Lần đầu tiên gặp, trông chị rất đẹp và trẻ lắm! Cứ ngỡ chị khoảng trang lứa hoặc nhỏ hơn! Mới hay, không riêng gì tôi, cả đám bạn ai cũng lầm. Vì đến khi biết về tuổi đời, chị hơn những đồng lứa như tôi – phải nói, ít nhất từ ba đến năm tuổi! Nhìn chị, khó thể nào mà đoán được hay phủ nhận nét trẻ trung, qua hình dáng tự nhiên. Chị có sắc đẹp như một loài lan kéo dài với thời gian, bền bỉ. Đơn giản, chị hồn nhiên và diễm lệ. Tôi quen chị qua Vũ, bạn học tôi, cũng là em bạn dì với chị. Hôm gặp, thấy chị đứng bên cây hoàng lan, trong tay đang cầm những nhánh hoa đầu mùa. Thành thật, tôi cứ ngỡ là em gái của Vũ.
<!>
Nghĩ lại những gì tôi đã nói với chị, đôi khi nhớ về, khó mà tránh khỏi sự ngượng ngùng. Nhưng chắc chắn một điều: tôi biết, chị rất hài lòng về sự lầm lẫn đó. Hôm đó, nhìn bàn tay của chị, với đóa hoa nõn nà, nằm trong ngón tay mềm mại. Thêm mùi hương theo sau bước chân, khi chị quay gót vào nhà – tôi liên tưởng đến lời thơ của Đinh Hùng:
Búp lan dài mướt ngón tay
Cả lâm tuyền nhớ gót giày phong hương (1)
Dần dà, tôi cảm nhận chị cũng mến tôi.Không biết có phải tôi dễ sai hay có lẽ tôi thích được chị nhờ giúp để có cơ hội nhìn hay nghe chị nói. Một điều, tôi tự hiểu trong lòng, ở đó, như có điều gì khiến đến an tâm và hạnh phúc. Cứ thế, thân tình ngày mỗi đến kề cận hơn. Đặc biệt là những hôm chị nhờ chở qua phố mua dăm ba chút đồ, với tôi, còn nỗi hãnh diện nào hơn, được là người đưa chị đi, được gần bên chị.
Tôi hay mâu thuẫn với chính mình: một mặt, tôi thích được nhìn chị tươi tắn như mọi ngày; mặt khác, tôi không mấy ưa thích khi nhìn chị thắm thiết nói cười vào những ngày anh Tuấn về phép cuối tuần. Tôi tin rằng, chị đã có nhiều cuộc tình đi qua trong đời, chẳng hạn như tình nhớ, tình sầu, có khi chỉ là tình thương hại! Tuy nhiên, để có một tình yêu trong đời, trong đó yêu người và được người yêu: đó là điều đã mấy ai may mắn? Anh Tuấn là người được chị yêu – một sĩ quan tác chiến! Người về thăm chị ít nhất một đôi lần trong tháng. Và phải nói thật lòng, tôi không mấy thích anh ta! Chị rộn ràng trong những ngày anh về phép. Tươi như hoa trong ngày xuân. Tôi mang cảm giác khó chịu đến lạ lùng khi nhìn chị sánh vai đi bên anh dưới phố. Đôi khi tự hỏi: Có phải ánh nắng của ngày chói chang trong mắt? Đã khiến tôi không còn mấy thích chiếc áo dài màu thanh thảo mà lòng thường hay khen thầm, mê ngắm khi chị mặc vào những ngày lễ hội! Hoặc có phải vì gió? Khiến vạt áo lụa mềm lả lơi quấn quýt, quyến luyến như không rời trên bộ đồ quân phục mà anh Tuấn thường hay mang về phép như mọi lần. Những hôm như vậy, tôi về lại nhà, ngồi im lặng trong góc tối một mình, đa đoan, mang nỗi lòng ấm ức! Anh Tuấn về rồi đi. Những khi anh không về, tôi thường xuyên mang nỗi lòng ích kỷ, nhìn chị ngồi lặng thầm bên song cửa, nhẫn nại ngồi đan áo, đợi chờ.…
tháng chín nhìn chị ngồi đan
dã quỳ đã chớm, nắng vàng ngoài song
tháng chín vạt áo gần xong
chị ngồi đan nốt đường cong nỗi sầu… (*)
Tôi nhớ một đêm cuối năm, chị mang nỗi buồn, trĩu ưu tư, khi biết anh không thể về được, Vũ và tôi được chị kéo lại ngồi uống chút rượu, chờ đón giao thừa. Nói là chút thôi, nhưng giữa đất trời, mỗi chút gió mây cũng có thể trở thành giông bão! Không lâu, trước khi thời khắc bước qua thềm năm mới, Vũ phải rời vì có hẹn với bạn gái bên cầu. Để lại tôi ngồi một mình với chị. Đêm đó, cũng là lần đầu tiên, tôi như cuốn theo dòng mê lộ, nên đã uống rất nhiều. Chúng tôi chừng như không còn nhớ đến thời gian, trong khi không gian đang khuất chìm trong men rượu! Chị say trên ngực áo tôi. Bên mùi nhang quyện trong đêm giao thừa năm ấy, phảng phất phấn son và hương tóc, phủ, xõa trên mặt tôi khi chị cúi xuống nhìn. Và trong hơi thở đượm chất nồng nàn, tôi mang cảm nhận đôi môi của chính mình mềm đến ngây ngô, mê dại. Có vài sợi tóc vướng lặng thầm, lẻ loi. Ngơ ngác. Trong mờ ảo của màn đêm, cùng với hơi thở rộn ràng cuống quýt giữa không gian chung điểm của giao thừa. Bất chợt, tôi nghe tiếng nấc gọi thầm của chị đang mê man, thảng thốt: “Tuấn ơi!” Âm thanh lênh đênh, gợn lên mơ hồ trong đôi mắt chị. Ngoài kia, dăm ba tiếng pháo chen lấn tiếng súng vọng về. Và chừng như không riêng chị, cả chính tôi – đang cùng mang nỗi lòng trơ trọi.…
Những năm tháng sau đó chiến trường ngày mỗi sôi động. Anh Tuấn càng ít về. Và cuối cùng, ngày nghe tin anh bị tử thương khi đang hành quân qua sông, để ngậm ngùi chấp nhận – đó là ngày anh sẽ vĩnh viễn không bao giờ trở lại.…
Tráng sĩ chưa về
Vườn sau sông ấy
Người đứng đầu sông
Người cuối sông này (3)
Không biết giữa rủi may, đã có ai dự đoán, rồi cũng phải có ngày! Nhưng anh có hay, khi anh nằm xuống bên kia sông, cũng là lúc bên này, người mong chờ anh về, dỡ dang, ngã gục.…
Đưa người, ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong? (2)
Tôi tin rằng, Thâm Tâm đã có riêng dòng cảm xúc khi ông ghi lại bài thơ Tống Biệt Hành. Lãng đãng, với cái nhìn “đầy hoàng hôn trong mắt trong,” có thể là biểu tượng của một Kinh Kha qua sông Dịch. Tuy nhiên, trong dòng cảm nhận ấy, tôi mang cảm tưởng lời thơ mang ý niệm riêng cho người đọc, tùy theo mỗi góc cạnh của nỗi lòng. Cho chị:
Chị thà coi như là hạt bụi (2)
Và cho tôi:
Em thà coi như hơi rượu say (2)
Rơi trong niềm đau, tôi nhìn chị thuở ấy – mà nghĩ đến nỗi lòng của không biết bao nhiêu thiếu nữ: “Tóc thề đã quấn khăn tang”. (3) Cho đến bây giờ nghe lại, tất cả, chừng như là huyền thoại. Tôi mang nỗi niềm xót xa, nhìn chị. Thu về, vẫn còn ngồi đan áo cho anh những ngày sau đó. Tôi chợt thầm mong nếu anh có thể về lại như những ngày phép cuối tuần, để những mong được thấy chị tươi cười, xinh xắn. Cùng là lúc, tôi cảm thấy xấu hổ với chính mình. Bởi lẽ trước đó không lâu, tôi không muốn thấy anh. Tôi xuống đời bôn ba khi những cơn mưa của tuổi xuân chưa kịp thấm đầy môi mắt, đã vội vàng bước vào mùa hè của 1972, tràn ngập lửa đạn mưa bom! Con đường quê hương đầy dằn xóc, quanh co, và lối về ngày mỗi hiếm hoi, không còn được gặp chị những năm sau đó. Chúng tôi thất lạc nhau giữa dòng cuốn vô thường. Những mơ ước được bình yên, về ngồi lại trước hiên sân sau Tháng Tư, 1975 trở nên xa xỉ. Căn nhà qua đó một thời, nhìn lá xuân xanh, đã đổi chủ thay màu, khô héo qua giữa mùa vàng thu, lá rụng! Trong nỗi ngậm ngùi hoài niệm về một thời vàng vọt, tôi luôn thấy chị, hình ảnh một thiếu nữ dịu dàng, bên song cửa vào thu, ngồi lặng thầm đan áo:
Đan áo mùa thu (*)
Quên bẵng sao? anh đi không trở lại!
Gió bấc thâm, dằn vặt bên chốn này
Khuyết bao lần, trăng vỡ ghé qua đây
Vầng u tịch xói mòn đời đơn lẻ.
Chị đan áo bên song chiều gió nhẹ
Lá ngoài hiên xào xạc, ngỡ bước ai!
Áo đan xong – chờ – tháo ra – đan lại
Anh không về mặc thử áo mùa thu.
Chi đan áo khi lá mùa chưa rũ
Sợi len buồn luồn qua lại bao lần
Đã mỏi mòn theo chỉ móc kim đan
Se sắt lạnh! Khi mùa đông đang tới.
Thu năm nay không còn ai ngồi đợi
Bên song buồn có sợi tóc ai vương
Gió lay động qua hàng cây cẩm chướng
Thấy bướm vàng nhớ màu áo chị đan.
Viết cho một thời vàng vọt.
Thu Hoài
_________________
(1) Hoa Bay Về Ngàn – Đinh Hùng
(2) Tống Biệt Hành – Thâm Tâm
(3) Mười Hai Tháng Anh Đi – Lời thơ Phạm Văn Bình
(*) Thơ Thu Hoài.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét