Cái thú duy nhất của các con là cùng nhau chạy đi rượt đuổi những con còng. Kể ra các con cũng khôn, biết mò ra chỗ để bắt ốc, bắt còng về luộc ăn. Con còng, con ốc cũng khôn không kém. Con còng chạy rất nhanh, thoáng một cái chúng tìm mọi cách thoát thân đằng nào mà thật lẹ. Bao nhiêu lần các con không bắt nỗi. Nhưng có một hôm các con tôi làm thành một hình tròn to, rồi từ từ khép chặt vòng tròn vây quanh mấy chú còng lêu khêu. 3 đứa con bò chầm chậm, bò dần dần tới bên con còng, và các con đồng loạt ụp cả người lên con còng què chân ngố ngáo. Tôi cười thầm: “Con còng bị què làm chi tội rứa, nên mới bị trẻ bắt sống hỉ!” Thế là chú còng bẹp dí. Bé Bi giơ chú còng lên trời, cười ha hả. Có một hôm, mấy con đang tắm, thì bé Bi ị ra quần, thối um. Cả nhà cười vang. Tôi thương các con bị đói khát nhưng biết thân phận mình con không dám đòi quà bánh. Bé Dzu 10 tuổi, bé Tu 8 tuổi thường cõng bé Tồ 1 tuổi trên lưng, Tu dụ em đi ra ngoài gốc phượng nhặt hoa rơi, mấy anh em xếp thành từng đống cho em chơi để em nhỏ quên đói, không đòi bú mẹ. Khi ta có đủ thứ trong tay, mình xem thường các thức ăn. Nhưng, bây giờ sống trong cảnh đói khát, nằm gai nếm mật, ăn ngủ ở đầu đường xó chợ, bơ vơ bất vất, thì dù những thức ăn tầm thường nhất, tôi cũng quý. Mới thấm thía buồn và cảm thấy đau nhừ, như ai dần từng khúc ruột, tôi tiếc ngẩn ngơ những cái đã mất. Thật ra, chúng tôi đang sống trong cảnh phập phồng lo sợ. Chẳng ai cấm tôi gào thét, thi gan cùng biển cả mênh mông. Nhưng tôi không còn tâm trí nào mà tắm táp thoải mái ngoài biển. Tình cảnh mẹ con tôi bây giờ là thế! 9 giờ tối về ngả lưng trên cái giường rộng. Có một điều là muỗi. Vô số muỗi nên dù ngày nào ở nhà, không đi biển thì bà cháu mẹ con ở ngoài sân trường học, hay ở trong nhà có quạt máy vù vù trên trần nóng hầm hập, chúng tôi vẫn dùng quạt giấy, quạt phành phạch suốt.Cuộc sống di tản của chúng tôi có lẽ từ nay là những ngày tháng mòn mỏi đợi chờ thật dài, khiến tôi mất hẳn ý niệm về cuộc sống. Tôi như con ốc sên nhút nhát thu mình trong vỏ, mất hết bản năng sinh tồn. Nhụt chí và chán nãn dường bao! Thời gian nhàn hạ ở đây thật vô vị và mù tịt, tôi không hề biết ất giáp gì về chuyện trong nước đang hỗn loạn. Ngày nào cũng như ngày đó: do nỗi lo lắng, sợ hãi đói khát cứ trỗi dậy trong lòng tôi. Sự khốn cùng càng tăng mãi. Niềm hy vọng mỗi lúc một vơi cạn.

Mẹ con chúng tôi đến thăm Oanh, nhà Oanh ở trong một biệt thự nho nhỏ xinh xinh tại Xóm Mới, có vườn cây rợp bóng im mát, gia đình ba má Oanh là người Huế, hiền lành, vui vẻ thực thà. Hai bạn gặp nhau mừng rỡ trào nước mắt chảy ròng ròng, chúng tôi thì thầm chuyện trò. Từ thành đến tỉnh, đâu đâu cũng bàn tán xì xào chuyện chính trị và chiến tranh mà tôi chúa ghét. Mặc dù ba má Oanh có dành cho gia đình tôi một phòng nhỏ, nhưng tôi sợ các con dại sẽ làm phiền họ, lại mất lòng và mất cả tình bạn cao quý, nên tôi từ chối. Tôi nghe chán tai người ta bàn tán: Khi thì đã mất nước tới đèo Hải Vân. Mất tới Đà Nẵng... Có lẽ đất nước nầy chia ra làm 3 thành phần. Lại nghe đồn từ vĩ tuyến 13 trở vào Cà Mau là của chính phủ của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Tin “Bỏ” vùng nầy, bỏ vùng kia. Khi thì nghe người ta bàn tán Việt Nam sẽ trung lập. Sẽ có chiến tranh huynh đệ tương tàn khốc liệt. Sẽ hòa bình: Đó là tiếng pháo bông nổ lớn trong đêm tối đen mừng ngày đất nước thanh bình, hay báo nguy lầm than, cơ cực, nghèo đói, chia ly, và thanh trừng nhau tràn ngập trên đất Việt vào một ngày không thể ngờ tới?!
Trong khoảng thời gian qua, Luật theo lệnh thượng cấp phải tử thủ ở Đà Lạt, anh đã gửi về địa chỉ nhà Oanh cho tôi thêm quần áo, mền, mùng, nồi niêu son chảo, vân vân..cùng 80 ngàn đồng tiền lương mấy tháng của vợ chồng chưa kịp lãnh. Anh gửi nhờ những chuyến xe quen, người chủ xe đò đã đến giao cho Oanh, nhờ Oanh chuyển cho tôi, cùng mấy lá thư Luật dặn dò mẹ con tôi “phải cố gắng, bằng mọi cách tìm đường di tản về Sài Gòn” gấp. Tôi chỉ nhận tiền Luật gửi về Oanh, còn tất cả đồ dùng kềnh càng, tôi gửi lại trong nhà kho của Oanh. Anh báo là đã mất Ban Mê Thuột và Huế. Oanh kiểm chứng tin Luật đã báo, thì đúng y bon vì bà con của Oanh từ Huế, nườm nượp di tản bằng thuyền đánh cá của họ chạy ra Nha Trang, họ kể lại là Huế đã đi vào cửa ngỏ cuộc chiến. Nghe đâu Đà Nẵng rất lộn xộn, gần như thất thủ nơi ấy. Gia đình Oanh không tính đi đâu cả, có chết thì chết ở xứ nầy, vì họ còn một bà cố già lụm cụm 80 tuổi, nếu đem theo chạy loạn thì không được, mà để cụ ở lại một mình với mấy căn biệt thự, càng không thể.... Tôi hốt hoảng chạy tới nhà của chị Bàn đã thuê, hầu báo tin chẳng lành, cùng những lời Luật nhắn nhủ. Tôi vui mừng thấy gia đình Ngọc, Quý, Cúc đã về tá túc ở đây vài hôm trước rồi. Các bạn khuyên tôi nên về ở chung nhà, nếu có bề gì, thì hú nhau một tiếng, cùng giúp nhau chạy. Tôi nghe phải, nên về nhà bà Niềm thu dọn ít bọc quần áo trẻ nhỏ, cám ơn ông bà chủ nhà, rồi đến ở chung với các bạn.

Chủ Nhật, ngày 30/3/1975. Đến ở trong ngôi nhà tôn vách đất thấp lè tè, nóng như thiêu đốt. Chúng tôi góp chung tiền ngày ngày đi chợ nấu ăn hai bữa, một bữa ăn lúc 10 giờ rưỡi, (thay cho buổi sáng và trưa nhập thành một bữa). Một bữa ăn lúc 6 giờ chiều. Ngày nào cũng từng ấy thứ: Nồi cơm thật to, nồi canh rau muống trộn mì gói hiệu 3 con tôm to tướng, cá kho rim thật mặn, đổi loại cá mỗi ngày. Họ nấu ăn bằng bả mía phơi dôm dốp vài nắng, thì khói bay mù mịt, cay xè mắt, nước mắt nước mũi chảy tùm lum. 3 thằng con trai lớn, (hai đứa con của Ngọc, và một đứa con của tôi) thay nhau nằm dài xuống đất, phồng má thổi lửa phù phù. Bụi tro, khói, đất, bay lên đầu cổ, mặt mày chúng đỏ rần. Dù ở đây có phần tù túng khổ sở hơn ở nhà bà Niềm, nhưng có bạn cùng cam chịu đựng, tôi cảm thấy đỡ sợ, yên tâm hơn. Sau những bữa ăn sum họp vội vã, nhà nào nhà nấy ai ai cũng tự ra ngoài đường, ngoài chỗ đông người, để nghe ngóng thu nhặt tin tức. Chúng tôi lo lắng sợ hãi, cùng đường quẫn trí, rối bời đầu óc, bồn chồn cùng nhau bàn lui tính tới hết cách. Kết luận cuối cùng là: giả thiết từ bây giờ cho đến khi nào Nha Trang bị lung lay, nếu trong nhóm nầy ai có phương tiện thuận lợi nào, thì cứ lo cho gia đình đó vượt thoát. Chứ sợ e lúng túng với một đám trẻ con trên dưới 16 đứa, không kể người lớn, đông người như thế nầy, thì chẳng biết làm sao có thể di chuyển chung chuyến xe, chuyến tàu, như khi chúng tôi ở Đà Lạt đã cùng nhau chạy đi. Tôi thật buồn và vô cùng tuyệt vọng nghe chị Bàn đã đi thu lượm tin tức ở ngoài bến xe về, chị nói: Ngày 11/3/1975 mất Ban Mê Thuột. Ngày 26/3/1975 Huế đã thất thủ. Bây giờ là Đà Nẵng. Ở các bến xe khách, hải cảng, cũng như ở phi trường dân sự, người ta đông hơn kiến, chen chân không lọt. Đông vô số kể. Ai muốn đi về Sài Gòn, thì phải ghi tên trước cả tuần, sau khi được gọi, phải mua một chỗ ngồi cả bạc triệu, hay đóng mỗi đầu người hai lượng vàng. Ai muốn sống cứ thế mà tính, không cò kè bớt một thêm hai. Nếu chần chờ không kịp nộp tiền, thì có người khác “xí phần” đưa tiền hoặc vàng ra ngay. Chiều nào cũng thế mẹ con bà cháu nhà tôi không biết làm gì cho hết thì giờ nhàm chán nôn nao lo lắng, nên chúng tôi thơ thẩn ra biển. Con sóng lớn ập tới, tôi bị lún xuống sâu tưởng chừng như muốn quỵ đôi chân. Tôi bị hất lên hụp xuống và chao đảo khi hai tay đập loạn xạ trên mặt nước. Càng vùng vẫy tôi tưởng như đang nhận chìm mình tụt tong tong xuống vực sâu. Tôi sợ.
Quệt nước mắt lưng tròng:
Thành phố Nha Trang thơ mộng đầy cát trắng với những hàng dừa du dương nghiêng mình soi bóng ven bờ biển Nha Trang tuyệt vời, nay đã có nhiều tiếng nổ và tiếng động quái dị lan nhanh theo xe cộ tất tả chạy ngược xuôi. Họ bồng bế nhau dứt khoát ra đi...quay lưng ngoảnh mặt phản bội với quá khứ vàng son đã một thời nâng họ lên đài danh vọng...Từ nơi chúng tôi vừa vội vàng đến Nha Trang chưa quen thuộc phong thổ, chưa trìu mến luyến lưu gửi lại bạn và tôi niềm tin vui sống, thế mà nay tôi nơm nớp lo âu... mong muốn tất tả rời xa chốn nầy, để thoát thân ra đi chạy trốn, nhưng biết làm sao, trốn đi đâu!? Đi đâu? Chính nơi tôi đến và sẽ ra đi trong sự bàng hoàng ngao ngán, phiền muộn lo lắng băn khoăn tột độ dày vò tan nát đau buồn! Tôi cúi mặt loay hoay... len lén đào tẩu chính bản thân, khi nắng chiều sẽ lịm dần vào bóng tối. Nơi sinh mạng con người bây giờ rớt vào cảnh lâm nguy, khẩn cấp, và rẻ hơn cỏ rác. Cảm nghĩ chân tình của tôi thẩm thấu và bùng vỡ qua những đường đạn xuyên trong buồng phổi, trái tim, túi mật lá gan mình.... Một chiều bất ngờ vào 17 tháng Tư tôi gặp Thúy Lan, cô mừng lắm:
– Sao chị không lo ôm con chạy vô Sài Gòn gấp đi. Ở đây sắp mất rồi. Không biết sao?

Tôi khóc ròng. Như ếch ngồi đáy giếng, như trâu chậm uống nước đục, tôi nào hay biết gì về bàn cờ thế cuộc từng giờ chong chóng đổi thay, và sự triệt thoái của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa! Vả lại nếu biết, tôi cũng không thể chen chân đến rừng người ở bến xe, bến tàu, phi trường, hải cảng, hoặc bất cứ nơi nào; để có thể vượt thoát, khi đêm đêm tôi nằm chập chờn trằn trọc trên giường lạ, mơ từng cơn ác mộng mà giật thót người, đã xốc ngược tôi ngồi bật dậy, mồ hôi hột vã ra như tắm, ú ớ gào rú rên la. Tôi chỉ còn hai bàn tay trắng cắp kè kè một nách 4 đứa con thơ, với một mẹ chồng 70 tuổi! Tôi không thể làm gì hơn. Không thể! Thúy Lan cúi đầu suy nghĩ giây lát. Cô vội lấy giấy bút ra hí hoáy viết, rồi đưa tôi, dặn dò:

– Chị đưa cháu đến địa chỉ nầy,sẽ có người giúp về SàiGòn ngay.Đi gấp nha.Chào chị em đi nhe,em rất bận.
Như kẻ chết đuối gặp chiếc phao, tôi không ngớt cám ơn bạn nhỏ. Tôi mừng kinh khủng, cầm chặt tờ giấy, thế mà vẫn sợ rơi, nên đứng lại thở dốc, tôi cẩn thận xếp tờ giấy Thúy Lan viết bỏ trong túi áo, rồi gài cây kim băng to lên túi áo, cho chắc ăn. Tôi cắm đầu chạy mà mừng khôn tả xiết. Tôi đã gặp quý nhân Thúy Lan tận tình giúp đỡ, người bạn sơ giao trong những ngày mẹ con tôi ăn bờ ngủ bụi tại miền cát trắng, như một phép lạ, không một điều kiện, hay do một sợi dây tình cảm luyến ái nào ràng buộc, ngoài lòng nhân và đức ái của cô. Còn tôi, có thể do hồng phước nhân đức của cha mẹ để lại, kiếp nầy cha mẹ tôi ăn ở hiền lành đức độ đã ra tay làm phước nhiều, nên bây giờ con cháu được hưởng lộc chăng!? Tôi vội về gặp các bạn báo tin là tôi đã có phương tiện di chuyển về Sài Gòn. Đồng thời biết gia đình Trần Văn Ngọc cũng chờ chuyến xe về Sài Gòn có lẽ ngày mốt là xong. Riêng gia đình chị Phan Bàn quyết định chờ tin tức anh Bàn, nên họ ở lại Nha Trang. Tôi vội lo thu dọn mấy túm quần áo mang theo phòng thân. Tôi bịn rịn chào các bạn.... Trước khi lên xe xích lô, tôi mua 6 ổ bánh mì nhỏ xíu (không có nhưn), để phòng hờ. Vì lúc 10 giờ sáng nầy các con chỉ ăn qua loa nửa chén canh bún lỏng bỏng nấu với rau muống, thay thế cơm cho cả ngày, tất con sẽ bị đói meo. Trên bước đường lưu lạc từ Nha Trang về Sài Gòn, không biết sẽ diễn ra bao điều âu lo khác, vẫn cần có tiền tôi mới có thể quyết định mọi việc nơi phương xa xứ lạ. Mẹ chồng cùng 2 con lớn ngồi một chiếc xích lô. Tôi và 2 con nhỏ ngồi một chiếc xích lô khác. Vì đi bộ từ đây đến phi trường quân sự rất xa. Ngộ lỡ bị trễ giờ phi trường khóa cổng, không cho ai vào nữa, thì nguy to. Lần đầu tiên ngồi trên xích lô, các con tôi rất thích thú hí hửng vui mừng, vì ở Đà Lạt các con chưa hề thấy xe xích lô. Đặc biệt ở Nha Trang các chàng trai trẻ làm nghề “chạy xe rong” hồn nhiên vui nhộn, đa số họ ưa rung chuông inh ỏi và ca hát nghêu ngao trên đường đi, nghe thật vui tai. Xuống xe xích lô tôi vội trả tiền, lật đật chạy tới xuất trình giấy tờ ở trạm gác cổng doanh trại Không quân Quân sự. Tôi trở lại chỗ mấy bà cháu đang ngồi bên vệ đường lấy bánh mì ra cho bà và mẹ con ăn. Các con ăn hết ổ bánh mì vẫn thòm thèm hoặc còn đói. Bé Tồ đói nên quấy hơn mọi ngày, con cứ rúc vào vú mẹ đòi bú vú da, khổ nỗi từ ngày “chạy giặc” đến giờ, bao nhiêu năng lượng đã cạn kiệt, thì làm sao có thể vắt ra sữa cho con! Tôi muốn mua bánh mì cũng không thấy khu nầy có câu lạc bộ, không một hàng quán, hoặc có người gánh hàng rong đi lại bán dạo ở bên ngoài. À, đây là khu quân sự mà. Khoảng 15 phút sau thì đóng cửa cổng gác. Ôi đại phước! Nếu chúng tôi chậm vài phút thì hết cách rồi! Thật là chỉ có Trời có mắt cứu nguy. Tôi dặn dò các con ngồi một chỗ với nhau, không được chạy lung tung, sẽ bị lạc mất.

Chúng tôi được gọi tên vào cổng, họ dồn chúng tôi ngồi xuống một góc ở ngoài sân dưới hàng phượng đỏ rực, (cùng những người lạ khác rất đông chờ đợi gọi tên, để vào trong văn phòng làm việc). Qua những thủ tục do an ninh Quân cảnh kiểm soát chặt chẽ, trật tự, cần thiết, cấp bách. Những đoàn dân di tản được lọc lại thành từng gia đình, có mấy quân nhân thư ký đánh máy tốc hành ghi rõ: tên, họ, danh sách chuyến bay. Họ dẫn gia đình tôi qua một phòng trong phi trường. Ở đây đã có rất nhiều người im lặng hoặc rù rì chuyện trò nho nhỏ. Thỉnh thoảng có một quân nhân Việt Nam áo quần tươm tất ra đứng trên thềm nhà gọi từng tốp người có tên trong danh sách đã ghi, dù máy phóng thanh mở hết cỡ mà tôi vẫn nghe không rõ do những chiếc máy bay quân sự luôn gầm rú ngoài phi đạo làm điếc tai....Thời gian mỏi mòn chờ đợi dần qua, thoáng chốc gia đình tôi đến lượt được gọi tên. Họ dẫn chúng tôi vào đứng xếp hàng trước một phòng khách rộng đông người gấp hai lần ở ngoài sân. Những dãy phòng ăn thông với nhau có điện giữa ban ngày sáng trưng, có máy lạnh mát rượi. Mặc dù trên đầu phi cơ quân sự không ngớt gầm rú, nhưng nơi đây không đến nỗi ồn ào, chen lấn, mà có trật tự hơn. Tôi nhìn những mệnh phụ phu nhân rực rỡ xa hoa quần là áo lụa chưng diện trong phi trường, mà bẽn lẽn! Giờ phút vắt giò lên cổ “tẩu thoát thân” nầy, nhưng lắm bà trưởng giả còn có thì giờ phù phiếm tô trét phấn son cẩn thận, mái tóc chải bồng, móng tay móng chân đỏ chói, sai khiến chỉ chỏ “gia nhân” đi sau đuôi mấy bà, có vài người tay đùm tay xách, cong lưng chạy lui chạy tới, khệ nệ khiêng vác nhiều chiếc va ly da cồng kềnh khá nặng và đắt tiền mới toanh, thùng giấy to đặt dưới chân họ mới và sạch sẽ. Những người cùng vào xếp hàng ở đây thân tỏa mùi nước hoa ICI, NEBLINA, ODE À L’AMOUR rất thơm. Còn loại túi xách tay là thứ sang trọng mang hiệu: GUCCI made in Ilaly, LOUIS VUITTON Paris, SIENNA RICCHI ở hải ngoại du nhập về Việt Nam. Tuyệt nhiên không một ai có “tay nải” cũ mèm bẩn thỉu xấu xí dị hợm, khiêm nhường, nghèo nàn coi thô thiển quê mùa hết chỗ nói:như hành trang của tôi. Đến nơi nầy, tôi mới nhận thấy tình cảnh hèn kém chua xót bi thương cùng khổ của mình trong những ngày ly tán trắng trợn phơi bày quá tệ, quả là đáng thương xót xiết đỗi! Tôi lúng túng ngượng ngùng bực bội cúi xuống len lén che giấu gói hành lý thô thiển hèn kém dưới gót chân kẻ làm vợ, làm mẹ: đã 10 năm qua vẫn thấp hèn với anh chồng lính. Tôi cảm thấy thật buồn vì số phận mình sao nghiệt ngã, đắng cay, bạc bẽo, khổ cực và phũ phàng tệ mạt đến thế! Tôi đau xót không kém phần tủi hổ (thật phí hoài không gian và thời gian về tuổi trẻ tràn đầy nhựa sống: một thiếu nữ tri thức nổi danh người đẹp biết chừng nào! khi trao thân cho người chồng không danh phận, để rồi anh ấy khép kín và ẩn nhẫn, đã đẫy vợ con đến bước đường cùng nầy)!Tuy nhiên lúc tôi ngồi bó gối trên nền gạch, vò đầu bứt tóc bứt tai suy đi nghĩ lại cho cùng thì...bộ áo tác chiến của chồng tôi và những bộ quân phục mà những quân nhân đang mặc trên người kia, nào có khác chi nhau!? Đó là niềm vinh dự tự hào rất kiêu hãnh của người lính oai dũng trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (và dĩ nhiên cả cô vợ lính hân hạnh tự hào về phong độ: quốc hồn quốc túy, quốc sử, quốc ca, quốc thiều, quốc huy, quốc thể, quốc gia Việt Nam); đồng thời mỗi một người không phân biệt cấp bậc quan hay lính: họ đều gánh vác trên vai tất cả trọng trách, nghĩa vụ, bổn phận làm trai phải trả nợ núi sông, và quyết giữ gìn quê hương Việt Nam an thịnh trường tồn. Thế nên chồng tôi cùng lớp lớp thanh niên trai tráng đã ở lại “tử thủ” Đà Lạt! Nếu có người đi di tản về Sài Gòn đông đúc kinh khủng, ấy là do ai ai cũng mong Mỹ và Quân lực Việt Nam Cộng Hòa ra tay làm việc nghĩa cứu vớt mình vượt thoát nhanh ra khỏi vùng đất khốn đốn, (nơi có nguy cơ khói lửa chiến tranh ập vào, hoặc có thể sẽ bị xâm chiếm, bị bom đạn tàn ác dội lên đầu không tiếc thương). Khi sống còn thì ai ai cũng có cơ may phục hồi cuộc sống và danh dự. Thế thôi.
Lần chót, chúng tôi được gọi ra ngoài sân bay đứng chờ gần chiếc phi cơ quân sự khổng lồ quay cánh quạt vù vù. Họ đang gọi tên những tốp dân đã ghi danh trước tôi đi lên chiếc phi cơ nầy. Mặt đất rung chuyển dữ dội, tóc tai quần áo mọi người bay phần phật. Hai tay các con nắm chặt lấy hàng dây thép gai, hoặc những cột trụ rào sơn màu trắng xanh xanh đỏ đỏ.Đây là lần đầu tiên trong đời các con tôi được thấy tận mắt những chiếc phi cơ to tướng gần thật gần. Các con vui mừng chạy ra dán mũi sát vào cửa kính, các con ở lì một nơi chằm chằm nhìn những chiếc phi cơ bay lên, đáp xuống. Chốc chốc các con lại hí hửng chạy vào chỗ tôi ngồi: con khoe đã thấy nhân viên hàng không lo tới tấp bốc hàng, con líu lo nói chuyện lạ xảy ra những gì ở đâu đó. Bé Bi chạy tới một chiếc thùng gỗ trèo lên đứng ở đó, để nhìn những chiếc máy bay cho rõ, rồi con lại tụt xuống đất, chạy đến chỗ gần cánh cửa sắt. Bé Bi dù sống cảnh di tản màn trời chiếu đất, ăn uống thất thường, nhưng vẫn còn là đứa trẻ có hai má đỏ rực chưa quen ở xứ nóng, bé bụ bẫm, tròn trịa mủm mỉm xinh xắn, bé Bi mặc bộ đồ bay màu xanh da trời, (giống y đồ bay của pilot) nên ai nhìn bé Bi cũng thấy cháu hồng hào ngộ nghĩnh dễ thương.

Chiếc phi cơ khác từ từ quay đi ra phi đạo, thì gió từ những cánh quạt ào ào thổi, làm cho mọi người đứng bên hàng rào muốn té nhào. Không hiểu sao lúc đó Bé Bi ở đâu chui ra khỏi hàng rào, và nắm lấy tay một bà Mỹ mặc áo đầm vàng, bà có đôi mắt xanh ngọc, mái tóc vàng hoe. Bà ta ngạc nhiên ngập ngừng chốc lát, rồi đặt chiếc va ly xuống đất, bà lấy trong giỏ xách một hộp bánh ngọt đưa cho bé Bi, bà chỉ tay về phía cửa kính bên trong hàng rào, nơi mọi người đang ngồi hoặc đứng chờ đợi chuyến bay. Nhưng thằng bé không nghe, không hiểu, hoặc mãi nhìn những chiếc phi cơ, mà nó nắm chặt váy đầm bà Mỹ kéo rị lại. Bà Mỹ trắng nầy cứ nhìn bé Bi và nhìn quanh quất hoài. Có lẽ bà Mỹ nghĩ con cái nhà ai bị thất lạc trong lúc cả nước hổn độn chạy loạn?! Đến phiên bà Mỹ tiến bước ra cổng phi trường xa xa hàng rào, để lên chiếc máy bay kia, thì thằng bé nhà tôi vẫn túm chặt váy áo bà Mỹ líu ríu đi theo bà. Nhưng thằng bé Bi bước đi, mà luôn luôn ngoái cổ lại đăm đăm nhìn chiếc phi cơ đáp xuống trên phi đạo. Tôi cúi đầu vạch áo cho bé Tồ mút vú da, khi ngẩng lên nhìn ra hướng phi cơ, ngay từ đầu tôi thấy có đứa nhỏ con ai hình như giống con trai của mình, mà đang nắm chặt váy của một phụ nữ Mỹ, khiến váy đầm bà ta giản dài ra lôi theo thằng nhỏ?! Thật tình ban đầu tôi cứ tưởng nó là con của bà Mỹ kia, tôi không hề nghĩ đó là bé Bi. Quay lại nhìn lui nhìn tới, nhìn quanh, thì quả thật tôi thấy thiếu mất bé Bi, nó không còn đứng trên cái thùng gỗ, hoặc bên hàng chắn rào cùng hai anh của nó nữa. Tôi hốt hoảng bỏ thằng bé Tồ đang cắn kéo cái vú của tôi dài ngoẵng ra đau điếng. Tôi đứng phắt dậy, hoảng hốt kêu réo to thật to:

– Bé Bi. Bé Bi. Úi Trời ơi! Mẹ đây nầy con.
Khổ nỗi thằng bé không thể nghe được, vì tiếng phi cơ nổ ầm ầm, inh ỏi gầm rú. Đồng thời lúc đó con trai trưởng của tôi là bé Dzũng nghe tôi la hét, con quay lại nhìn thấy tôi cứ chỉ chỉ tay về hướng bé Bi. Bé Dzũng cũng thấy bé Bi ngố ngáo từ từ theo đoàn di tản đi ra ngoài chiếc C130 khác. Bé Dzũng hoảng hồn, con nhanh nhẹn bò lòn qua lớp hàng rào sắt, con tức tốc chạy... chạy rõ nhanh tới bên bé Bi. Bé Dzũng lôi giật thằng em đứng khựng lại. Thằng bé Bi xiểng liểng suýt té, nó ngơ ngác nhìn lên bà Mỹ, nó vội buông váy của bà ta ra. Hai anh em túm cánh tay nhau cúi cong lưng cùng tất tả chạy về chỗ cũ. Hú hồn hú vía! Tôi mừng rỡ điên người mà khóc hụ hụ, vừa bai bải la mắng mấy đứa con trước mặt mọi người lạ. Tôi không hề biết xấu hổ,chỉ vì tôi sợ mất con. Kể từ giờ phút đó, tôi lấy một sợi len dài cột cườm tay đứa nầy dính với cườm tay đứa kia, và bắt các con ngồi bệt xuống nền gạch, ở yên một chỗ, không được đứng dậy xớ rớ dòm ngó chi cả, cho chắc ăn. Tôi giữ các con chằng chằng sát bên. Thật ra, bé Bi lúc đó mới 5 tuổi, nếu con đi với bà Mỹ, thì sau nầy con không thể biết cha mẹ là ai! Ở nơi xứ văn minh tột đỉnh giàu sang vinh phú kia, có thể đời con sẽ ấm êm sung sướng hạnh phúc, hơn ở với cha mẹ chăng?! Cũng có thể ngược lại. Nhưng... Thôi con ơi, nếu con ở nơi quê hương với tổ tiên ông bà cha mẹ, có đói khổ nghèo hèn, cũng còn mẹ cha anh em ruột thịt yêu thương con, chí tình đùm bọc, ủi an, sum họp bên nhau. Sau nầy nếu gia đình mình có may mắn trở lại giàu sang sung túc như xưa, hoặc vô phúc mà lâm vào cảnh hoạn nạn đói khổ thì mình cùng chia sẻ ngọt bùi, cùng dắt díu nhau bước trên con đường gian truân. Mẹ không thể rứt ruột đem con thơ đi bỏ chợ bơ vơ lạc lõng ở xứ người lạ hoắc cho đành. Xin lỗi con.

Đợt người di tản thứ ba đã tuần tự được gọi tên lên phi cơ. Tôi lo lắng nghĩ vơ nghĩ vẩn và cảm thấy bồn chồn nóng ruột lạ lùng, chỉ sợ bị sót tên, hoặc vì lý do nào đó, bị đình chỉ chuyến bay. Thì chết thôi! Hai sĩ quan Không quân đã đọc danh sách lúc nãy đích thân dẫn đoàn người di tản, trong đó có tên gia đình tôi là tốp cuối cùng mang số chuyến bay 449A. Tôi để bà nội, các con, đi trước, cườm tay các con vẫn cột sợi len dùng dằng níu kéo nhau run run leo lên chiếc phi cơ C130 “hả toác hoác mồm”. Lúc ở xa xa trong khu hành lang tôi nhìn thấy chiếc phi cơ nhỏ, nhưng khi đến bệ cầu thang sắt nối liền với đuôi phi cơ, thì thấy phi cơ nầy to lớn lạ thường. Từ đuôi máy bay dọc theo lòng phi cơ có 4 hàng ghế, 2 hàng ghế giữa đâu lưng vào nhau, 4 hàng ghế đệm bọc nhung màu huyết dụ rất êm đang mở “cái đuôi hoác mồm ra”, để lần lượt đón từng gia đình trèo leo lên phi cơ vẫn nổ máy ầm ầm. Chiếc máy bay nầy sẽ mang chúng tôi ra khỏi vùng đại nạn khói lửa binh đao. Biết đâu nơi Nha Trang sẽ diễn ra bao đau thương tàn khốc nay mai!?
Các con đứa nào đứa nấy tóc tai quần áo ướt nhẹp mồ hôi, hai má đỏ rực vì nóng, đã được tháo sợi dây len “chắc cú” ra rồi, các con thoải mái cứ chồm lên nhìn qua những ô cửa, vui vẻ hí hửng cười nói tía lia, lí lắc, huyên thuyên. Nhiều lần mỗi khi đi đâu chơi, tôi đều mua dự phòng bánh mì kẹp gà, ba tê, thịt nguội, hoặc chuối, nước lọc, đựng trong giỏ xách để cho các con ăn. Nhưng bây giờ sống trong cơn hoạn nạn, lại bất ngờ được ra đi quá đột ngột, không thể chuẩn bị chu đáo, nên mọi thứ đều thiếu thốn. Bé Tồ lúc đó quậy tưng trời, tôi mệt hết sức, phần vì tiếng động cơ gầm rú đinh tai nhức óc khiến con sợ hãi, phần vì nóng nực kinh khủng, mồ hôi con vã ra như tắm, ướt hết áo quần, vì lúc đó trong phi cơ chưa mở máy lạnh. Phần nữa là con đói bụng đòi bú. Khổ nỗi hai bầu vú tôi nhăn nhúm teo tóp sát vào xương sườn, thì còn gì có sữa cho con! Chẳng cần biết xấu hổ khi tôi vạch áo trước nhiều người lạ, để vắt hai đầu vú teo tóp hoài vẫn không còn một giọt sữa. Bé Bo cứ chui rúc đầu vào tìm vú mẹ, bú bú, mút mút, day day... con nhả vú ra, vật vã khóc la. Con lại giẫy nẩy lên, chướng quá chừng. Chính lúc đó có một người đàn bà trung niên quý phái, thanh lịch, ăn mặc gọn gàng trang nhã, bà ngồi đối diện với tôi,bà ấy cầm cái quạt giấy quạt hoài cho mẹ con tôi, sau đó bà đưa cho tôi ổ bánh mì:

– Chị đút cho cháu ăn... Có lẽ cháu đói bụng.

Tôi nghẹn đắng cổ chua xót lí nhí cảm ơn bà, cầm ổ bánh mì kẹp thịt xé nhỏ ra, đút từng miếng cho con ăn. Bé Tồ nín khóc, mặc dù con vẫn nấc lên từng hồi. Con ăn ngấu nghiến gần hết một phần tư ổ bánh mì, con thút thít đẫy tay tôi ra, bé Tồ đưa phần bánh mì còn lại cho các anh nó. Mấy anh em ỏn ẻn cười hì hì... liếc nhìn bà ấy, rồi các con thay phiên nhau mỗi đứa e dè cắn một miếng bánh mì nhỏ, nhai bỏm bẻm. Lát sau thì trong khoang tàu mở máy lạnh mát rượi, thế là bé Tồ dụi đầu vào ngực tôi vừa nấc nấc mà ngủ vùi. Người đàn bà thân thiện mỉm cười nhìn chằm chằm mấy đứa nhỏ. Giọng miền Nam ngọt ngào, bà ấy nhỏ nhẹ:
– Các con của chị rất đẹp và ngoan thiệt.
Tôi e ấp mỉm cười. Bà ấy lại lúi húi lục tìm trong giỏ xách sang trọng ra một hộp bánh Coffee Milk biscuits to, và chai nước lọc, bà đưa cho tôi. Giỏ xách của bà bây giờ đã xẹp lép. Thật bất ngờ, dù tôi không bảo, nhưng ba đứa con lớn vẻ mặt rạng rỡ, hớn hở, vui vẻ, hí hửng nhìn nhau, chúng vòng tay cúi rạp đầu sát xuống gần đùi nó, để nói: “Cháu cảm ơn bà” rất to. Chúng bắt chước nhau giống như chú khỉ; khiến ai nấy ngồi chung chuyến máy bay đều cười ồ. Các con ngồi ngay ngắn từ tốn ăn uống gọn gàng xong. Tôi nhìn người đàn bà xa lạ lại ấp úng lí nhí cám ơn, lặng lẽ cúi đầu xuống trên mái tóc thằng bé nhỏ mà quệt nước mắt.

Tôi nghĩ mãi không ra và không thể nào ngờ là mình có diễm phúc vinh dự đến thế nầy: Khi xế chiều có ông sĩ quan Không quân Việt Nam ở Nha Trang gọi tên tôi (đứng đầu danh sách gia đình tôi) ông đưa cho tôi tờ phê duyệt “Thuận” do vị một Trung tá ấn ký (tôi không thể nhớ rõ tên vị ấy). Ôi! Trí óc của tôi lúc đó thật tồi, tôi chỉ biết lo lắng về riêng “cái tôi” hiện tại là: làm sao mình có thể “đào tẩu” ra khỏi vùng đất chứa nhiều súng đạn và hận thù, mà không hề nghĩ đến ai- thì bây giờ tôi biết làm thế nào nhớ rõ tên họ và ân tình không thể trả đền nầy! Trên tờ giấy ghi “thuận” không hề có con dấu: “Nhất thế. Nhì Thân. Tam ngân. Tứ chế” gì cả. Thời gian loạn lạc thất điên bát đảo nầy; thật sự tôi biết chắc chắn một điều là: trong trường hợp hổn loạn cao độ, thì dù ai di chuyển bất cứ phương tiện nào gần hoặc xa, đa số ai có thế lực, có “chi địa, chi vàng” thì mới có thể thoát thân. Tôi không phủ nhận trước ngày gia đình tôi di tản khỏi Đà Lạt, thì có xe hơi, nhà lầu rủng rỉnh tiền bạc leng keng trong túi như ai! Ấy thế mà chính lúc nầy chúng tôi nghèo rớt mồng tơi, nhưng vẫn có người chính thức công nhận cho chúng tôi đường hoàng leo lên “tàu bay free”! Ôi! Sung sướng làm sao! Hạnh phúc vô ngần khi tôi ngồi trong lòng phi cơ, cảm thấy như đời bay bổng lên đào nguyên tiên cảnh. Ơn cứu mạng nầy gia đình tôi xin vô vàn tạ ơn “người”. Khấp khởi vui mừng khôn xiết khi đã ngồi an toàn yên ổn ở một nơi sang trọng thế nầy, tôi nhìn lui nhìn tới không thấy ai lưu ý đến mình, tôi len lén thò tay xuống nhéo ở bắp đùi mình mấy cái, xem thử mình có nằm mơ, hoặc thân mình có đau điếng vỡ mộng hay không!? Bởi vì tôi vẫn chưa dám tin chắc là mình sung sướng hạnh phúc may mắn được hãng Hàng không Quân sự “biếu” cho tờ giấy chứng nhận được “đi không”, “đi chùa” tuyệt vời như thế nầy.
Lòng tôi rối bời sầu nhớ hình ảnh đóa hoa hồng tươi thắm óng vàng đang gục đầu bên ngăn kéo kỷ niệm bảng lảng dáng hoàng hôn hắt hiu hư ảo thuở nào! Ôi! Đó là những đóa hồng nở rộ thắm tươi trong trái tim nhân ái hiếm thấy. Tôi không “nịnh” những chàng phi công bay bướm làm gì! Vì sự thật không cần biết tôi là ai, họ tận tâm giúp đời vô vụ lợi, tấm lòng họ tận hiến cho bổn phận, trách nhiệm, danh dự và nghĩa vụ cứu người. Những vị ân nhân đức độ mà tôi không hề biết mặt nhớ tên. Những người tình cờ tôi biết một lần, sơ sài chỉ quen một ngày, rồi xa nhau muôn thuở, không bao giờ tìm thấy lại, nhưng suốt đời tôi vẫn luyến nhớ thầm mong có ngày hân hạnh tái ngộ. Tôi xin trân trọng cúi đầu tạ ơn vị Trung tá Không quân (tôi không hân hạnh nhớ tên “ngài”). Tôi vô cùng cảm kích những tấm lòng cao cả của các vị Không quân. Cảm ơn gia đình ông bà Niềm, cô Thúy Lan vô vàn. Cám ơn người đàn bà thanh lịch quý phái ngồi trên phi cơ đã cho các con tôi một miếng khi đói. Ân tình nầy suốt đời tôi không thể trả đền, xin trọn kiếp mang theo kính nhớ trong lòng. Biết làm sao bây giờ! Dù mai sau nếu gia đình tôi sẽ trở lại sung túc giàu sang như thuở xưa, hoặc tôi chỉ là một người vợ lính quèn hèn mọn tầm thường: tôi nguyện sẽ cố gắng viết những bài văn (dù hay hoặc dỡ), tôi thành tâm tạc cốt “tình chung một khắc, nghĩa dài trăm năm” để ca tụng những vị anh hùng có nhân cách thầm lặng xã thân giúp đời vô vụ lợi. Một lần nữa tôi không bao giờ và chẳng thể nào quên: những người đã âm thầm lặng lẽ ưu ái ban tặng free đặc ân cao quý tốt đẹp cho riêng gia đình tôi, và cho Đời. Nguyện xin Thượng Đế trả công bội hậu ban đến họ được vui vẻ bình an hạnh phúc trường tồn.
Chiếc “mõm hàm ếch” từ từ khép miệng lại, nhốt trọn mấy trăm dân di tản vào trong lòng phi cơ. Phi cơ bay hoài và an toàn hạ cánh xuống phi trường Tân Sơn Nhứt, phía dành riêng cho khu phi cơ quân sự cũng ồn ào, náo nhiệt đông đúc kinh khủng. Chúng tôi được leo lên một chiếc xe bus chở free ra lối Bảy Hiền.

30 tháng tư: Quốc hận đen: Bách niên thương hải biến vi tang điền*:
Thật tình tôi không thể nào hiểu nỗi tại sao vận nước Việt Nam lại trở nên quá đen tối: sau khi Hiệp Định Genève 1954 diễn ra kể từ ngày 26/4/19577, rồi bản Hiệp Định được ký kết và kết thúc cùng ngày 21 tháng 7 năm 1954. Thành phần tham dự: Anh, Mỹ, Liên Xô, Pháp, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, Laos, Cambodia, Quốc Gia Việt Nam và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Phía Quốc Gia Việt Nam ban đầu do ông Nguyễn Quốc Định làm Trưởng Đoàn. Sau, ông Trần Văn Đổ thay thế. Đáng chú ý: Ông Trần Văn Đổ, Trưởng Đoàn Quốc Gia Việt Nam đã lên tiếng phản đối sự chia cắt đất nước. Chính phủ Quốc Gia Việt Nam (miền Nam Việt Nam) không ký Hiệp Định. Phía Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (miền Bắc Việt Nam) do Phạm Văn Đồng làm Trưởng Đoàn. Phái đoàn Hoa Kỳ từ chối công nhận Hiệp định Genève.
Kể từ ngày 21/7/1954, khi miền Bắc Việt Nam ký Hiệp định Genève xé đôi lãnh thổ Việt Nam, lấy vĩ tuyến 17 và cầu Hiền Lương Bến Hải làm ranh giới, để chia lìa tách bạch hai miền Bắc Việt Nam và miền Nam Việt Nam ra đôi ngả phân ly nghẹn ngào.
Ngày 11/11/1960. Đại tá Nguyễn Chánh Thi cầm đầu cuộc đảo chánh cùng Trung tá Vương Văn Đông ở Liên đoàn Dù và Thiếu Tá Nguyễn Triệu Hồng, Đại úy Phan Lạc Tuyên:đã đảo chánh nền Đệ Nhất Cộng Hòa hụt; thì “chiến tranh nội bộ” bắt đầu manh nha quyết liệt vì cốt nhục tương tàn, nồi da xáo thịt rối rắm bùng nổ liên miên. Từ xưa tới nay sự thôn tính đất đai, tranh giành quyền lực, thế lực, vinh hoa, là mạng lưới quyến rũ dẽo dai và khổng lồ. Nước càng trong thì không có cá. Dù lòng người đơn giản, phước thiện, trong sáng và cao cả; ấy mà nếu du nhập vào hệ thống chính trị, sau khi bị cuốn hút vào cung cầu đó, thì thật khó lòng ít có ai rứt ra được.

Ngày 27/2/1962. Có 2 chiếc khu trục A1 Skyraider dội bom dinh Độc Lập, do Trung úy Phạm Phú Quốc và Thiếu úy Nguyễn văn Cử ném bom bắn cháy dinh Độc Lập. Phi cơ của ông Phạm Phú Quốc bị bắn rớt trên sông Sài Gòn, ổng đã vô tù, tất cả bom đạn còn nguyên, nghĩa là ông ta chưa kịp thả trái bom nào. Ông Cử đào thoát bay mút qua hướng Nam Vang, dân chúng bàn tán là ổng bị chính phủ ở bển bắt nhốt vô tù rùi!?
Sau biến cố ngày 2/11/1963, Tổng thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu bị thảm sát. Trải qua bao thăng trầm chính trị sục sôi... thì nền Đệ II Cộng Hòa có Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu lên ngôi.
Ngày 8/3/1965. Kể từ khi có đoàn Thủy quân Lục chiến Mỹ tiên khởi, đông đúc khoảng 3.500 người rầm rộ đổ bộ lên đất liền tại Đà Nẵng, Mỹ viện cớ muốn giữ “an ninh cứ địa”. Do tướng Maxwell Taylor, thỉnh thoảng hút xì gà Schimmelpennick làm đại sứ Sài Gòn, ông dẫn đầu một cuộc phô trương cường quốc Mỹ, để thị oai với các nước tụt hậu, chậm tiến, đang có chiến tranh. Rồi...
Ngày 16/8/1965. Chính phủ Nguyễn Khánh chủ trương thành lập Hiến Chương Vũng Tàu. Trong nước loạn xạ bởi nhiều phe phái chính trị phản đối chính quyền đã hoạt động ráo riết. Sau đó có nhiều bất đồng, các đảng phái, sinh viên lục đục nội bộ, nên tan đàn rẽ đám. Hội đồng Quân lực Cách mạng truất phế ông Nguyễn Khánh, cho ông lưu vong ra ngoại quốc làm đại sứ.
Ngày 9/5/1969. Hạ sĩ Henry Kissinger đi lính trong Đệ nhị Thế chiến, sau lên làm cố vấn an ninh quốc gia cho Tổng thống Richard Nixon. Về sau tiến sĩ Henry Kissinger khai mạc hòa đàm Ba Lê (không có chính phủ miền Nam hay Quân lực miền Nam). Suốt thời gian hòa đàm dưới sự giám sát chặt chẽ của Nixon, ngoại trưởng Kissinger “ráo riết đi đêm” với quân Bắc Việt. Người dân luôn dán mắt nhìn vô ti vi trắng đen, theo dõi công ty Pecten Việt Nam (là chi nhánh của Shell) đã sản xuất khoảng 1.500 thùng dầu thô/ngày, trong giếng dầu mang tên Pioncer sâu 4.500 feet dưới lòng biển. Hoan hô đại thắng! Một phái đoàn Mỹ có tên Project Concern, và phái đoàn Thanh Thương Hội Việt Nam do ông Lê Bá Công làm hội trưởng, hướng dẫn phái đoàn săn sóc y tế cho đồng bào Thượng tại miền Nam Việt Nam. Phái đoàn nầy được đồng bào kính trọng và hoan hô nồng nhiệt.
Ngày 27/1/1973. Trong chương 2 điều 2 tại nhiều năm hội nghị, sau đó Hiệp định Ba Lê đã ký kết đình chiến: Ngưng bắn. Ấy thế mà vào ngày 9 Tháng 3 năm 1974 Việt cộng câu súng 81 ly vào trường Tiểu học Nhị Quý, Cai Lậy, Tỉnh Định Tường, giết 32 em học sinh nhỏ, và hơn 50 em học sinh khác đã bị thương la liệt và trầm trọng. Vô số trẻ em bị chết oan, thật đau đớn vô cùng thảm thiết.
Ngày 11/3/1975. Mất Ban Mê Thuột. Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2, ra lệnh quân đội triệt thoái khỏi Pleiku – Kontum (do chỉ thị của TT Nguyễn Văn Thiệu).
Ngày 19/3/1975. Một Tiểu đoàn của Trung đoàn 43 Bộ binh đóng chốt phòng ngự tại Định Quán, quanh vùng phụ cận núi Chứa Chan – Gia Rai, Tiểu đoàn nầy anh dũng đánh trả đối phương rất phi thường.
Ngày N+5, 21/3/1975. Triệt thoái cuối cùng Lực lượng Quân đoàn 2 khỏi Cao Nguyên, trên tuyến đường Liên tỉnh lộ B.
Ngày 22/3/1975. Tỉnh Quảng Đức thất thủ.
Ngày 23/3/1975. Công binh VNCH làm xong chiếc cầu dã chiến. Lực lượng Quân đoàn 2 cuối cùng vượt qua sông Ba, triệt thoái về Phú Yên.
Ngày 25/3/1975. Các đơn vị Quân đoàn 1 Quân khu 1 (Việt Nam Cộng Hòa) triệt thoái ra khỏi Huế.
Đêm 28/3/1975. Lực Lượng hùng hậu của Quân đoàn 1 do tướng Ngô Quang Trưởng lãnh đạo, đã triệt thoái khỏi Đà Nẵng.
Ngày 8/4/1975. Các phi trường Tân Sơn Nhứt, Cần Thơ, Biên Hòa, có nhiều chiến đấu cơ F5, oanh tạc cơ A37. Không một ai mà không nghe đồn ầm lên là: từ Lâm Đồng dọc theo rặng trường sơn, sông La Ngà chảy từ khu Tánh Linh, qua phía nam Định Quán, Rừng Sát ra cửa biển Cần Giờ: Đang bị đe doạ trầm trọng. Người ta lại đồn máy bay oanh tạc dinh độc lập hụt hay sao đó? Bây giờ thì chuyện không nói có, chuyện có nói không. Chả ai có thể đi đâu kiểm chứng, vì mọi ngã đường đông nghịt người không thể chen chân. Nhưng than ôi! Đúng thế thật, Trung úy Nguyễn Thành Trung, quê ở Bến Tre, đã bay chiếc F5 cất cánh từ Biên Hòa về thả bom xuống dinh Độc Lập. Phi cơ mang 4 trái bom. Y thả 2 trái bom trước bị rơi ra ngoài sân dinh.
Việt Nam Cộng Hòa có Sư đoàn 18 tăng cường Lữ Kỵ binh: Sư đoàn 5 Thiết giáp. Các Liên đoàn Biệt Động Quân từ Quân khu 1, chuyển về Quân khu 2 để bảo vệ Xuân Lộc, do Chuẩn tướng Lê Minh Đảo là Sư đoàn trưởng Sư đoàn 18 đảm nhiệm. Trận đánh vô cùng ác liệt bắt đầu xảy ra giữa quân đội miền Nam Việt Nam với Quân đoàn 4 và Sư đoàn 6 Chủ lực Quân khu 7 của Cộng sản Bắc Việt.
Ngày 10/4/1975. Hai Trung đoàn 43 và 48 (của Sư đoàn 18 Việt Nam Cộng Hòa) và một Lữ đoàn Dù. Lữ đoàn 3 Kỵ binh, từ Biên Hòa ra Xuân Lộc tiếp ứng. Giao tranh ác liệt dữ dội mạnh mẽ. Đường 12 bị cắt đứt là: Xuân Lộc – Biên Hoà & Xuân Lộc – Bà Rịa.

Ngày 17/4/1975. Mất Phan Rang.
Ngày 18/4/1975. Mất thị xã Phan Thiết và toàn tỉnh Bình Thuận. Thành phần chính phủ do Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lãnh đạo đã xảy ra đột biến. Mặc dù vậy tổng thống Thiệu họp báo, lên Truyền thanh, Truyền hình đọc hiệu triệu vấn an quốc dân đồng bào. Đài phát thanh cho nhai đi nhai lại bản tin nầy suốt cả tuần.
Ngày 19/4/1975. Bình Tuy sống trong sôi động. Giao tranh ở tuyến đường số 1, từ phía Đông và Đông Bắc Sài Gòn, tới Trà Võ, Bàu Nâu, Gò Dầu Hạ.
Ngày 20/4/1975. Khu Rừng Lá, (cách Xuân Lộc độ 20km) coi như mất liên lạc: Bộ Tổng Tham Mưu, Sân Bay Tân Sơn Nhứt, Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, Tổng Nha Cảnh sát, vân vân... (Thủ đô Sài Gòn có 12 Quận Nội thành: Bình Thạnh, Phú Nhuận, Tân Bình, Gò Vấp. 6 quận ngoại thành: Hóc Môn, Củ Chi, Thủ Đức, Bình Chánh, Nhà Bè, Duyên Hải). Đều báo động đèn đỏ 100%. Bộ Giáo Dục ra lệnh đóng cửa không thời hạn tất cả các trường: Tiểu học, Trung học, Đại học trong toàn lãnh thổ tại miền Nam Việt Nam.

Ngày 21/4/1975. Hằng triệu triệu người già trẻ lớn bé ở miền Nam Việt Nam chồm tới bu quanh nhìn sững vào vô tuyến truyền hình. Toàn dân lắng nghe miết mãi. Khoảng nửa giờ sau vị nguyên thủ quốc gia: Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chính thức tuyên bố từ chức, ông trở về với quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Ôi! Bàng hoàng sững sốt. Vì; hằng triệu trai trẻ lính tráng, quân đội và dân tộc Nam Việt Nam (có bốn nghìn năm văn hiến quyết chiến đấu, hy sinh đến giọt máu cuối cùng trên chiến trường) tin vào chính phủ Nguyễn Văn Thiệu mà. Từ khi nền Đệ Nhất Cộng Hòa sụp đỗ, thì tất cả mọi thứ trên đời, trật tự xã hội bị đảo lộn tùng phèo sao?Hồi xưa, nhà bác học lẫy lừng Pierre Curie khám phá ra chất phóng xạ radium vào năm 1900. Và, trước khi ông Mc Robert Namara cho trắc nghiệm khai quang hằng loạt chất độc màu da cam (Agent Orange), để tiêu diệt cỏ, hay tiêu diệt đối phương (?!). Thì ngày nay, Tổng thống Thiệu đã lưu lại danh thiên cổ gì cho núi sông? Khi mà ông Trạng Trình đã nói: “Bắc hữu kim thành tráng. Nam hữu ngọc bích thành”. Cố mà gìn giữ Việt Nam keo sơn gắn bó. Thật ra, Tổng thống Thiệu làm tổng thống 2 nhiệm kỳ, đã thành lập đảng Dân Chủ. Nhiều lần Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lên đài truyền thanh và truyền hình mạnh mẽ đọc diễn văn; trong đó có những câu tuyệt vời bất hủ:
– Đừng nghe những gì Cộng-sản nói, hãy nhìn kỹ những gì Cộng-sản làm!
– Ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng-sản.
– Công đức ngàn đời con tố mẹ, tình nghĩa trăm năm vợ tố chồng.
– Đất nước còn, còn tất cả; Cộng sản thắng, mất tất cả.
– Tôi mà tham nhũng, thì cái chính phủ này sẽ sụp đổ chỉ trong 3 ngày!
– Nếu Hoa Kỳ không viện trợ cho chúng tôi nữa, thì không phải là một ngày, một tháng hay một năm, mà chỉ sau 3 giờ, chúng tôi sẽ rời khỏi Dinh Độc Lập!
– Làm kẻ thù của Mỹ thì dễ, làm bạn với Mỹ thì rất khó.
– Sống không có tự do là đã chết.
– Mỹ còn viện trợ, thì chúng ta còn chống Cộng sản.
TT Nguyễn Văn Thiệu hùng hồn khẳng định tuyên bố “bốn không” rất chí lý:
1- Không thừa nhận Cộng sản.
2- Không lập chính phủ liên hiệp.
3- Không trung lập hoá miền Nam Việt Nam.
4- Không nhường một tấc đất cho Cộng sản.
Tin đồn đã rùm beng:
1- Việt Nam trung lập.
2- Chính phủ Việt Nam có 3 thành phần.
3- Miền Nam Việt Nam bị miền Bắc “giải phóng” lan nhanh (chứ chả phải như lời Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ hô hào: “Xung phong, Bắc Tiến”). Tổng thống Thiệu đã ủng hộ chương trình “Người cày có ruộng”, rầm rộ khuyến khích nông dân, củng cố lúa Thần Nông IR 3 và AR 8. Nhờ thế kho vựa miền Nam dư thừa lúa gạo. Việt Nam sản xuất gạo đi các nước. Sau năm 1967 do sự quậy phá của Cộng sản Bắc Việt, nên nông dân thuộc các tỉnh miền Nam, miền Trung, Cao Nguyên, không thể cày cấy, gieo trồng nhiều. Do đó miền Nam Việt Nam bị khan hiếm lúa. Kinh tế hạn hẹp, cộng thêm an ninh không an toàn yên ổn. Chính trị, kinh tế, tham nhũng, bè phái, bị đe dọa khiến miền Nam suy thoái trầm trọng. Bây giờ miền Nam Việt Nam phải nhập cảng gạo và “binh khí”, xin viện trợ tiền bạc vào Nam Việt Nam. Là vậy!

Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu từ chức. Phó Tổng thống Trần Văn Hương lên thay thế! Thành phần nội các do cụ Trần Văn Hương đảm nhận được mấy ngày vắn vỏi.
Ngày 22/4/1975. Đường quốc lộ 4 nối liền Sài Gòn – Cần Thơ, các hướng Tây Bắc, Đông Đông Bắc, Đông Đông Nam, Tây Tây Nam bị cô lập với Sài Gòn.
Thứ Tư ngày 23/4/1975. Đô Đốc Noel Gayler Chỉ huy trưởngHạm đội Thái BìnhDương đã lập cầu không vận Sài Gòn – Đệ Thất Hạm Đội (trong chương trình di tản người Mỹ và người Việt Nam ra đi), đang đậu ngoài khơi Vũng Tàu, người ta nghe & phao tin sẽ di tản khoảng vài ba trăm ngàn người Hoa Kỳ và người Việt Nam. (!?)
7 ngày đen tối nhất. Thứ Sáu ngày 25/4/1975:
Đêm 24/4/1975. Khói lửa bạo tàn đã gây đau khổ quá sức, hằng triệu dân đen lầm than khốn đốn, cơ cực. Miền Nam Việt Nam dỡ sống tức tưởi, dỡ chết không kịp nhắm mắt, không thể há miệng than Trời! Chắc chắn là chính phủ Nguyễn Văn Thiệu & thành phần nội các đều nghe bùi tai về tướng cố vấn Lục quân Mỹ Weyand gián tiếp khuyên chính phủ Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho Quân đội miền Nam Việt Nam bằng mọi giá phải tử thủ! Toàn thể nam nữ thanh niên trai trẻ, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã vâng lời ở lại giữ gìn từng pháo đài bị vây hãm, giành lại từng tấc đất quê hương ta, quyết phục vụ dân tộc và tử thủ vì dân tộc Việt Nam! Thì tin đồn chuyện Tổng thống Thiệu bỏ rơi dân tộc, bỏ quê hương đất nước, chỉ là tin đồn nhảm nhí! Khi chung cuộc kết thúc trong bi thương thế ấy, ai nở ra đi phản bội dân tộc, ai lìa bỏ quê hương cẩm tú giàu đẹp sao? Ai đành cao chạy xa bay mưu tìm cho chính mình sự sống riêng, phủi tay trong thau men nước người cho đành?! Nơi chốn xa lạ đó, ai có dịp lắng nghe tiếng nói của hiền dân vô tội gào than kêu khóc? Ai tận mắt xem đồng bào đau thương bị cấp lãnh đạo bỏ rơi, dân đang sống quằn quại trong cơn lốc chính trị kinh hoàng vỡ vụn? Toàn dân sẽ chết thảm dưới cơn sóng thần cuồng phong dữ dội nhất lịch sử Việt Nam nầy. Họ làm sao đành đoạn phủi tay bỏ lại quê hương và dân tộc cho đành?!
Sáng sớm bạn Tonny Tơn từ Hạ Nghị Viện tất tả chạy về nhà, đã khẳng định với chúng tôi về việc Tổng thống Thiệu và đoàn tùy tùng thân tín đã bôn tẩu bỏ nước ra đi!!! Người ta lại đồn ầm lên là ông Thiệu chở theo mấy chục tấn vàng của quốc gia (?!). Làm sao cõng cho nỗi hỉ?! Chuyện ấy rất khó tin, không bao giờ tin! Nhưng khuya thứ Sáu, ngày 25/4/1975 đương kim Tổng thống Trần Văn Hương lên đài Truyền thanh Truyền hình chính thức tuyên bố: “Gia đình Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, và một số thân tín trong chính quyền đương thời đã chính thức rời khỏi Việt Nam, bay đi ngoại quốc ngày 24/4/1975”.Ôi! Sự đau đớn ấy có thật ở phi trường Tân Sơn Nhứt là: Tướng Timmes, Đại sứ Martin, một số đoàn tùy tùng đông đảo “viên chức lừng danh cao cấp nhất” của chính phủ miền Nam Việt Nam Cộng Hòa đang làm cuộc “tẩu tướng”. Họ nôn nao lo âu đứng xớ rớ ở đó từ rất lâu, chờ đợi sẵn sàng để dọt đi. Một chiếc xe Mercedes chở ông Nguyễn Văn Thiệu từ bến Bạch Đằng chạy nhanh vào phi trường Tân Sơn Nhứt lúc 21 giờ 30 đêm 24 tháng 4 năm 1975. Chung quanh “các ngài” đông đúc nôn nao ung dung ra đi, có lính Thủy quân Lục chiến Mỹ đứng dàn ngang dàn dọc bu quanh, để bảo vệ phái đoàn “các ngài” tống lên chiếc phi cơ C118 lịch sử của Không quân Hoa Kỳ. Ông Thiệu, Tướng Khiêm và đoàn tùy tùng lẹ làng tót lên máy bay, không hề ngoảnh lại. Hỡi Ôi là Trời ơi Đất ơi!!!

Thứ bảy ngày 26/4/1975. Ông Khiêu Samphan dẫn một phái đoàn Trung Quốc từ Mimót Nam Vang, đi qua ngả Xa Cam. Tại đó có một Đại tá Không quân người Pháp, một Thiếu tá Pháp, họ trực thuộc Nha An Ninh Tình báo hải ngoại Pháp (SDECE). Họ đưa phái đoàn Trung Quốc nầy vào ở trong tòa Đại sứ Pháp Sài Gòn (!?) Vẫn ngày 26/4/1975. Bão lửa chiến tranh xâm lược đã ùa vào xâm chiếm các khu sau đây: Long Khánh từ hướng Đông Bắc đi SàiGòn xa khoảng 80km. Long Khánh nằm giữa 2 quốc lộ: 1 và 20, 105 kinh độ đông,11 vĩ độ bắc, ở múi giờ 17 GMT, Giáp giới mặt Đông hướng Đông Đông Nam về Sài Gòn. Long Khánh có đỉnh núi Gia Ray cao 916 mét, là tấm bình phong che chắn thuận lợi cho toàn vùng. Muốn đi từ miền Cao Nguyên, hay từ miền Trung vào Sài Gòn xuống miền Tây, tất cả loại xe đều phải đi ngang qua vùng Long Khánh. Sông Ray từ phía Nam của núi Gia Ray có đường đi qua Xuyên Mộc, Trảng Bom, Hố Nai, Biên Hòa, Long Thành, Nước Trong, Đức Thạnh (Bà Rịa). Lang qua vùng Phước Tuy, Xuyên Mộc, Đất Đỏ.Về hướng Tây Tây Nam Bến Lức, Tân An, Trung Lương, Tân Hiệp, Long Định, Giao lộ 4, Cai Lậy đi An Hữu, Xuống tới Lộc Giang, Vàm Cỏ Đông qua Tây Vĩnh Lộc, Mỹ Hạnh. Hướng Bắc thì các đoạn đường 16 Phú Lợi, Thủ Dầu Một. Tây Bắc về Đồng Dù, Hóc Môn.
Chủ Nhật ngày 27/4/1975. Mất thật rồi Bà Rịa, Phước Tuy, Nước Trong, Trảng Bom, Suối Đĩa, Cầu Rạch Chiếc, Rạch Cát, Cầu Bình Phước, Quán Tre lan ra tận xa lộ Đại Hàn. Vẫn ngày 27/4/1975. Người ta bịa đặt ra: Caritas, Usaid, Usom, Juspao, Cords, The Asia Foundation, IUS, chỉ là những thành phần ấy vào miền Nam Việt Nam do CIA cầm đầu trá hình. Nay họ lo đóng cửa và chuồn bay đi hết rồi! Tất cả mọi liên lạc trong nội thành Sài Gòn với ngoại thành, đi các Tỉnh, hầu như tê liệt, trục giao thông chính dẫn đến phi trường, hải cảng, các bến xe miền Đông, miền Tây, miền Trung, hoàn toàn ứ đọng và “bế quang tắc lộ”. Chao! Lúc đó thì người người tụm trăm tụm ngàn ở các nẽo đường chính, để nghe ngóng thăm dò tin tức. Toàn là những giả thiết, những tin đồn hoang mang. Người ta nhốn nháo, ồn cả lên, chèn ép nhau, xô đẩy nhau mong tìm đường chạy thoát thân, mong khỏi bị trụ lại nơi thành phố đông nghẹt người, từ các nơi dồn về Thủ đô Sài Gòn hối hả, ngột ngạt, nghẹt hơi. Mọi tiếng động đều đinh tai nhức óc nổi hoài thâu đêm suốt sáng, không bao giờ ngưng. Người ta muốn điên vì đủ thứ chuyện thay đổi liên tục xảy ra từng giờ trên tivi, tin đã xấu càng xấu thảm xấu tệ biết bao! Toàn là những tin chả lạc quan vui vẻ gì!
Thứ Hai ngày 28/4/1975. Sân bay Tân Sơn Nhứt to lớn đồ sộ sầm uất nhất miền Nam Việt Nam đến thế, có F5, hoặc A15, A37, C130. Mà nay chỉ còn có một số ít bom Daisy Cutters, và những phi cơ dân sự thường dùng trong nội địa, có phi cơ dân sự cũ từ thời Pháp để lại dùng bay ra ngoại quốc (không kể những phi cơ quân sự hiện có). Ngày 28/4/1975 Phi công Nguyễn Thành Trung (y thả bom 2 lần, lần đầu y thả ở dinh Độc lập bằng F5, y cất cánh từ phi trường Biên Hòa). Lần sau vào chiều 28/4/1975: Một tốp phi cơ Dragonfly A37 (phi đội Quyết Thắng) do phi công Nguyễn Thành Trung & Nguyễn Văn Lục dẫn đường, ép Trần Văn On & Nguyễn Văn Xanh bay cùng mấy tên “giặc lái” Từ Đề, Mai Vượng, Hán Văn Quang, họ xuất phát từ phi trường Phan Rang bay về thả bom ở phi trường Tân Sơn Nhứt. Nhiều tiếng nổ long trời lở đất đâu đó vang rền, khói lửa ngùn ngụt bốc cháy, đen nghịt thành phố.
Ngày 28/4/1975. Tổng thống Trần Văn Hương lên nắm chính quyền quốc gia Việt Nam được bảy ngày (7) thì tuyên bố rút lui. Theo yêu cầu của Lưỡng viện Quốc hội Việt Nam Cộng Hòa, cụ Trần Văn Hương sửa “hiến pháp, hiến dâng” chức “tổng thống không dân cử” cho Đại tướng Dương Văn Minh. Chả hiểu sao cụ Hương tụt lẹ xuống, cho ông tướng Dương Văn Minh trồi lên nắm chính quyền nhanh như chớp!? Việt Nam như trái bóng tròn, khi thì đá dưới gót chân, khi đội đầu, khi quay giò lái đá qua đá lại rồi “sút” bóng lăn xuống vũng bùn. Một chính phủ sắp đến ngày diệt vong rồi hay sao, mà suy tàn đến độ xót xa thảm thiết tột cùng! Làm gì thì cần ngồi lại thân thiện bên nhau và chia sẻ mọi quyền lực. Cần một lòng trung dũng đoàn kết vì nước vì dân. Thì toàn dân và toàn quân sẽ đứng vững như kiềng ba chân. Miền Nam Việt Nam sẽ không bị sụp đỗ toàn diện đâu. Lúc nầy Tổng thống Dương Văn Minh nói rất hùng hồn: “Không bao giờ đưa miền Nam Việt Nam cho Việt cộng”.

Thứ Ba ngày 29/4/1975. Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh trục xuất những người Mỹ cuối cùng phải đi ra khỏi đất nước Việt Nam. Chính lúc đó mất thật rồi: Nhơn Trạch, Thành Tuy Hạ, Cát Lái, Cầu Sông Buông, Long Bình, Biên Hòa, Phú Lợi, Lai Khê, Bến Cát, Bình Dương, Tân Uyên, Lái Thiêu, Gò Vấp: Hướng Tây Bắc Đồng Dù, Củ Chi. Hướng Tây Tây Nam Hậu Nghĩa, Tân Túc, Tân Hòa Phú Lâm. Tin tức mỗi ngày mỗi giờ một xấu hẳn đi. Thế là trong thành phố Sài Gòn vốn dĩ ồn ào náo nhiệt, bon chen sợ hãi, càng tăng thêm nhốn nháo, xôn xao, xớn rớn hãi hùng hơn. Sài Gòn chìm trong biển tình đau thương tràn ngập mịt mùng. Sài Gòn như rắn mất đầu, người người xớn rớn ồn ào như núi lở, như động đất, như triều cường sóng thần vùi dập. Sài Gòn đã mất đi vẽ hào nhoáng thanh lịch sang trọng xa hoa của hòn ngọc viễn đông xưa. Thành phố ấy giờ đây ồn ào náo nhiệt hỗn loạn, bụi bặm và rác rưỡi ụ từng đống to tướng. Sài Gòn càng hổn loạn, hoang mang lo sợ bùng lên dữ dội. Nhất là những gia đình giàu sang quyền quý ở Sài Gòn, cư dân gốc Trung Hoa đã và đang sinh sống ở Chợ Lớn hãi hùng huyên náo loạn cả lên. Thuở xa xưa người Hoa có quốc tịch Anh, được người Pháp (đang cai trị nước Việt Nam lúc bấy giờ), cho phép người Hoa từ Singapore nhập cư vào Việt Nam. Họ giàu xụ! Có tiền rừng bạc bể nên độc chiếm thị trường kinh tế, thương mại sầm uất ở một giang sơn Chợ Lớn!
Dinh Độc Lập trước kia theo bản vẽ của kiến trúc sư Hermite, là dinh của Thống Đốc Pháp Charles Le Myre De Vilers rất uy quyền, xây cất năm 1875. Nhà văn Jules Boissière đã nói: “Mounument dont s’honoreraient avec raison les plus fières villes du monde” (Tòa nhà ấy mà những thành phố kiêu hãnh nhất trên trái đất, sẽ lấy làm tự hào, thật là rất xác đáng). Dinh Dộc Lập và Sài Gòn đã lừng danh thành Hòn Ngọc Viễn Đông kể từ đó. Lúc xưa hai phi công Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc dội bom đã cháy Dinh Độc Lập, (vào tháng 2 năm l962), làm hư hại dinh. Tổng Thống Ngô Đình Diệm cho xây lại dinh Độc Lập. Gia đình Ngô Tổng Thống phải dời sang Dinh Gia Long an vị, chờ kiến thiết lại. Bản vẽ Dinh Độc Lập do đồ án của kiến trúc sư đô thị gia Ngô Viết Thụ (đoạt giải Khôi Nguyên La Mã) đảm nhiệm. Theo thiết đồ của Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, thì có hai vị Công binh là: Đại tá Nguyễn Văn Quý, Đại tá Điển điều động một đoàn Công binh Việt Nam xây dựng. Sau đó hoàn tất tốt đẹp. Tiền đình dinh Độc Lập có quảng trường Pigneau De Béhaine, có đại lộ rộng thênh thang rợp bóng cây, có tượng Đức Mẹ ngự ở trước công viên Hòa Bình làm bằng đá hoa trắc. Vương cung thánh đường Đức Bà Sài Gòn kiến trúc theo lối roman và gothic, thế kỷ XII, thánh đường xây gạch trầm màu hồng có chiều dài 93m, rộng 35m, cao kể từ dưới đất lên ngọn tháp 57m, có 6 cái chuông to. Tất cả vật liệu chở từ Pháp qua Việt Nam, ngày 11/4/1880 là khánh thành. Thuở còn Tây cai trị nước ta, con đường có tên là Norodom chạy từ Dinh Độc Lập suốt tới khu Thảo Cầm Viên. Trong đó có Viện Bảo Tàng tên gọi là Blanchard de la Bross, do Pháp xây dựng năm 1929. Ấy thế mà...Hết rồi vẽ sạch sẽ bóng loáng thanh cao rộng rãi trên những phố Catina, đại lộ sang trọng Norodom xa xưa, nào là đường Lê Văn Duyệt, Trần Hưng Đạo, Hai Bà Trưng, Nguyễn Huệ, vân vân... thậm chí cả đường Duy Tân cây dài bóng mát có từng tốp mười tốp hai ba mươi người tụ tập lo lắng, bồn chồn xôn xao, hốc hác, băn khoăn đứng ngồi không yên, kể từ khi phi trường Tân Sơn Nhứt bị pháo kích.

* Ngày Thứ Tư hắc ám 30 tháng 4 đen tối năm 1975.
Sài Gòn nóng như một hoả lò. Càng ghê rợn hơn, tin từ đài phát thanh Sài Gòn loan báo kể từ giờ phút nầy: Thiết quân luật 24/24. Tình hình thủ đô Sài Gòn từ sáng tinh mơ vắng lặng như tờ, không giống một thành phố chết, là gì!? Cho đến ngày hãi hùng. Ngày đớn hèn bi thảm. Ngày tối đen hắc ám nhất lịch sử Việt Nam. Ngày đánh dấu than trầm uất, thống hận:
– 8 giờ:00 ngày 30-4-1975 – Sáng sớm, Tổng thống Dương Văn Minh lên Truyền thanh Truyền hình ra lệnh buộc các tuyến phòng thủ của Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ Phủ Tổng-thống không được nổ súng.
– 9 giờ:00 ngày 30-4-1975
– Ông Dương Văn Minh đọc diễn văn trên đài Truyền thanh: Yêu cầu Tòa Đại sứ Mỹ và văn phòng tùy viên DAO Hoa Kỳ, phải rời khỏi Việt Nam ngay lập tức.
– 10 giờ:00 ngày 30-4-1975: Ông Dương Văn Minh leo lên làm Tổng thống được ba ngày! (3), ông liền “mở cửa khẩu” kêu gọi Quân lực Việt Nam Cộng Hòa: “Ở đâu, hãy giữ nguyên vị trí ở đó”. “Ngưng chiến. Chờ bàn giao chính quyền miền Nam Việt Nam cho lực lượng Mặt Trận Giải Phóng vào chiếm”. “Chuẩn bị giao nạp vũ khí cho đối phương”.
Ngày 30/4/1975. Khi Trịnh Công Sơn hát lui hát tới bài “Nối Vòng Tay Lớn”, không có nhạc đệm trên đài phát thanh Sài Gòn. Không những là ngày uất hận “nối vòng tay tang chế lớn”, mà còn là ngày co giật từng cơn run kinh phong nhăn nhúm rúm ró teo tóp lại. Ôi! Quả đúng là có một phép lạ như điềm dự báo trước kia, khi con chim bồ câu đã đậu trên bàn thờ Đức Mẹ Fatima, ở trên khu vực giáo dân Đà Lạt, nơi thường cung nghinh rước ảnh tượng Đức Mẹ đến từng nóc nhà vào năm 1974. Người ta nói: “Con chim bồ câu tượng trưng cho sự hoà bình”. Nay “hoà bình” đã đến thật rồi sao?!

Dinh Độc Lập, vương cung Đức Bà và con đường Norodom độc đáo nầy, ấy vậy mà hôm nay đã do tướng Trần Văn Trà cầm đầu mặt trận Cách mạng Lâm thời 75 (!) tại Sài Gòn, cùng đoàn xe molotova rền rú ì ầm chạy đến cổng dinh Độc Lập lúc 11 giờ sáng. Khi ấy đại sứ Pháp tại Việt Nam là Jean Marie Mérilon, còn ở trong tòa đại sứ ở trên “đường Thống Nhứt”. Ui chao! Chao ôi! Sụp đỗ toàn diện một chế độ. Bàng hoàng cả một dân tộc Việt Nam. Chiến tranh hai miền Nam Bắc đưa con người bải hoải lết lết tới đường cùng cuối bờ vực sâu. Khi có những chiếc xe tăng ì ầm chạy trên các đại lộ chính, chở đầy bộ đội đầu đội nón cối, chân mang dép râu, cổ quàng khăn lau mặt, thân hình dắt đầy cành cây. Đoàn xe vượt qua cán nát chôn vùi nền Đệ Nhị Cộng Hòa do Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bôn tẩu lánh cư và do tân Tổng thống Dương Văn Minh ngồi trên ngai vàng lãnh đạo chỉ có 3 ngày!!! Quân Bắc Việt được sự hổ trợ tối đa của Nga và Tàu cộng cung cấp đầy đủ đạn dược, súng ống và xe tăng. Trong khi miền Nam Việt Nam bị Mỹ hứa lèo hứa cuội, rồi trở mặt phản bội, lãnh đạm bỏ rơi. Mỹ từ chối hết thảy, kể cả chính phủ miền Nam chỉ xin chi viện 300 triệu đồng. Cũng không! Toàn Quân miền Nam thiếu thốn đủ mọi thứ. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phải tự anh hùng oai dũng kiên cường chiến đấu, quyết liệt chống trả đến viên đạn cuối cùng, trong sự cô độc, vô cùng đắng cay chua xót và tuyệt vọng dường bao!!! Những Người Lính dũng cảm ấy chưa hề buông súng bỏ cuộc. Họ không bao giờ phản bội dân tộc và cương quyết ở lại giữ gìn quê hương Việt Nam dấu yêu. Cho đến một Ngày thứ Tư: 30/4/1975: Họ phải cúi gầm đầu bật khóc; vì buộc lòng phải tuân phục thượng lệnh. Đời sống ấy phơi bày cuốn phim cay nghiệt, có cảnh tượng kém thanh lịch, bóc trần những điều quá thật, làm tan nát đời nhau. Chẳng bao giờ xóa nhòa, tàn phai trong ký ức mọi người. Tan hoang kinh khủng. Đau đớn tột độ! “Hạnh phúc Hòa Bình” đến, vội vã chợt đi giật theo tấm áo đơn bạc. Lộ ra quá khứ trần trụi, hiện tại đọa đày, tương lai đen tối mịt mù. Vẫn hay, vô cùng nghẹn ngào cay đắng!!! Bách niên thương hải biến vi tang điền!
Tình là cái chi chi... hỡi chàng:

Con đường dốc đứng bên cạnh rừng đầy lá thông khô được sương chiều rửa sạch trơn, trơn bóng láng mướt ve vuốt đôi chân êm ái, mát lạnh khi mình dẫm lên, khiến Luật muốn ngã lưng nằm trên thảm nhung nâu nâu, mượt mà, mơ màng nhìn lên trời cao, xao xuyến nghĩ về... đất nước còn, thì người lính là con cờ thí thân trong chiến tranh, họ gánh trên vai biết bao cơ cực lầm than, nhọc nhằn, khổ sở, chua xót, đắng cay, trăm bề o ép. Trước đám sương mù dày đặc kia là tương lai mù mịt, là nơi con đường tiến thân để giành lại, giữ lại, không biết sẽ bắt đầu từ mấu chốt nơi đâu?! Lúc nầy, tình hình chính trị ở miền Nam Việt Nam xoay quanh cơn lốc chính trị kinh hoàng vô cùng, giống như hai dòng nước ngược đục ngầu xô vào nhau, toé lên thành những cơn triều cường sóng thần đảo điên nhất. Họ chẳng thể chí tình thiết tha yêu thương ôm trọn quê hương ở trong lòng, khi Trọng Luật cùng hầu hết quân nhân đã nghe lệnh cấp trên ban ra rành rành là: quân nhân cán bộ các ban ngành, thanh niên nòng cốt tuổi trẻ phải ở lại “tử thủ” tại mỗi đơn vị: từ đầu tháng Ba năm 1975 tới giờ phút cuối cùng (còn ông già bà cả trẻ con phụ nữ thì cho di tản ra khỏi Đà Lạt/Tuyên Đức). Tin như thế loan ra nhiều ngày, hầu hết ai ai cũng chắp bắp an tâm vững chí đồng lòng cương quyết trụ ở lại 24/24 giờ nơi những tuyến phòng thủ. Té ra, có nhóm người cao cấp đã làm cuộc tình lờ, lo cao chạy xa bay chuồn đi khỏi Đà Lạt... từ lâu, (từ khuya rồi anh ơi)! Kể cả ở Thủ đô Sài Gòn tự lúc nào đã lâu lắm rồi, họ rũ bỏ sau lưng sự đau khổ tang thương cùng khó ấy: cho người khác âm thầm ở lại chịu trận gánh gồng gian nan khổ đau, mà lính tráng trai trẻ chẳng hề hay biết. Bây chừ súng ống đạn mìn đang nổ dậy trời! Tưởng chừng như hai phe đang giàn quân ngoài mặt trận đánh nhau. Nhưng thật tình phía Việt Nam Cộng Hòa có lệnh rút lui, bỏ ngỏ, chứ nào có đánh đấm gì cho cam. Tai biến đến, khẩu lệnh chỉ rò rỉ ra, tức là láo pháo rỉ tai nhau về việc quân nhân triệt thoái rút bỏ Đà Lạt; trong vài giờ rất ngắn ngủi vào phút chót mong manh và hối hả, thì đám quân nhân thanh niên tráng niên nầy chưng hửng bàng hoàng trở tay không kịp. Đài phát thanh Đà Lạt giấu nhẹm chuyện các nơi khác đang lo cho quân đội và dân triệt thoái, đài chỉ phát ra những mục bình thường trong chương trình hằng tuần & vớ vẩn, đài phát thanh chẳng hề loan báo một tin tức thời sự nóng bỏng nào! Họ cũng chẳng tiếp vận đài phát thanh Sài Gòn như trước. Lúc biết ra cớ sự thì lính và dân không tìm thấy đường đi lối về nơi đâu, đi tới mắc thác, mắc hồ, đi lui mắc núi, mắc đèo. Cái cửa ngỏ hậu phương, kho lương thực, quân trang quân cụ, khu nầy, sở nọ, ty kia mở toang hoang, kể cả nhà thường dân vắng chủ đều bị cướp bóc, đốt phá cháy rụi. Một phần do họ hủy diệt hồ sơ mật, một phần do nhóm tự xưng là “cách mạng” khích động kẻ gian thừa nước đục thả câu mặc tình tung hoành thao túng. Đám trai trẻ cương nghị và oai dũng tử thủ nầy thì như rắn mất đầu, như đàn gà con mất mẹ. Sáng ngày 1 tháng 4 năm 1975 Luật và “nhóm tình hờ” tử thủ quyết giữ gìn quê hương cuối cùng đành phải rời bỏ Đà Lạt (mới biết tin tức triệt thoái chậm chạp, trể tràng bị giấu kín bưng), thì mạnh ai nấy dọt, họ luống cuống hốt hoảng băng đèo vượt suối chạy thừa sống bán chết tan tác trong rừng sâu. Thế là không còn cảnh tình đồng đội keo sơn như cá với nước, như cây cần đất rễ cây liền cành, mà thân ai nấy lo, hồn ai nấy giữ, mạnh ai nấy chạy thiếu sống bán chết, tự lo thoát thân. Luật cảm thấy chua xót đắng cay, nhục là ở chỗ đó. Tệ là ở chỗ đó. Đau là quặn thắt lòng ở chỗ khúc ruột thừa. Nhóm Luật là những người lính chiến đấu dũng cảm cuối cùng lìa bỏ quân ngũ, bỏ đơn vị, ngao ngán mặc bộ đồ dân sự để dễ bề đi đứng, tự lo cứu chính bản thân trong cơn biến loạn ngặt nghèo lâm nguy hấp hối. Lúc bây giờ không có người chỉ huy thì quan như lính có nhiều ý kiến, ý cò, tự vạch ra cho mình con đường sống mới. Luật cùng 6 anh khác vứt bỏ hết tất cả lon lá mũ mão hành trang rối rắm trên đầu trên vai, chỉ mang một đôi giày ba ta cũ, một bộ quần áo dân sự, mấy chục ngàn tiền lương, một chiếc đồng hồ Omega, một cái nón thường dân đội đầu. Họ xin đi chuyền từng đoạn xe đò, xe tải, xe GMC từ Đà Lạt xuống tới Phan Rang, xe hết xăng họ chạy bộ chen lấn nhau mà xéo bước, họ thở dồn dập gò lưng chạy thục mạng từng đoạn ngắn, ra tới Cam Ranh thì nhóm Luật đã bị lạc mất nhau.Người đi lánh cư đông kinh khủng bất ngờ gặp gỡ nhau giữa trùng trùng lớp lớp, trên bước đường chạy loạn, những kẻ sống còn mong vượt qua gian nguy khổ ải. Ngày chạy bộ với những người dân tay xách tay mang đùm đề vợ con, chân thấp chân cao khổ ải mệt nhoài. Đêm đêm ngủ với người thoi thóp, nằm với những xác chết cứng đơ giữa đồng không mông quạnh. Luật mong tìm làn hơi ấm bên người lân cận, hầu hổ trợ tinh thần, nương nhờ lẫn nhau. Nào ngờ, khi hoàn hồn, bừng mở mắt ra ngoảnh nhìn lại, mới biết đó chỉ là những thây ma. Luật lả người đi vì sợ hơn vì đói khát. Phải! Giữa cảnh màn trời chiếu đất, trong tay không có một cây que để phòng thân tự vệ. Mà cuộc sống vẫn vô cùng mong manh và hối hả. Con người trở thành da bọc xương ngơ ngơ ngáo ngáo ngố ngố ngờ nghệch chưa biết mò mò đi đâu, và không tri thức giữa những nấm mồ xanh đắp sơ sài tươi màu đất chưa non cỏ. Màn đêm tiếp nối bóng tối và đồng lỏa với mọi tội ác. Đã thế, đêm đêm từng đàn chó hoang ốm đói tong teo gầm gừ cắn xé nhau, tranh giành xương cốt nhai ngấu nghiến, nghe kêu rào rạo từ mấy thây ma cứng đơ thum thủm. Bầy chó nhe răng tru hú lên từng hồi thật hoang dại dã man, nghe rợn tóc gáy. Luật đối mặt với tận cùng bi thiết thảm sầu cay cực, chiến tranh tàn ác đã lột da con người, vô cùng trần trụi thô thiển đến tận xương tủy. Và, những vết thương hoác miệng từ dĩ vãng, hiện tại và có thể trong tương lai... đã để lại trong lòng Luật nóng bỏng, sâu sắc bùng sôi nhói buốt rung lên từng cơn quặn lòng, đau khủng khiếp.

Khi bình tĩnh lại đôi chút, Luật đã từ tốn kể lại chuyện anh chạy nạn từ Đà Lạt về Cam Ranh, Nha Trang, anh đi bộ nhiều ngày rất khổ sở điêu đứng gian truân không tả xiết để chạy vô Sài Gòn. Luật kể cho vợ con và gia đình chị Sáu, chú Ri nghe những điều rùng rợn không sao tả hết vào những giờ phút cuối, trước khi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa triệt thoái khỏi Đà Lạt. Nghe mà rùng mình. Ở lại nhà chị Sáu 2 ngày, sau đó Luật thu xếp cho vợ con lên Sài Gòn. Chúng tôi đến ăn ở tạm tại nhà dân biểu Toneh Tẻh. Bởi Luật thường đi công tác với những ông bà dân biểu Thượng Viện, Hạ viện, Nghị viên, Luật ưa về hội họp, thăm viếng anh Nguyễn Đức Xích (là bà con ruột thịt bên ngoại của tôi), anh tiếp xúc với các vị Tướng Tá “có tầm cỡ” không hà. Nói chung, Luật chí tình nhiệt tâm với bạn, không quản ngại bỏ tiền túi ra, bao cho bạn đến bến đến bờ. Nhất là Luật đã chu toàn, ráo riết lo vận động cho anh bạn thiểu số Toneh Tẻh đắc cử dân biểu vào quốc hội, làm tôi mệt lắm. Trong thời gian Toneh Tẻh vận động tranh cử, tôi luôn “hầu bạn” cơm ngon canh ngọt, cá tươi chiên dòn, thịt heo kho trứng vịt, thịt bò lúc lắc, bún bò giò heo, bánh xèo, phá lấu, xôi thập cẩm tự nấu, vân vân... Các thức ăn để trên bàn có lồng bàn đậy kín hẳn hoi, (hoặc chờ họ về mới hâm nóng). Mẹ con tôi ăn cơm trước, họ không bị mẹ con nheo nhóc quậy phá ồn ào. Khi nào “hai ba bốn ông tướng” ấy về, thì họ vui vẻ ung dung rỉ rả ăn uống no say, nói chuyện thời sự, chuyện chiến tranh, chuyện thế giới, kể cả chuyện tiếu lâm. Đôi khi Tẻh ở dưới quê tại Đơn Dương bất ngờ vào nhà tôi nghỉ ngủ. Dù sớm hay muộn, thế mà tôi phải bò dậy ra vườn rượt bắt con gà, (con vịt), vô bếp cắt cổ, mổ bụng con gà (hoặc con vịt), làm thức ăn hầu tiếp bạn của Luật, tôi lo cho bạn một vài năm như thế. Gia đình Tẻh nghèo lắm, không thể có tiền đi vận động đây đó xã giao. Thế là Luật đứng ra làm đầu tàu (trong một nhóm bạn thân nhiệt tình lo cho Tẻh đầy đủ hết biết). Họ lo cho cá nhân Tẻh lên danh phận có chức có quyền đã đành. Ấy thế mà cả gia đình vợ con (đông đúc những 10 mạng) của Tẻh, thì nhóm Luật cũng xoay xở đi xin tiền các nhà hảo tâm, ân nhân, xin ở trại cưa, chủ đồn điền... đâu đó, hầu cung ứng cho gia đình Tẻh mỗi tháng. Tẻh hứa hẹn chắc chắn khi đắc cử thì anh sẽ... “chu đáo lo cho dân”. Nhiều tháng qua nhóm người nầy (Luật, Ngọc, Minh, Trí, Cương v.v...), không đi xin ai được, họ cùng nhau ứng tiền túi ra đưa cho Tẻh. Rồi như “thông lệ” cứ đến tháng thì bà vợ của Tẻh đến nhà tôi lấy tiền. Bà chị nói:
– Chị ui! Ông Tẻh ra đi, có nói tui đến nhờ bà chị giúp tiền mua cơm gạo. Nhà tui hết sạch mọi thứ rồi.

Ông bà Tẻh làm y như tôi là ngân khố, kho gạo, vựa lúa, tôi có bổn phận sự, trách nhiệm vụ lo cho gia đình họ ấm no!? Nói với chị Tẻh thiểu số nầy hoài, thật mệt. Vì chị ngu ngơ dấm dớ mà khôn vặt không chịu thông cảm, chị cứ đứng ù lì, ù ù cạc cạc ranh ma, ì thộn ra đứng chần dần cả buổi trước cửa, chị không dám hay không chịu vô nhà. Nói nào ngay nhà tôi “nom rất bề thế” ở mặt tiền đường Đoàn Thị Điểm ba tầng lầu đúc bê tông cốt sắt, nền láng gạch bông bóng lưỡng đầy đủ tiện nghi, rộng 5m sâu (dài) 40m phủ bì, còn dư 10m cho sân sau rợp bóng cây. Chị Tẻh cứ đứng hoài đứng hủy chờ đến khi nào tôi văng tiền, văng gạo (hoặc văng “cái nhu cầu của chị”) ra, thì chị mới chịu đi. Chị Tẻh chả hiểu rằng “anh chị Tẻh” đối với riêng tôi không là cái đinh, cái thá gì. Vậy mà, tôi phải cắn môi bặm miệng nghiến răng trèo trẹo để “giao hảo” vì danh dự và “lệnh lạc” của đức ông chồng! Có nhiều lần, Luật về nhà nói tôi đưa tiền cho Tẻh “mượn”, để anh ta đi lo công chuyện áp phe áp phẩy chi chi đó. Vài ba lần đầu, tôi bấm bụng lấy tiền lương của gia đình trích ra đưa cho Tẻh mượn. Nhưng hôm nay, tôi biết là trong tủ chỉ còn đủ tiền đi chợ nửa tháng. Nếu đưa cho Tẻh mượn nữa, thì có lẽ nhà mình nhịn đói vào tuần cuối tháng mất (đưa cho Tẻh mượn hoài, coi như chả bao giờ ảnh nhớ trả nợ)̣. Tôi làu bàu:
– Làm như nhà mình là kho bạc, hay có tiền núi sao?
Tôi không chịu xì tiền ra thì Luật cự nự, mắng nhiếc tôi:
– Lên chùa thấy bụt muốn tu. Về nhà ngó vợ muốn xù em ngay. Bấy lâu vắng mặt khát khao. Bây giờ thấy mặt muốn cào mặt ra!!! (1) Người gì mà ngu lạ, chỉ biết tham tiền, phải thả con tép mới câu được con tôm hùm. Em có tiền là mờ mắt, chả biết giúp người hoạn nạn.

Úi cha! trong lòng tôi ức lắm giận sôi lên. Tôi đi dạy về mệt đừ vì lo làm cơm và giặt quần áo dưới bếp, nghe anh nói mà tai lùng bùng, mắt tóe lửa, giận run. Bỗng dưng ở đâu Luật vất vả mời, rước, cõng, tha “cái nợ đời bạn với bè” về nhà nầy, cho bận tâm điêu đứng vợ con quá sá vậy hổng biết!? Tôi chưa kịp phản ứng, thì Luật nhảy tót một lần hai bậc cấp lên lầu, vào phòng ngủ, anh móc túi quần lấy chìa khoá mở tủ rột rột, Luật gom tiền và hầm hầm đùng đùng bỏ đi một nước. Bạn là trên hết, bạn là số một của đời Luật mà. Tôi đứng dậy vội lau khô tay, lật đật leo lên cầu thang lầu chạy vô phòng, mở tủ ra kiểm: tiền bạc vòng vàng xuyến nhẫn lại xem. Trong tủ vòng vàng xuyến nhẫn còn nguyên, duy chỉ còn 800 đồng thì có thấm vào đâu so với nửa tháng chợ!? (không kể nếu có những bất trắc, ốm đau, thuốc men, mua sữa cho các con, hay những chi tiêu vặt cần trong gia đình, thì đào đâu ra đây hở trời!?). Tôi khổ hết biết, tức quá tôi đập tay xuống nệm bộp bộp, nằm úp mặt xuống gối, gào lên và bật khóc hù hụ. Luật vẫn luôn vô tình đến cái độ ấy: “Ai lo mặc ai. Ráng mà xoay xở. Ai chết mặc ai. Tiền nầy tao đem cho bạn bỏ túi”. Thật tình là tháng đó mình ên tôi vắt giò lên cổ chạy ngược chạy xuôi, chạy đi mượn tiền cô bạn, mượn anh chị, để bù đắp vào khoảng tiền Luật đã “xoáy” bằng được, đem đi cho bạn gây dựng sự nghiệp! Tức cành hông, điên tiết. Ấy thế mà tôi không đành “tình vờ bỏ anh”. Vì sao!?:
Dao phay kề cổ, máu đổ không màng.
Chết thì chịu chết, buông chàng không buông.
Phòng loan trải chiếu rộng thình.
Lăn qua đụng cái gối tưởng bạn mình, anh ơi! (cd)
Nhất là Luật nhiều lần ngọt ngào, đằm thắm nỉ non ngâm những câu thơ trữ tình (vã chăng do tôi mê thơ, mê đàn, mê hát, anh đánh trúng yếu điểm tim đen vợ) anh theo bén gót chân tôi, bám riết không hề “xa” nửa bước
Cho tôi hỏi đàn bà là chi rứa?
Là những gì rung động trái tim ta.
Làm cho ta cảm thấy nổi da gà.
Là gặp gỡ, xốn xang, là tiếng sét…
Là hợp “gu” vì cùng chung tính nết (!?)
Là âm thầm nhung nhớ lúc chia xa.
Là nụ hôn. Ôi rợn cả thịt da.
Là ẻo lả vòng tay nhưng rất chắc. (2)

Hoặc có nhiều khi Luật đã âu yếm ôm tôi vào lòng hun hít hú hí, khiến tôi “khoái” nghe:
Tôi xa mình ông trời nắng tôi nói mưa.
Canh ba tôi nói sáng, giữa trưa tôi nói chiều.
Trời xanh bông trắng nhụy huỳnh.
Đội ơn bà ngoại đẻ má, má đẻ mình… dễ thương (cd)
Khi Toneh Tẻh đã thành công trên con đường danh vọng rồi, thì anh ta không nhớ những ngày cơ hàn, nhớ về bạn xưa gì ráo. Tẻh có những “cái ngu lỏi đời đáng sợ” là không nhớ ai đã nhiệt tâm trong những cuộc vận động ráo riết, do ân nhân, thân nhân âm thầm ưu ái đóng góp sức lực, tiền bạc giúp anh! Những người đã hy sinh hạnh phúc, gia đình và có thể nói là cả tính mạng nữa. Tẻh quên hết chuyện nợ nần gia đình vợ con ở Đà Lạt, mặc ai lo gì thì lo. Ra sao thì ra. Tới đâu thì tới. Tony Tẻh ở Sài Gòn làm dân biểu mới chỉ bốn năm tháng đầu, Tẻh đã “quơ” ngay một cô “Ba Tàu tình hờ”, dẫu sao thì cô nầy cũng trắng da dài tóc, mập ú nà ú nần, mắt híp, tươi tắn trẻ trung; (hơn bà vợ Thượng già đen dòn quê mùa cũ mèm của Tẻh). Trong bữa ăn đầu tiên ở nhà hàng Nhất Dạ Đế Vương, Tẻh đã chọc ghẹo nàng tiếp viên:

Trúc xinh trúc mọc đầu đình.
Em xinh em hút thuốc lào cũng xinh.
Nếu mà không lấy đặng em
Anh về đóng cửa cài rèm đi tu (1)
Nàng đi học ở trường Tàu đã đành, nàng lại biết đọc biết viết tiếng Việt kha khá, liền đối đáp ngay:
Tu đâu cho em tu cùng.
May ra thành Phật thờ chung một chùa.
Phải chi cắt ruột đừng đau.
Để em cắt ruột em trao anh mang về (1)
Tuyệt cú mèo chưa! mây mưa nước nôi “hữu duyên thiên lý tương năng ngộ” nhỉ! Thế là Tẻh mê em tít thò lò, mê em híp mắt, si mê “ẻm” ngay từ “thuở ban đầu lưu luyến ấy”. Tẻh thèm “ẻm tình hờ” quá cỡ thợ rèn. Cá đã cắn câu do mấy anh xì thẩu cố gài độ, muốn câu móc anh chàng xứ núi già còn “dại gái” tòn ten tỏn tẻn với cô ả ỏn ẻn, ngỏ hầu bọn tài phiệt dễ bề móc nối xí xa xí xô “làm ăn chuyện lớn” ở nhiều mặt thiết thực khác. Tẻh híp mắt với danh vọng, lạm dụng tình thân, an nhàn sung sướng riêng bản thân, về quê xây một căn nhà đồ sộ, mua nhiều hecta đất, mua đàn bò, mua một căn nhà gạch xây sang trọng ở cuối đường Hoàng Diệu. Ở Sài Gòn Tẻh mua sắm cho bà bé nầy không thiếu thứ gì sang trọng trong một ngôi nhà thuê bao rộng rãi tiện nghi tại Hòa Hưng. Đầy đủ. Trọn vẹn, Tẻh càng vinh thân phì da sung sướng tê người. Bà vợ bé của Tẻh béo ơi là béo phì, còn trẻ, nói tiếng Việt trọ trẹ, nhưng hiểu nhiều, nói nhiều nói luôn mồm nghe thật tức cười. Hạnh phúc ào ào trút xuống lưng, trút xuống vai anh ta:

Trẻ em thường thích ở trần.
Nhưng mà người lớn muôn phần thích hơn.
Nhớ hôm bụi chuối sau hè.
Giỡn chơi chút xíu ai dè có con. (2)
Năm sau “con đĩ Ba Chệt*” (là do bà vợ lớn của Tẻh dám trịch thượng ám chỉ bà nhỏ kia thôi, còn tôi..có đánh chết tôi, thì tôi chả dám) đã “sản xuất” cho anh ta một con bé ngo ngoe bụ bẫm. Trong khi chúng tôi muốn khuynh gia bại sản. Mỗi lần nghe tin Tẻh về quê, Ngọc, Luật lái xe jeep đến nhà. Tẻh tiếp bạn nhạt nhẽo, gượng gạo, lãnh đạm, ú ớ ù ơ lầm lì. Nhiều khi Tẻh né tránh không giáp mặt. Người gì mà quá đổi tệ bạc vô ơn đến thế không biết. Hầu như chuyện nợ nần, đền ơn đáp nghĩa những ân nhân, thân nhân Tẻh coi như pha. Chức phận của Tẻh chỉ là hư danh, thực tế Tẻh chưa giúp ích thiết thực cho cư dân ở Tỉnh nầy và cho đời (nói chung), và cho nhóm tôi. Tôi quên nói là sau khi “Tẻh hiền lành” (trên vài khía cạnh nào đó) với tư cách là đồng viên ở pháp nhiệm I và II đắc cử dân biểu, thì bao nhiêu lời hứa hẹn, (nợ nần tiền bạc xưa của Tẻn chưa trả cho tôi), đều bay theo bà bé nầy. Gia đình tôi và các bạn đã gieo lúa trên đá rồi. Tại nơi nhà Tẻh ở Hòa Hưng hôm nay vừa có thêm gia đình bà vợ lớn và 5 đứa con Tẻh gùi những cái gùi to lớn lánh nạn về Sài Gòn. Mỗi buổi sáng bà bé ngủ dậy lúc sau 9 giờ, bà ta ẳm con nhỏ một tuổi đi chợ xong, bà bé về nhà quăng giỏ xách cái bạch xuống nền gạch, giống như bố thí, thì tôi và bà vợ lớn của Tẻn lo xúm lại nấu nấu,xào xào, chiên chiên vài món ăn, rồi xúm xít ăn với nhau, bà bé không hề ăn, chỉ ngồi trên võng ôm con đong đưa và nhìn ngó chúng tôi chằm chằm, và nói nói... Ăn uống đạm bạc như thế, khiến bà vợ lớn tức giận. Hầm hầm mặt, bà nói nhỏ với tôi:

– “Ớt nào mà ớt chẳng cay. Gái nào mà gái chẳng hay ghen chồng”. Con đĩ Ba Chệt*” nầy đã cướp chồng tôi. Nó cướp hết tiền của trong gia đình tôi. Vậy mà nó cho cả nhà mình ăn uống tầm thường hí. Trong khi ngày ngày nó đi chợ ăn quà, chiều chiều nó đợi ổng về, là nó tót đít đu lên sau xe honda, ôm siết, bu ổng chở đi ăn tiệm sang hà, nè:

Bồ hay mơ mộng mông lung.
Vợ rất thực tế vô cùng đáng yêu.
Bồ luôn đòi hỏi đủ điều.
Vợ lo cơm sáng cơm chiều quanh năm.
Bồ chỉ lo chuyện ăn nằm.
Vợ thường chịu đựng cả năm mới tài.
Bồ nào nghĩ đến tương lai.
Vợ lo tính toán chuyện dài mai sau. (2)
Tôi khuyên can hoài, năn nỉ mong bà có thể hòa thuận đôi đàng thân ái xí xá, bà cũng chưa nổi sùng, nên nguôi ngoai nhẫn nhịn đôi chút. Nhưng tối tối, khi “hai ông già bà trẻ phong lưu” hú hí du dương đi ăn cơm tiệm về, thì ông Tẻh ỏn ẻn chào hỏi bà lớn xí, nói lí nhí vài ba câu tiếng Thượng xã giao qua loa lạt lẽo, rồi ông lẽn vô phòng bà bé, khóa chặt cửa ở riết, cho đến sáng hôm sau ông vội vàng ra đi. Chỉ vì ông trót “trồng trầu thì phải khai mương. Làm trai nhiều vợ biết thương vợ nào”? Điều kém tế nhị trắng trợn và không biết cách xử trí nầy, khiến vợ lớn cáu tiết, bà nỗi cơn ghen bốc lửa tam bành lục tặc, không thể ngậm câm nhìn cảnh chướng tai gai mắt làm ngơ hoài, nổi sùng lên bà tức giận không thể tả, vợ Thượng ngồi chờ sẵn ở phòng khách, (nơi gia đình bà lớn đang trải manh chiếu ra sàn gạch ngủ mỗi đêm, cạnh ngoài cửa phòng ngủ của họ, thiệt là không công bằng)! Khi hai anh chị “Thượng thư và Tàu ú nù đĩ ba chệt*” (*bà vợ lớn vẫn trịch thượng thẳng thừng ù ơ như thế, có lẽ không chua ngoa lắm hì) ung dung vui vẻ trở về sau buổi ăn cơm ngon lành ngoài tiệm. Bà bé vừa bế con nhỏ tọt vào phòng ngủ thì bà lớn không thể nín câm nữa, bà túm ngay cổ áo đức ông chồng, khiến ông lớn bị bất ngờ chao đảo chới với tay chân. Bà lôi giật ông xềnh xệch quay ngược ra phòng khách, bà lớn trợn trừng tráo trưng nghiến răng chửi chồng 1 tràng tiếng Thượng pha tiếng Việt, lẫn tiếng Tây, chêm chút chút tiếng Anh:
– Nè ông Tẻh đừng tưởng bở nhá, tuy tui là người Thượng nhưng theo học trường đạo do soeur Tây ở Couvent des Oiseaux dạy đàng hoàng. Tui biết ông chê tui già, quê mùa, xấu xí, có thể không xứng với một dân biểu, (tui rành ba bốn ngôn ngữ mà ông chê, là lầm đấy)! Ông sinh ra ở chế độ mẫu hệ, mà có cái tội tày trời ngang nhiên “tự tiện” giấu nhẹm tui con mụ kia, con riêng, và giờ đây “con đĩ” mang thêm một cái bầu 7 tháng. Úi Trời! đầu năm một đứa, cuối năm một đứa. “Trứng rồng lại nở ra rồng. Liu điu lại nở ra dòng liu điu” (cd). Đồng vợ đồng chồng, con đông mệt quá! Chẳng lẽ tui để cho ông mang tiếng sở khanh quất ngựa truy phong: “Yêu em mấy núi cũng trèo. Đến khi em chửa mấy đèo anh cũng dông” sao cho đành! Ha!

Ông lớn đứng như trời trồng cúi đầu im lặng chịu trận làm tình vờ! Thôi thì... ráng nhịn nhục ngoảnh mặt làm kẻ tình lờ. Bà thấy thế cũng nén giận. Nếu bà biết trước hoàn cảnh éo le và “nghịch đồ” như thế, bà lớn sẽ nằm lì tại Đà Lạt, không thèm vô ở cái nhà đầy dẫy chuyện buồn, xáo trộn đủ thứ kỷ cương, không có “tôn ti trật tự phân giai cấp lớn bé” chi cả. Bây giờ bà lớn nằng nặc đòi ông lớn một hai là:
– Tui nói cho ông Tẻh biết, ông phải đưa ngay tiền của, đưa hết tiền bạc vòng vàng xuyến nhẫn tay hòm chìa khóa ra, để tui quán xuyến. Người ta nói: “có tiền mua tiên cũng đặng” thì nhằm nhò gì chuyện ông Tẻh có con qủy cái ú nần lùn xủn mắt ti hí kia! Tui sống với ông có giá thú hẳn hoi, còn con kia nếu ông khai gian làm giá thú giả với nó, thì tui cho cả lũ vô tù mút chỉ cà tha. Tin đi, rồi một mai lá rụng về cội, ông chẳng tiếc cái tình vờ ấy, mà ông sẽ quay về “cây đa bến cũ con đò năm xưa” cho coi! Ông và nó không có một đồng xu dằn túi, thì mẹ con tình lờ ấy phải ra đi khỏi ông, là nơi trơ trẽn hắc ám đầy chướng tai gai mắt. Coi ai chết nhăn răng, cho biết mùi đời cái tình hờ mà ông cho tôi nếm hôm nay. Há…

Tôi thừa nhận là bà lớn tuy ở chung một nhà với bà bé, dù bất bình và rất ghen lẫn yêu thương chồng con lắm. Nhưng bà lớn khá biết điều, bà chỉ béo ngắt ông xí, cằn nhằn lải nhải dày vò ông chồng biết cúi đầu hổ ngươi, đỏ mặt tía tai ti tí. Bà lớn có bản lĩnh, lịch sự nghiến răng trèo trẹo vào sát bên mang tai chồng, khiến ông lớn thật sự run sợ. Bà biết giữ danh dự cho ông chồng dân biểu! Khâm phục.

Tình Hoài Hương

(*) – Nguồn TỪ > Wikipedia, & sưu tầm đó đây
– Câu “Bách niên thương hải biến vi tang điền” là câu gồm 8 chữ, không phải là Thơ Đường Luật, có thể là loại Thơ Cổ Phong, nghĩa là thơ Cổ trước khi có Thơ Luật của Đời Đường ra đời. Cổ Phong có thể gồm thơ 3 chữ, 5 chữ, 6 và 8, không theo Luật Thi. Thơ Đường Luật thường gồm Thơ 5 Chữ và Thơ 7 Chữ theo Luật Bằng Trắc và Đối Ngẫu.
4 cuốn sách tham khảo gồm:Tự Điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh.
Tự điển Từ, & Ngữ Việt Nam của GS Nguyễn Lân.
Thành Ngữ Điển Tích Danh Nhân Tự Điển của GS Trịnh Văn Thanh.
Nguyễn Du Toàn Tập Quyển 1 Thơ Quốc Âm Truyện Kiều của Nguyễn Thạch Giang.
– Theo cuốn Tự Điển Truyện Kiều (trang 68) & cuốn Tự Điển Từ & Ngữ VN (trang 1797) thì đa phần giống nhau trong sự giải thích: “Thương hải biến vi tang điền, mà viết tắt là ‘Thương hải tang điền” nghĩa đen là “Biển xanh biến thành ruộng dâu”, nghĩa bóng là những cuộc thay đổi lớn lao. Nhưng không ghi xuất xứ điển này từ đâu ra.
– Theo cuốn Nguyễn Du Toàn Tập Quyển 1 Thơ quốc Âm Truyện Kiều của Nguyễn Thạch Giang thì điển Thương Hải Tang Điền, xuất xứ từ Thần Tiên Truyện vào thời Đông Hán. Tiên nhân Vương Phương Bình xưa đỗ Hiếu Liêm, làm quan chức Trung Tán Đại Phu, rồi bỏ quan đi tu tiên đắc đạo, giáng xuống nhà Thái Kinh (người đời Hậu Hán), cho mời tiên nữ Ma Cô đến. Ma Cô bảo Phương Bình rằng: “Tiếp thị dĩ lai, dĩ kiến Đông Hải tam vi tang điền.” Nghĩa là: “Từ khi được tiếp hầu ông đến nay, tôi thấy bể Đông đã ba lần biến thành ruộng dâu.”
.- Cuốn Thành Ngữ Điển Tích Danh Nhân Tự Điển của Trịnh Văn Thanh nói giống như cuốn Thơ Quốc Âm Truyện Kiều của Nguyễn Thạch Giang, nhưng đơn giản hơn một chút.
(1) ca dao
(2) thơ tiếu lâm & sưu tầm lượm lặt đó đây.

Không có nhận xét nào: