Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Tư, 4 tháng 6, 2025

BÊN BỜ YÊU THƯƠNG - Cao H Sơn


Giặc Pháp xâm chiếm nước ta đã từ lâu, nhưng gặp sức phản kháng của toàn dân rất mãnh liệt. Mùa xuân 1946 quân Pháp đổ bộ tái chiếm Bắc Việt, Hồ Chí Minh vội vã ký với Pháp thỏa ước sơ bộ để bảo toàn lực lượng còn non yếu, và rước Pháp vào Việt Nam để có cớ gây chiến tranh tạo ra 9 năm kháng chiến. Thỏa ước này cho phép quânPháp tái chiếm ViệtNam với 15 ngàn quân. Đổi lại Việt Minh được phép thành lập Quân đội riêng với 10 ngàn quân. Trận thử lửa đầu tiên của Việt Minh do Võ Nguyên Giáp chỉ huy đánh vào Hải Phòng ngày 20/11/1946 làm phía Việt Minh tổn thất 6 ngàn quân. 
<!>
Ngày 19 tháng 12, Việt Minh lại tấn công nhà máy điện Hà Nội và các điểm trọng yếu khác trong thành phố. Quân Pháp phản công lại mãnh liệt, Việt Minh phải rút về Hà Đông và Hồ Chí Minh đại diện cho Việt Minh kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến”. Quân Pháp lập các đồn bót trên cả nước, mở các cuộc bố ráp bắt bớ dân lành vô tội vạ, gây nên làn sóng công phẫn mãnh liệt lên tầng lớp thanh niên yêu nước. Tỉnh Bình Thuận trong những năm “Toàn quốc kháng chiến” ấy, hầu hết thanh niên bỏ dỡ việc học hành tham gia các phong trào yêu nước chống Pháp. Thời kỳ này tổ chức Việt Minh lớn mạnh, nhờ trá hình dưới vỏ bọc 1 tổ chức yêu nước, đây là một tổ chức tập hợp hầu hết các đảng phái yêu nước thời bấy giờ đứng lên chống Pháp. Đảng Cộng sản chưa dám công khai lộ mặt là một đảng Phát xít, độc tài, Cộng Sản, tay sai của Đệ tam Quốc tế Cộng sản nên cũng có nhiều người ngộ nhận tham gia.

Tại Bình Mỹ Thuận, nằm trên Tỉnh lộ 8, con đường nối Phan Thiết đi Ma Lâm lên tới Di Linh. Làng quê này thanh bình yên vui, nhưng từ khi quân Pháp lập căn cứ chính tại Ma Lâm, những đồn bót chân rít nằm từ Ma Lâm đến Mương Mán, trong đó có đồn Tân Nông là cứ điểm quan trọng dùng để khống chế vùngTam Giác Sắt. Chúng thường xuyên hành quân khủng bố đốt phá xóm làng, hầu hết vùng thôn quê trở nên điêu tàn. Người dân bỏ làng lên rừng ở không hợp tác với giặc, ngoài Bắc Bình Thuận hàng chuỗi cứ điểm quân sự được dựng lên từ Cà Ná, Long Hương, Duồng, Phan Rí Cửa, Hòa Đa, Cầu Xóm Lụa Chợ Lầu, Lương Sơn, tạo thành thế hổ trợ liên hoàn cho nhau. Hùng, chàng thanh niên con nhà phú nông vùng Tân Phú Xuân được gia đình cho vào Sài Gòn học, sau khi học lớp 9, Hùng xin vào học trường Y Tá, hy vọng nhỏ nhoi là trở về quê giúp đỡ những người dân nghèo quê anh.
Sau khi tốt nghiệp, không chịu nỗi trước cảnh nước mất nhà tan nên bỏ về quê tham gia đoànquân kháng chiến. Trước khi vào rừng chiến đấu chống Pháp, Hùng nghe lời gia đình cưới vợ để có kẻ nối dòng sau này vì Hùng là con trai độc nhất. Vợ Hùng là cô gái quê cùng làng hiền hậu đảm đang, săn sóc cho gia đình chồng rất tốt, làm tròn bổn phận người con dâu thời chiến. Hùng mạnh dạn ra đi trao lại gánh nặng cho người vợ hiền mới cưới.

Trong thời gian này, dân chúng vùng quê sống trong cảnh dầu sôi lửa bỏng, một cổ hai tròng, sưu cao thuế nặng. Một số đã bỏ lên rừng lập làng mới, không hợp tác với chính quyền do Pháp bảo trợ. Chiến khu là núi rừng bạt ngàn từ Hàm Tân cho đến Cà Lon, Đồng Trên, Đồng Bò, Minh Mỵ, Vĩnh Hảo, Cà Ná. Về hướng đông một dải động cát hoang vu nằm sát biển, từ La Gàn đến Mũi Né với các địa danh Hòn Rơm, Bàu Bà, Bàu Ông, Nhơn Thiện, Cây Găng, Bầu Thiêu trở thành những địa danh chiến khu bất tử. Mật khu Lê Hồng Phong là đây.
Hùng được giao cho nhiệm vụ thành lập các Trạm xá để chữa trị thương binh phục vụ cho chiến trường đang sôi động. Lúc này những trận đánh khốc liệt giữa Việt Minh và quân Pháp diễn ra thường xuyên như các trận tấn công đồn Duồng, Thiện Giáo, Mương Mán, táo bạo hơn VM còn dám phục kích đánh Pháp vào ban ngày tại Chợ Lầu gây thiệt hại nặng cho quân Pháp. Nhưng sau khi Việt Minh rút lui, quân Pháp tăng viện tràn đến đốt nhà, bắn giết nhiều người vô tội chỉ vì trước nhà có vết máu, hoặc có xác chết của giặc Pháp. Trong thời kỳ này dân chúng toàn tỉnh, ngoại trừ những thành phố lớn là còn sinh khí phồn thịnh, còn lại bỏ làng bỏ xóm vào rừng ẩn náu, sau ngày hòa bình lập lại năm 1954 mới trở về làng xưa.

Hùng di chuyển từ nơi này đến nơi khác vì công vụ, cũng có đôi lần anh lén lút về nhà thăm cha mẹ già và người vợ trẻ. Tâm hồn người thanh niên ôm trọn lý tưởng cao cả thật đáng quý, nhưng anh không hiểu hết mặt trái của trò chơi chính trị. Hùng không biết rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đã lợi dụng lòng yêu nước của toàn dân để tiến hành một cuộc chiến tranh không cần thiết cho sự sống còn của dân tộc, mục đích của Cộng sản Việt Nam là thay mặt Đệ Tam Quốc tế Cộng sản thực thi Cách mạng vô sản trên toàn cõi Đông Dương. Như ta đã thấy, lúc này là thời điểm chín mùi để giành lại độc lập cho nước nhà từ tay Thực dân Pháp mà không cần đổ xương máu. Ấn Độ, Phi luật Tân độc lập năm 1946, Miến Điện 1947, rồi lần lượt Nam Dương, Mã lai, Libya, Sudan, Ghana, Tân Gia Ba... Cuộc chiến tranh vô bổ do Cộng sản phát động đã làm suy yếu nội lực của nước nhà đến tận cùng. 1 bằng chứng hiển nhiên cho thấy Việt Minh sau tháng 4/1945 là tay sai của Nga Hoa. Võ Nguyên Giáp theo lệnh của Hồ Chí Minh đưa 2 Sư đoàn đầu tiên sang Trung quốc để trang bị vũ khí, rèn cán chỉnh quân, khi trở về không còn là bộ đội Việt Minh nữa mà trở thành Quân đội Nhân Dân Việt Nam, sao chép y chang từ quân đội Trung Hoa đỏ. Như vậy chứng tỏ huyền thoại Việt Minh chỉ là cái bung sung cho Cộng sản lợi dụng, Cộng sản muốn độc chiếm quyền cai trị, nên đã bán đứng, triệt hạ các đảng phái yêu nước khác, hoặc chỉ điểm cho Pháp bắt một cách tàn bạo, như trường hợp cụ Phan Bội Châu và Nguyễn Thái Học cùng các anh em trong Việt Nam Quốc Dân đảng cùng các đảng phái khác.

Trong thời gian xa nhà, Hùng quen với một cô y tá xinh đẹp cùng tham gia Việt Minh ở khu Lê. Hai người yêu nhau, tình yêu này mới thật sự với Hùng, người vợ trước đến với Hùng chẳng qua là làm vừa lòng cha mẹ. Hương, cô gái miền biển mặn Phan Rí Cửa, gia đình cũng thuộc loại khá giả, vì nghe theo tiếng gọi của đất nước, nên lên chiến khu tham gia kháng chiến. Cũng nên nói thêm, thanh niên nam nữ thời đó ở vùng quê hết đường chọn lựa, không ai muốn bỏ nhà to cửa lớn, cuộc sống sung túc của một gia đình giàu có mà lên sống nơi rừng sâu núi thẩm, thiếu thốn tiện nghi, mạng sống lại không bảo đảm vì các trận càn quét của quân Pháp, nhưng nếu không theo Việt Minh là lập tức được dán cho cái nhãn theo Tây, coi như bản án tử hình treo lơ lửng trên đầu, nhiều người đã bị chết oan vì không chịu hợp tác với Việt Minh.

Như đã thấy, đất nước ta cũng đã giành được độc lập từ tay Pháp. Ngày 11/3/1945 sau 2 ngày Nhật đảo chánh Pháp, Hoàng Đế Bảo Đại đã đại diện toàn dân đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập. Đây mới chính là bản Tuyên ngôn Độc lập đầu tiên của Dân tộc Việt Nam, không như Cộng sản trâng tráo cho Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập lần thứ hai ngày 2/9/45 tại Ba Đình nhằm giành công kháng chiến cho đảngCộng sản.
Pháp bại trận tại Điện Biên Phủ, phải ký Hiệp định Geneve tháng 7/54. Trong thực tâm người Pháp chỉ muốn giao lại Việt Nam cho Chính quyền Quốc Gia vì có như vậy tài sản của kiều dân Pháp tại Việt Nam mới bảo đảm. Tuy nhiên vì để trao đổi 20 ngàn tù binh mà Pháp phải đồng ý chia hai đất nước Việt Nam theo lời đề nghị của Hồ Chí Minh. Như vậy chuyện chia đôi đất nước là do Cộng sản gây ra chứ không phải do chính quyền Quốc gia hoặc do ai khác. Chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến công của toàn dân Việt Nam, một mình đảng Cộng sản không làm được chiến công này.
Hùng phải tập kết ra Bắc theo lệnh Đảng bỏ lại cha mẹ và người vợ quê mùa chưa có con ở Bình Mỹ Thuận, Thiện Giáo. Ngày ra đi chỉ có người vợ sau là cô Y tá Hương và đứa con trai lên lên 2 tuổi tiễn đưa. Hương trở về nhà xưa làm ăn nuôi con chờ chồng trở lại như lời đã hứa, dầu thế nào cũng vẫn thủy chung không thay đổi.

Hòa bình lập lại trên quê hương, miền Nam điêu tàn vì chiến tranh. Chính phủ miền Nam dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã đưa miền Nam nghèo đói đến phú cường chỉ trong thời gian ngắn. Trái lại miền Bắc tiến lên Xã Hội Chủ Nghĩa không tưởng, đưa miền Bắc về thời kỳ lạc hậu qua cái gọi là Cải Cách Ruộng Đất, nhân dân miền Bắc sống dưới tầng đáy của địa ngục. Đất nước hòa bình chưa bao lâu Bác và Đảng lại lên kế hoạch tiến hành chiến tranh xâm lược miền Nam trù phú, năm 1960 chúng cho ra đời cái gọi là Mặt trận Giải phóng Miền Nam lừa bịp, ai cũng biết đó là tay sai của Cộng sản nằm vùng nổi lên, và là con chủ bài của Cộng sản Bắc Việt dàn dựng.
Chiến tranh leo thang ngày một mãnh liệt, người Mỹ và các Đồng Minh của VNCH nhảy vào rồi ra đi bỏ lại cho Quân đội miền Nam chiến đấu đơn độc với bầy lang sói sau cái hiệp định Hòa Bình Ba Lê quái thai 1973. Tham vọng của Bác và Đảng là quyết lấy trọn miền Nam dâng cho Quốc tế Cộng sản.
Tiến, đứa con trai lên 2 đưa tiễn cha ngày nào giờ đã khôn lớn, được mẹ cho ăn học, nay đã trở thành một Thiếu úy Sĩ quan QLVNCH. Tiến chiến đấu tại quê hương anh lớn lên, vì sự sống còn của quốc gia dân tộc, anh đã thấy được cái bộ mặt của Cộng sản gian trá mặc dù trong đó có người cha yêu dấu của anh. Trái lại mẹ Th/úy Tiến; cô Y tá Việt Minh năm nào vẫn còn mù mờ về quốc cộng và tiếp tục bị lừa đảo, tin tưởng vào Cộng Sản chỉ vì bà ta có người chồng tập kết, bị đám nằm vùng móc nối nên cũng lén lút tiếp tế tiền của cho Việt Cộng. Bà ta hy vọng một ngày kia người chồng cũ sẽ trở về đem lại nguồn hạnh phúc dù muộn màng. Nhiều lần mẹ anh đã dùng tình cảm mẹ con lôi kéo anh làm nội tuyến cho VC, nhưng anh cương quyết chối từ.

Hai mẹ con đã vì chuyện này mà cãi vã với nhau nhiều lần. Trong những ngày tháng 3/75 khi Vùng 1 và Vùng 2 lọt vào tay Cộng Sản, một lần nữa bà ta lại thúc giục anh bỏ ngũ, bà sẽ đưa anh vào rừng khu Lê với Cách mạng để lập công dâng đảng và giữ mạng sống cho con nếu cuộc chiến tràn đến nơi này. Nhưng một lần nữa anh đã chối từ, Thiếu úy Tiến đã cùng đồng đội chiến đấu oanh liệt đến giây phút cuối cùng của cuộc chiến, và theo chân đoàn quân di tản vào Vũng Tàu trong đêm 18/4/1975. Sau ngày mất nước anh trở về Phan Rí Cửa và bị VC đưa đi vào giam tại Lao xá Phan Thiết, sau đó là trại tù địa ngục Cà Tót. Mặc dù mẹ của Tiến đã dùng chút ảnh hưởng của bà là người có công với “Cách mạng” để xin cho thằng con khỏi vào tù, nhưng một khi Cách mạng đã thắng lợi rồi thì cái công trạng nhỏ nhoi của bà có coi ra gì, tất cả đều quay lưng với người Mẹ của thằng “Sĩ quan Ngụy” vì một đời ngu muội đã theo đảng cướp.
Niềm hối hận tột cùng vì đã lỡ tin theo lời bọn VC vô lương,bất chấp hiểm nguy đến tính mạng đã tiếp tế gạo tiền thuốc men, nếu không có cái bùa hộ mạng là thằng con Thiếu úy của bà có lẽ bà đã bầm dập trong nhà tù nào đó. Niềm hy vọng duy nhất của bà là chờ cha của Tiến, chồng bà trở về trong đoàn quân chiến thắng sẽ đưa con trai bà thoát khỏi cảnh tù đày. Nhưng......

1 tháng sau ngày tháng tư đen, 1 cán bộ Cộng Sản vào tiếp thu Bệnh Viện Phan Thiết, với cương vị giám đốc Bệnh Viện. Ông ta chính là người Y tá năm xưa tên Hùng, sau khi ra Bắc được ơn mưa móc của Đảng cho tu nghiệp lấy cái bằng Bác Sĩ,nay đã là vị Giám đốc một Bệnh viện lớn oai phong lẫm liệt, tháp tùng cùng ông Giám đốc là 1 bà vợ trẻ với 2 thằng con trai còn nhỏ. Trên đường vào Phan Thiết ông không buồn ghé lại Phan Rí Cửa để thăm người vợ xưa với thằng con trai. Lâu lắm, ông mới lên Bình Mỹ Thuận nhà cũ của ông coi cha mẹ và người vợ cũ còn hay mất, Cha Mẹ thì đã mất lâu rồi và người vợ cũ nay đã già nua xấu xí nhưng vẫn sắt son đợi chờ dù biết rằng ông đã một lần bội phản. Ngài Bác sĩ Giám đốc không muốn nhìn lại người vợ cũ vì sợ mất mặt với cấp dưới và làm mất lòng cô vợ trẻ, ông Bác sĩ của cách mạng cũng đã quên đi vĩnh viễn người vợ xưa đã một thời là bạn đồng chí và đứa con trai tên Tiến.
Nghe những người tập kết về cho biết chồng bà đã vào Nam và đang là ông Giám đốc của Bệnh Viện tỉnh nhà, mẹ của Tiến mới biết cha nó đã về Phan Thiết nhưng không một lần tìm về thăm mẹ con bà.
Thật bàng hoàng đau xót và hận kẻ bạc tình, bà cũng không muốn nhìn người chồng phụ bạc đó, nhưng bà cần tìm ông để bảo lãnh thằng con trai ra khỏi tù, vì thế bà vào Bệnh Viện Phan Thiết để tìm người xưa, bà không mong chấp nối lại cuộc tình, vì biết rằng người chồng bội bạc đã có vợ trẻ khác dẫn từ Bắc về lại là con của 1 cán bộ Cộng sản cao cấp.

Tại Bệnh viện Phan Thiết, trong một phòng lớn có máy lạnh, ông Giám đốc đang ngồi chễm chệ trên chiếc ghế bọc nhung sau chiếc bàn gỗ trắc bóng loáng, bất giác giật mình vì một người đàn bà không có hẹn gặp, bước vào phòng đột ngột nhìn ông chầm chập. Bà ta không muốn lên tiếng trước để coi nguời đàn ông đó có còn nhận ra mình không? Ông Giám đốc nheo mắt hách dịch nhìn người đàn bà và hỏi:
- Bà là ai, vào đây có việc gì?
Người đàn bà chính là bà Hương vợ cũ ông giám đốc, bà cảm thấy đất trời như đảo lộn, cả người vợ đã từng có với ông ta một đứa con thế mà ông ta không nhận ra được, thế thì tình yêu mà bà đã giành cho ông ta hơn 20 năm nay uổng phí quá. Đôi mắt người đàn bà thâm quầng sau nhiều đêm thức trắng nghĩ đến chồng, con, đến những đồng chí ăn cháo đá bát, chảy dài hai hàng nước mắt, Bà ta đưa hai bàn tay nhăn nheo lên bụm lấy mặt nức nở khóc nói:
- Ông không nhận ra tôi sao?
Giám đốc Hùng một thoáng bối rối, ngỡ ngàng rồi tập trung nhìn kỹ vào gương mặt người đàn bà và ký ức chợt hiện đến và nhớ lại dù mơ hồ và hỏi nhỏ:
- Bà có phải là Hương má thằng Tiến?
Người đàn bà gật đầu và tiếp tục thổn thức. Ông Giám đốc đứng dậy rời khỏi ghế đi đến gần người đàn bà nói:
- Tha lỗi cho tôi Hương, tôi đã có gia đình khác và vợ tôi không muốn tôi có quan hệ với những mối tình xưa. Hương! Tôi không muốn phụ bạc bà và con nhưng tôi không thể.
Ngừng một giây ông Giám đốc nói tiếp:
- Con mình thằng Tiến nó thế nào rồi? Nó đã có gia đình chưa?
- Tôi vào đây tìm ông là để ông lãnh nó ra khỏi tù, nó là một Sĩ quan của miền Nam, Thiếu úy Đại đội Phó, con mình nó còn độc thân. Nó đang bị người của các ông nhốt tại trại tù Cà Tót, vì chút tình cha con ông phải lãnh nó về để lâu e rằng nó chết mất.
Người cha Giám đốc trù trừ, không có ý kiến dứt khoát:
- Thì bà cứ để nó học tập tiến bộ một thời gian rồi tôi sẽ đến thăm nó và bảo lãnh nó về.

Mẹ của Tiến quắc mắt nhìn người đàn ông như xa lạ, bà biết chắc những cán bộ Cộng sản rất sợ dây dưa tới thành phần Sĩ quan ngụy, mặc dù có là con ruột của mình đi nữa vì sợ cản trở bước đường thăng tiến công danh của mình. Trong phần lý lịch có một vết nhơ, có thằng con là Sĩ quan ngụy thì không còn tương lai.
Bà Hương nói tiếp:
- Nhưng mà tôi nghe nói ở Cà Tót rất độc, có tin đồn là có nhiều người chết vì sốt rét và những người tù Sĩ Quan bị bỏ đói, bị hành hạ cho đến chết, tôi nghe tin nó cũng đang bị bệnh bởi những người đi thăm chồng về nói lại. Tôi van xin ông hãy cứu con mình, tôi hứa là sẽ không làm phiền ông sau này nữa, tôi sợ nếu ông không lãnh nó về ngay bây giờ thì có thể vĩnh viễn ông không thấy mặt con, nó chết mất.
Nét mặt ông Giám đốc trở nên đăm chiêu, và cuối cùng ông nói:
- Thôi được bà hãy về đi, khi nào tôi về Ủy ban Tỉnh họp tôi sẽ nhờ các đồng chí có thẩm quyền can thiệp, có gì về thằng Tiến thì cho tôi biết.
Người mẹ lí nhí cám ơn hai tay ôm lấy gương mặt đầm đìa nước mắt và quay ra cửa với một tâm trạng não nề, bà ta không hình dung ra được phải chăng những người Cộng sản đều có trái tim sắt đá hay vì một tham vọng say mê quyền lực nào mà biến đổi con người trở thành vô cảm.

Bà Hương cũng muốn một lần lên Trại tù thăm thằng con, nhưng khó khăn quá, bà không đủ sức để đi lên thăm. Qua 2 ngày đi bộ giữa rừng núi muôn trùng, đầy cạm bẫy, muỗi mòng, những người trẻ vợ Lính đi thăm chồng tháng trước về ngã bệnh sốt rét nằm liệt giường, bà sợ quá nên bỏ ý định thăm con mặc dù bà rất muốn.
Trong thâm tâm bà nghĩ, cái lũ quái vật Cộng sản này trả thù hèn hạ quá. Học tập gì mà đưa lên chốn rừng núi không thấy bóng mặt trời, đầy muỗi mòng sốt rét, giết người để trả thù rửa hận thì có. Trong linh cảm của người mẹ, bà hoàn toàn không an tâm về con mình.
Ngày được tin những người tù trại Cà Tót được chuyển về Tổng trại 8 tại Sông Mao, bà Hương hối hả lên thăm, bà đứng ngoài vòng rào kẽm gai trên con đường mang tên Tự Do để hy vọng nhìn thấy con mình cho vơi niềm thương nhớ sau hơn 3 tháng xa cách, nhưng không thấy đâu cả, chỉ những gương mặt xa lạ. Một người bạn của con bà nhận ra bà và nói cho bà biết, qua hàng rào kẽm gai ngăn cách, Thiếu úy Tiến con của bà đã chết bỏ xác tại Cà Tót vì sốt rét. Người mẹ khi biết con mình bỏ xác tại trại tù liền quỵ xuống tại chỗ, ôm mặt khóc nức nở, cả bầu trời như sụp đổ dưới chân bà. Thôi rồi còn đâu nữa, ngày Việt Cộng về bà vui mừng bao nhiêu thì nay chính bà nuốt những đắng cay đau khổ nhất của cuộc đời. Bà không hình dung được ông Giám đốc Bác sĩ sẽ ra sao khi biết tin con mình chết, hay là vẫn dửng dưng như không có gì.Nghiệt ngã thay cha là Bác sĩ Giám đốc 1 bệnh viện bề thế mà con mình lại bị chết vì căn bệnh sốt rét trong nhà tù, và suốt cuộc đời còn lại ông ta có chút ân hận gì không, khi không nhìn thấy mặt thằng con một lần mặc dù ông ta có thể.

Biết đâu câu chuyện giống như trên đây lại xảy ra nơi nào đó trên dải đất miền Nam sau ngày tháng tư oan nghiệt. Trang sử đã khép lại nhắc tới chỉ thêm xót xa, đau buồn, không phải nhắc lại chuyện này để gây thêm căm thù oán hận, mà để cho người đời thấy mặt thật của những người Cộng sản chúng tàn độc đến cỡ nào.

FB Cao H Sơn

Không có nhận xét nào: