Tìm bài viết

Vì Bài viết và hình ảnh quá nhiều,nên Quí Vị và Các Bạn có thể xem phần Lưu trử Blog bên tay phải, chữ màu xanh (giống như mục lục) để tỉm tiêu đề, xong bấm vào đó để xem. Muốn xem bài cũ hơn, xin bấm vào (tháng....) năm... (vì blog Free nên có thể nhiều hình ảnh bị mất, hoặc không load kịp, xin Quí Bạn thông cảm)
Nhìn lên trên, có chữ Suối Nguồn Tươi Trẻ là phần dành cho Thơ, bấm vào đó để sang trang Thơ. Khi mở Youtube nhớ bấm vào ô vuông góc dưới bên phải để mở rộng màn hình xem cho đẹp.
Cám ơn Quí Vị

Nhìn Ra Bốn Phương

Thứ Bảy, 4 tháng 3, 2023

Đại Bàng Bị ‘Buộc cánh  - Trần Lý

F-5A.
Bốn mươi năm qua từ khi ‘Bầy chim vỡ tổ‘ đem theo niềm đau viễn xứ, xin nhìn lại khoảng thời gian xưa để cùng suy nghĩ thân phận nhược tiểu..Sau ngày ngưng chiến 27 tháng Giêng 1973, KQ VNCH được xếp vào Không lực đứng hàng thứ 4 trên thế giới về số lượng phi cơ với 2075 chiếc, gồm 25 loại khác nhau. KQ VNCH có đến 65 phi đoàn , quân số lên đến 61, 147 người. Tháng 4 năm 1975..vai trò của KQ VNCH hầu như không còn hữu hiệu trong việc yểm trợ bộ binh chống đỡ các đợt tấn công của CSBV. Bài viết xin góp nhặt một số dữ kiện được ghi nhận trong:
<!>
– Air War over South Vietnam 1968-1975 (Bernard C. Nalty)
– Flying Dragons: The SouthVietnamese Air Force (Robert C. Mikesh)
– Những ngày cuối của Việt Nam Cộng Hòa (Cao văn Viên)
– Quân sử Không Quân Việt Nam Cộng Hòa (Lý Tưởng Úc Châu)
– Vietnam from Cease-Fire to Capitulation (William Le Gro)
– The Fall of South Vietnam : Statements by Vietnamese Military and Civilian Leaders
(Rand Corporation)

* Những vấn đề..từ phi cơ:

Không Quân VNCH, trước ngày ’Ngưng bắn theo Hiệp định Paris’ đã được nhận (đúng hơn là bắt buộc phải nhận) một số lượng phi cơ và quân dụng vượt quá khả năng tiếp nhận qua các Chương trình chuyển giao quân cụ Enhance và Enhance plus. Những phi cơ ’ồ ạt’ bàn giao gồm các phi cơ vận tải C-130, phi cơ tuần tra ven biển RC-119G, phi cơ phản lực F-5, A-37, và những trực thăng UH-1 và CH-47 tử Lục quân HK và vài loại khác như các phi cơ quan sát O-2, huấn luyện T-37..

Phi cơ thì nhiều nhưng nhân viên bảo trì và Phi công lại chưa đủ để sử dụng..Tướng Jimmy L. Jumper, Trưởng Toán Cố vấn KQ cho rằng..’ cứ có quân dụng sẵn đi , rồi tính sau..’
Nhưng trên thực tế , việc bàn giao phi cơ và quân dụng khẩn cấp, ’thiếu tính toán (?)’ này đã đặt KQ VNCH vào một tình trạng bất ngờ và..rối rắm.
.

C-119.
– Các phi cơ C-130, đã cũ và hao mòn nhiều, đòi hỏi sự tu bổ và bảo trì của 199 nhân viên dân sự hoạt động theo hợp đồng giữa Chánh phủ HK và Công ty Lear Sigler, ngoài ra còn phải trả thêm chi phí thuê bao cho 2 nhân viên kỹ thuật đại diện của Công Ty Lockheed (mọi chi phi dĩ nhiên là tính hết vào ngân khoản viện trợ).
– Chương trình RC-119G là chương trình..xài tiền viện trợ mà ..không hoạt động được, tuần thám ven biển không hiệu quả như uớc tính trên giấy tờ! Trên nguyên tắc các phi công đã từng bay C-119 và C-47 , sau khi xuyên huấn sẽ có thể điều khiển RC-119G dễ dàng, nhưng vấn đề là không có các nhân viên phi hành, và việc chuyển 13 chiếc AC-119G thành RC-119G lại quá tốn phí: mất hơn 4 triệu USD! Khi phi cơ được chuyển đổi xong, vấn đề hoạt động chiến thuật lại gặp trở ngại: các tàu, thuyền vận tải xâm nhập của CSBV, trang bị súng phòng không và hỏa tiễn SA-7 gây khó khăn cho các phi cơ bay chậm và hơn nữa, do được hoạt động gần như tự do trên đường mòn HCM, CSBV hầu như không ..cần đến việc tiếp tế bằng đường biển nữa!
– Phi cơ khu trục yểm trợ bộ binh A-1, theo dự kiến sẽ được dùng thả các loại bom cải tiến thay cho bom napalm (xăng đặc) thành bom ‘chứa khí đốt hóa lỏng=propane bomb’ cũng đang ở vào thời gian cuối của ’tuổi thọ‘.Cấu trúc phi cơ đã vượt quá thời gian được phép xử dụng. Skyraider không thể chúi theo gốc độ hẹp hơn 30 độ, và không thể ‘kéo’ được quá 4 Gs (gấp 4 lần sức hút của trái đất).. Các giới hạn kỹ thuật này ảnh hưởng nhiều đến khả năng oanh kích của phi cơ, giới hạn sự hữu hiệu của các phi vụ yểm trợ hỏa lực.

– C-47, loại phi cơ vận tải sản xuất từ thời 1930, tuy vẫn còn khá hữu hiệu trong các phi vụ thả hỏa châu soi sáng chiến trường và trợ giúp các tiền đồn khi bị CQ tấn công, lại được dự trù chuyển đổi thành các EC-47s để dùng trong các phi vụ không thám. Các trang thiết bị trên các EC-47 từ Hoa Kỳ chuyển giao sang cho VNCH đã bị hư hại và ‘hao mòn’ nhiều qua thời gian sử dụng liên tục, không được tu bổ, sửa chữa kịp thời..Nhân viên khai thác tin tức và không ảnh thiếu kinh nghiệm, không ước đoán nổi tình hình và không ảnh sau khi chụp, phải mất đến 5 ngày để đến tay nhân viên khai thác (?).
– Trực thăng UH-1, thành phần chính trong Lực lượng trực thăng của KQVNCH: Số lượng phi cơ tiếp nhận vượt quá khả năng bảo trì..chưa kễ sự chậm trễ trong việc cung cấp các cơ phận thay thế..
– Phi cơ Caribou C-7 hầu như ngưng hoạt động vì không còn cơ phận sữa chữa, phải dùng phương thức tháo bộ phận còn tốt của phi cơ nằm ụ để thay cho phi cơ khác khi cần..

* Từ dự kiến đến thực tế:

Vào mùa Hè 1974, Các Bộ Chỉ Huy Không quân HK tại Khu vực Thái bình dương và Bộ Chỉ Huy Tiếp vận KQHK đã xem xét lại cơ cấu tổ chức của KQ VNCH để đưa ra những khuyến cáo trong mục đích giúp VNCH tự chống trả những cuộc tổng tấn công kiểu Mùa Hè đỏ lửa (1972) của CSBV. Tuy đứng trước tình hình Quốc Hội HK và áp lực của công luận Mỹ đang dự trù cắt giảm viện trợ, bản khuyến cáo này vẫn dựa trên ’ giả thuyết Không lực HK sẽ can thiệp khi VNCH bị tấn công!

Một số điểm được nêu ra:

– Vấn đề thu thập tin tình báo: Nhóm nghiên cứu cho rằng với lực lượng không thám cơ hữu gồm 12 chiếc RC-47, 32 chiếc EC-47 và 7 chiếc RF-5, có thể tạm đủ nhưng đề nghị chia RF-5 thành 2 nhóm, đồn trú tại Đà Nẵng và Biên Hòa (thay vì tập trung hết tại Biên Hòa) để RF-5, vì tầm hoạt động tương đối hẹp, có thể bao vùng dễ dàng hơn và KQVN cần áp dụng thêm kỹ thuật chiến lược, hổ trợ cho RF-5 bằng cách dùng RC-47 hay EC-47 thả hỏa châu trên khu vực cần chụp không ảnh, để giúp RF-5 tránh hỏa tiễn SA-7.
– Bản nghiên cứu cho rằng với 200 phi cơ quan sát hướng dẫn mục tiêu oanh kích, KQ VNCH có đủ lực lượng để hoạt động hữu hiệu. Phi cơ U-17 tuy được đánh giá là loại thích hợp nhất cho các phi vụ vận tải nhẹ và liên lạc, nhưng không thích hợp cho các quan sát viên. Sự đe dọa của SA-7 đưa đến đề nghị nên sử dụng các nhân viên điều khiển yểm trợ ở ngay tại chiến trường dưới đất và dùng F-5 như một phi cơ hướng dẫn mục tiêu ở những khu vực CSBV đặt hệ thống phòng không dầy đặc.
– Sự thay đổi từ các F-5 A, B sang F-5E được xem là rất thích ứng để KQ VNCH có thể bảo vệ không phận chống trả các MiG-21 và một phi đoàn F-5E đặt tại Đà Nẵng là tốt nhất, để khi cần có thể ’tung’ ra được 20 phi xuất trong vòng 2 giờ.

– Về phương diện vận chuyển, bản nghiên cứu ghi nhận số lượng phi cơ vận tải, dù hoạt động hết năng suất, cũng sẽ không đáp ứng nổi nhu cầu vận chuyển của Quân lực VNCH . Quản trị thật tốt cũng không thể tăng nổi năng xuất.
– Lực lượng trực thăng, có vẻ như..tạm đủ (?). Số lượng trực thăng UH-1 sử dụng trong các cuộc hành quân không vận của Quân lực HK vào khoảng 842 chiếc, nhưng với QL VNCH con số 640 có thể vừa đủ vì VNCH không có đủ khả năng ’hành quân không vận’ trên các chiến trường rộng lớn, Con số CH-47 được xem là thích hợp để dùng trong các nhu cầu vận chuyển nặng và gần.
– Con số phi cư khu trục và tấn kích, theo bản nghiên cứu, được xem là thiếu 127 chiếc , tuy nhiên có thể dùng các AC-47 và AC-119K để giúp tăng hỏa lực khi cần. Chỉ cần tu bổ và bảo trì tốt, các F-5s , A-37 và A-1s có thể giúp chống đỡ đuợc các đợt tấn công của CSBV.

.. và.. thực tế..:

Dự kiến trên có vẻ như KQ VNCH sẽ có thể yểm trợ hữu hiệu cho Bộ binh trên chiến trường nhưng ngay từ khi bản nghiên cứu được công bố, Tướng John Murray ( tháng 10-1974) đã cảnh cáo là ‘có rất nhiều điểm thiếu sót và khiếm khuyết , để giới hạn sự hữu hiệu (được bản nghiên cứu cho là) của KQ VNCH ‘ (Tuớng John Murray là Trưởng toán cố vấn DAO gồm 50 nguời, hoạt động phối hợp cạnh QL VNCH, kiểm soát các nhà thầu dân sự trong các hoạt động yểm trợ về bảo trì và tiếp liệu. DAO không trợ giúp VNCH về các vấn đề quân sự. DAO được đặt dưới quyền chỉ huy tổng quát của ĐS HK Graham Martin)


Phi công KQVNCH.

Theo nhận xét của Murray:

– Các phi công VNCH rất can đảm và liều lĩnh nhiều khi vượt quá mức cần thiết. Để tránh nguy cơ bị bắn hạ do SA-7 và các hệ thống phòng không điều khiển bằng radar của CSBV, họ ít khi liều lĩnh tấn công các mục tiêu dưới đát, từ cao độ dưới 10 ngàn feet. Các tai nạn do liều mạng và bất tuân luật lệ an phi, chở ‘thêm’ người trái phép (joyriding), đậu phi cơ bất kể nơi quy định.. có khi ’say xỉn’..đã làm KQ VNCH mất số lượng phi cơ..tương đương với một phi đoàn ?.
– Trong khi các phi công tự làm hao hụt phi cơ thì phòng không CSBV gây thêm những tổn thất.. Cho đến tháng 6 năm 1964, CQ đã bắn 136 quả SA-7, trị giá khoảng 680 ngàn USD đễ bắn hạ 23 phi cơ VNCH trị giá đến 12 triệu USD . Vũ khí phòng không của CQ đã tỏ ra nguy hiểm đến mức VNCH không còn kiểm soát nổi những vùng không phận dọc biên giới Miên, Lào và như tại Vùng I, phi cơ của KQ VNCH hầu như chỉ hoạt động trên vùng ven biển. Tai nạn và hỏa lực của CQ đã làm KQ VNCH mất 237 phi cơ (trong khoảng thời gian 23 tháng sau ngày đình chiến
– Chi phí cho KQ VNCH trong Tài khóa 1974 lên đến 382 triệu USD, chưa kể chi phí về bom đạn.

Tốn kém hơn cả chi phí cộng chung của Lục quân và Hải quân! KQ còn đòi hỏi thêm sự cộng tác của 1540 chuyên viên yểm trợ từ Nhà thầu Quốc phòng Mỹ như Lear Sigler, trong khi dó Lục quân chỉ cần 723 nhân viên và Hải quân cần..61 người. Trong số 466 nhân viên dân sự do Chính Phủ HK gửi giúp Quân lực VNCH thì 202 nguời làm việc cho KQ.. Tướng Murray đã cho rằng KQ VNCH..quá tốn kém để hoạt động trong một không phận bị thu hẹp..

* Cơ cấu tổ chức:

Bernard Nalty ghi: Tuy các cố vấn HK đã cố gắng, qua trên 10 năm để tổ chức KQ VNCH theo kiểu’ KQ HK, nhưng không thành công. Mục tiêu để có một Sĩ quan KQ chỉ huy lực lượng KQ biệt lập trong QL VNCH đã không đạt được trong suốt thời gian cuộc chiến..

Cách hoạt động của QL VNCH là các Tướng Vùng, toàn là Bộ binh, có toàn quyền trên các đơn vị , kể cả KQ, trong Vùng của họ. Nguời Sĩ quan KQ , chỉ huy Trung Tâm Hành quân Chiến cuộc KQ điều hành các phi vụ hành quân yểm trợ trong Vùng trách nhiệm, thường là một Đại tá hay Trung tá KQ phải báo cáo với Sĩ quan Chỉ huy hành quân của Vùng (là SQ BB), đồng thời liên lạc với các Tuớng Tu lệnh Su đoàn trực thuộc Quân đoàn. KQ VNCH không có những Bộ Chỉ huy theo kiểu ..HK và Bộ TTM QL VNCH hầu như gồm toàn SQ BB ..

KQ VNCH thiếu khả năng hành quân ‘mềm dẻo‘ kiểu HK. Đa số các phi vụ đều đã được ’dự trù’ theo kế hoạch định trước; rất ít khi Trung tâm điều hành hành quân có thể thay đổi mục tiêu oanh kích phù hợp với nhu cầu chiến trường! Các quyết định ‘cứng ngắc’ trong các phi vụ oanh kính hoàn toàn tùy thuộc vào sĩ quan liên lạc không trợ, chỉ định đi theo đơn vị hành quân và quan sát viên chỉ điểm mục tiêu trên phi cơ quan sát. Sĩ quan liên lạc không trợ bên cạnh các Bộ tư lệnh cao hơn cấp tiểu đoàn thường là những sĩ quan KQ trung cấp, được huấn luyện cấp tốc và có nhiều khi không phải là phi công, và dù cho họ từng là phi công, họ cũng chỉ đóng những vai trò phụ thuộc trong các kế hoạch hành quân do các sĩ quan BB vạch ra .. Các sĩ quan Bộ binh sau khi được học một khóa cấp tốc 30 ngày về KQ, được đưa vế cấp Tiểu đoàn để phụ trách liên lạc không trợ.

Khả năng yếu kém của Bộ Chỉ huy Tiếp vận KQ trong việc theo dõi chiến cụ tồn kho cũng gây thêm trở ngại cho vấn đề thiếu cơ phận bảo trì.Tính đến cuối tháng 10-1973, Bộ Chỉ huy Tiếp vận KQ có nhận số đáp ứng 92% cấp số dự trù nhưng thiếu kinh nghiệm và chỉ được huấn luyện cấp tốc về tiếp vận.. Máy điện toán tại các Bộ Chỉ huy, giữ các dữ kiện về hàng tiếp liệu tại các kho Vùng thường bị trở ngại trong các mùa Xuân và Hè (?) (Năm 1973, trong thờì gian kéo dài đến 30 ngày, hệ thống điện toán tiếp vận KQ tại Căn cứ Tân Son Nhứt.. hầu như ngưng hoạt động đến 65%, một hệ thống điện toán lưu động đặt tại Căn cứ Clark, ở Philippines đã phải can thiệp và trong khoảng thời gian từ tháng 7 đến tháng 9 đã giúp chuyển vận, giải quyết đến 400 ngàn trường hợp).

* Những con số viện trợ..và tiếp liệu:

Vấn đề viện trợ của Hoa Kỳ được Tướng Cao văn Viên, Tổng Tham mưu Trưởng QLVNCH ghi nhận riêng về phần ngân khoản dành cho KQ như sau:

Sau khi ngân khoản bổ túc 300 triệu bị Quốc Hội HK bác bỏ, Ngân khoản được cấp cho QL VNCH chỉ còn 700 triệu, ( nghĩa là chỉ đủ cho phân nửa nhu cầu tối thiểu của quân đội VNCH)
Không Quân: cần 414 triệu, được nhận 183 triệu (44% ngân khoản yêu cầu)


A-1H.

Vời số ngân khoản ít hơn, KQ VNCH phải:

– Đinh động 200 phi cơ các loại gồm A-1, C-47, C-119 và O-2
– Hủy bỏ chương trình thay thế phi cơ F-5A bằng F-5E. Tiền dự chi cho 36 chiếc F-5E được hoàn trả cho HK để chuyển sang các chương trình khác cần thiết hơn.
– Hồi hương 400 Sinh viên sĩ quan đang theo học bay phản lực và trực thăng tại HK.
– Trên 1000 chuyên viên KQ đang theo học Anh ngữ để chuẩn bị theo học các ngành về bảo trì hay các ngành không phi hành ở ngoại quốc bị đình chỉ và chuyển sang các đơn vị tác chiến.
– Các cắt giảm và thuyên chuyển này gây một tác động tâm lý tiêu cực chung cho Quân chủng KQ.
– Giảm giờ bay thực tập và giảm số phi suất yểm trợ: KQ VNCH chỉ cung ứng nổi 50% nhu cầu yểm trợ hỏa lực và 58% nhu cầu không thám, làm giảm rất nhiều khả năng theo dõi sự xâm nhập, tập trung quân và di chuyển của CSBV.
– Sự vận chuyển bằng trực thăng bị giảm đến 70%, gây trở ngại nhiều cho các nhu cầu tản thương, tăng viện quân và tiếp tế..
– Không vận bằng phi cơ vận tải bị cắt giảm đến 50%: Các C-130, phương tiện chuyển vận chính của KQ VNCH bị trưng dụng vào các phi vụ thả bom, do trở ngại về cơ khí, hư hỏng do thiếu cơ phận bảo trì ..đa số trở thành bất khiển dụng: mỗi ngày chỉ có 4 đến 8 chiếc khả dụng (trong tổng số 32 chiếc đang có)

Quân sử Không quân (trang 190) ghi rõ hơn:

– Số phi cơ bị đinh động là 224 chiếc gồm:
– Toàn bộ các A-1 Skyraider: 61 chiếc, tồn trữ trong bọc, rải rác tại nhiều Căn cứ (ghi chú của TL: Các A-1 của Phi đoàn 530 Thái Dương tại PleiKu bị đinh động và ’đóng gói’ để trở thành ’chiến lợi phẩm’ cho CSBV khi VNCH rút khỏi Vùng 2.)
– Vận tải Caribou C-7: 52 chiếc ( tại Pleiku, Phù Cát..)
– Phi cơ quan sát O-2 Skymaster 31 chiếc
– Vận tải võ trang AC-47, AC-119 : 34 chiếc
– Một số trực thăng UH-1 (31 chiếc)
(Theo The Flying Dragon: trong số phi cơ bị đinh động còn có cả các T-37 và T-41 của Trung Tâm Huấn luyện KQ Nha Trang).

Trực thăng UH-1,

Đại Tá Le Gro: Số phi đoàn bị cắt giảm từ 66 xuống 56; không có phi cơ để thay thế cho 162 chiếc bị thiệt hại, giờ bay cằt giảm, bớt nhân viên dân sự HK yểm trợ..’

Quân sử KQ cho biết thêm: ’Vì bom đạn và nhiên liệu dự trữ chỉ đủ dùng trong 2 tháng, các phi vụ bị hạn chế tối đa. Các phi cơ khu trục chỉ được trang bị phân nửa bom đạn và mỗi trái bom thả phải báo cáo về Bộ Tư lệnh QK!..Đây là khoảng thời gian duy nhất trong cuộc chiến ..KQVN thặng dư phi công!’. Hơn nữa cũng vì lý do ngân sách, KQVNCH đã phải cho đóng cửa các căn cứ phụ thuộc ở Cam Ranh, Tuy Hòa và Chu Lai. Các phi trường Phú Bài và Ban Mê Thuột cũng không còn các biệt đội thường xuyên trú đóng..

* Tình hình tiếp liệu:

Những ghi nhận từ Tổng Cục Tiếp vận còn có phần ’bi đát’ hơn:

Đại Tá Phạm Kỳ Loan , Tổng cục phó Tổng cục Tiếp vận, cho biết (về phần liên hệ đến KQ):

‘ Trở ngại quan trọng nhất cho chúng tôi là ‘Cơ phận thay thế‘ nhất là của phi cơ. Một ví dụ là trường hợp của phi cơ vận tài: lực lượng chính là các C-130 A. Đây là loại phi cơ cũ, không còn dùng trong Không lực HK, do đó rất khó tìm được cơ phận thay thế, chúng tôi có 30 chiếc nhưng chỉ dùng được 5 chiếc mỗi ngày (tôi biết rất rõ, vì tôi là người cung cấp phương tiện chuyển vận này), Cơ phận tuy rồi cũng được gửi đến, nhưng phải chờ sản xuất mỗi khi yêu cầu, đặt hàng..vì không có sẵn, và phải chờ khá lâu. Do đó đa số các C-130 phải nằm ụ..Các yêu cầu phải chờ DAO duyệt xét, rồi chuyển sang Okinawa hay đâu đó để thực hiện..Nhu cầu tiếp liệu thường không được cung cấp kịp thời..

Vấn đề đạn dược và xăng dầu là những trở ngại không kém quan trọng: Để tiết kiệm chúng tôi phải giới hạn nhu cầu về hỏa châu (!) và nhiều loại bom, đạn khác..Nhiên liệu quan trọng nhất là GP4 dùng cho trực thăng và phi cơ chiến đấu: Các trực thăng như UH-1 và Chinook đã phải cắt giảm giờ bay..Việc yểm trợ chiến trường do giới hạn của KQ đành phải chuyển sang Pháo binh.. Và Pháo binh cũng không cón đạn!

* Ghi nhận của các Vị chỉ huy Không Quân:

Nếu chỉ nhìn qua con số hơn 2000 phi cơ các loại vào ngày Ngưng bắn thì KQ VNCH sẽ là một lực lượng quan trọng để giữ cân bằng cán cân quân sự đối đầu với CSBV, nhưng trên thực tế..lại không xẩy ra như dự kiến. Đối với QL VNCH khi nói đến không yểm của KQ , các cấp Chi huy ( ngay cả TT Thiệu) đều nghĩ ngay đến B-52 cùng các phi cơ phản lực tân tiến nhu F-4.. kèm theo sự tin tưởng là HK sẽ tiếp tục can thiệp bằng B-52 (như năm 1972) khi CSBV vi phạm Hiệp ước Paris (!).

Tuy nhiên sự mất hữu hiệu của KQ VNCH còn do một số yếu tố chiến thuật:

Một sĩ quan cao cấp KQ VNCH (sau khi được huấn luyện như một sĩ quan pháo binh, rồi chuyển sang KQ) cho biết:

’ KQ bị giới hạn do việc chỉ huy các phi cơ được đặt dưới quyền các Tư lệnh Vùng và nhiệm vụ duy nhất của KQ là yểm trợ Bộ binh, điều đó trên căn bản có nghĩa là khi Bộ binh không ngăn chặn được địch quân thì sẽ phải dùng đến KQ. Tuy nhiên, trên chiến trường, việc tập trung hỏa lực không phải do KQ quyết định mà do Bộ TTM, vì Bộ TTM là nơi phân phối các phi vụ..bao gồm cả số phi xuất và loại bom cho phép thả. Bộ TTM làm điều này bằng quyết định con số phi cơ cấp cho mỗi Vùng; và KQ không có quyền chỉ định số phi xuất và loại bom đạn sử dụng mà phải do Tư lệnh Vùng quyết định và cho phép.’

Về khả năng của phi cơ, Ông cho biết thêm:

‘ F-5 là một loại phi cơ rất tốt, các phi công rất thích bay loại này, nhưng F-5 không thích hợp cho chiến trường VN. Phi cơ tốt nhưng không đủ trọng tải và tầm hoạt động giới hạn..chỉ bay được trong 1 giờ 15 phút. Chúng tôi cần những phi cơ có thể thả bom trên những cao độ ngoài tầm sát hại của SA-7. Với sự cố vấn của KQ HK, chúng tôi tìm ra phương pháp thả bom từ cao độ trên 10 ngàn feet..Nhưng trên thực tế cách thả bom này đã làm đi mất sự chính xác khi oanh kích,,’

(Anthony Tambini, một chuyên viên bảo trì F-5, cạnh KQ VNCH, cho biết ( trong F-5, Tigers over Vietnam): F5-A và B mang được tối đa 6200 lb bom đạn, khi mang trọng lượng tối đa này, kể cả 500 viên đạn đại bác 20 mm, tầm hoạt động là 220 miles; F-5E , tuy mang lượng bom đạn cao hơn: 8000 lb và 560 viên 20 mm nhưng tầm hoạt động chỉ còn 200 miles. Trong khi đó A-37 mang tối đa 5400 lb trong tầm 460 miles

A-37.

Đại Tá Vũ văn Uớc, Chỉ huy Hành quân của KQ VNCH cho biết:

Đa số các phi cơ của KQ VNCH được chế tạo từ 10, 15 và thậm chí từ 30 năm trước , ngoại trừ các A-37 (chế tạo mới dựa theo T-37) và các F-5E, Các phi cơ cũ rất chậm so với khả năng của phòng không CSBV, nhất là SA-7 và các đại bác cỡ lớn có thể bắn hạ phi cơ ở cao độ 18 ngàn feet.. Nói cách khác, phi cơ của KQ VNCH là mục tiêu khá dễ bắn hạ của CSBV trong những năm 1973-75 khi họ tập trung các lực luợng phòng không dày đặc tại các chiến trường mà họ đã chọn lựa sẵn..CSBV thay đổi chiến thuật, di chuyển rất nhanh khi tấn công vào các thị trấn chọn sẵn tại những nơi KQ VNCH gặp nhiều trở ngại khi yểm trợ quân trú phòng..

Sự liên lạc giữa lực lượng dưới đất và không quân trên cao rất yếu kém, nên việc yểm trợ từ trên không mất đi sự hữu hiệu.. Vào giai đoạn cuối của cuộc chiến, Bộ binh VNCH không bảo vệ an toàn được cho các phi trường nên KQ không thể..hoạt động (!), Nếu các căn cứ KQ có được sự bảo vệ cần thiết thì KQ có thể hữu hiệu hơn. Chúng tôi mất khả năng tấn công địch quân vì các căn cứ bị pháo kích liên tục.. Trực thăng không phải là một phương tiện chuyển vận tốt trong chiến tranh du kích, và khi sử dụng C-130, mỗi khi đáp và cất cánh..phi trường đều bị pháo kích (!). Muốn được an toàn, Bộ binh cần giúp bảo vệ một khu vực ít nhất 20 miles quanh Căn cứ KQ.. Bộ binh không đủ sức bảo vệ Căn cứ..nên KQ không thể hoạt động!

* Vài con số trong những ngày sau cùng:

– Vào thời điểm đầu tháng Giêng 1975: Lực lượng khu trục của KQ VNCH được ước lượng là còn khoảng 390 phi cơ gồm các loại A-37 và F-5, trong số này 90% ở tình trạng hoạt động được, được ước tính thì là 273 phi cơ.
– Sau khi ’mất’ Vùng 1 và Vùng 2, Bộ TTM bắt đầu, cung cấp các phi vụ yểm trợ cho các Vùng 3 và 4 theo kế hoạch từng ngày, và lầu đầu tiên trong cuộc chiến, Bộ Tư lệnh KQ Chiến thuật tại TSN được ’chia’ cho 20 phi suất mỗi ngày và được tự chọn mục tiêu oanh kích!
– Trong khoảng thời gian từ 1 đến 19 tháng 4/1975, KQVN thực hiện được trung bình mỗi ngày 180 phi vụ chiến đấu trong đó Bộ TTM dành 100 cho Vùng 3 và 60 cho Vùng 4. Riêng trong trận Xuân lộc (Long Khánh), KQ VNCH đã yểm trợ trên 600 phi suất..
– Vào thời điểm Xuân Lộc, KQ VNCH còn 1492 phi cơ, trong đó 976 chiếc hoạt động được, 135 chiếc hư hỏng và 381 chiếc bị bắn hạ và vứt bỏ. Lực lượng khu trục còn đuợc 169 chiếc A-37 và 109 chiếc F-5 các loại A,B và E/ trong đó 92 A-37 và 93 F-5..bay được (có thể kể thêm khoảng 10 chiếc A-1 đem ra dùng lại), ngoài ra còn một số AC-119 góp phần, chung sức với A-1 Skyraider trong những phi vụ cuối cùng trên không phận Sài Gòn.

Trần Lý

Không có nhận xét nào: